Nov 21, 2024

Thơ dịch

Trường Tương Tư, tác giả Lương Ý Nương và những bài thơ dịch của Con Cò Thơ
Con Cò * đăng lúc 08:54:32 PM, Jul 22, 2017 * Số lần xem: 2157
Hình ảnh
#1


* đăng lúc 09:19:27 PM, Feb 04, 2015 * Số lần xem: 581


 
Lời nói đầu:
Có ba danh tài Trung quốc đã làm thơ với đầu đề Trường Tương Tư:
Lương Ý Nương, một thiếu nữ 17 tuổi, yêu một chàng trai nhưng bị cha mẹ ngăn cấm, sau nhờ bài Trường Tương Tư mà được kết hôn với người yêu.
Hai thi hào Lý Bạch và Bạch Cư Dị cũng có thơ với đề tài này.
Hãy thưởng thức thơ của cả ba thi nhân do Con Cò dịch.
 
 
LƯƠNG Ý NƯƠNG
 
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ                 TƯƠNG TƯ  SÂU
Lạc hoa lạc diệp lạc phân phân          Hoa lá rơi rơi hoa lá rơi
Tận nhật tư quân bất kiến quân             Tròn ngày xa cách nhớ rã rời
Trường dục đoạn hề trường dục đoạn       Như muốn đứt hề từng khúc ruột
Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân     Trên vết thương lòng suối lệ trôi.

 
Ngã hữu nhất thốn tâm                    Nỗi nhớ thương em mang
Vô nhân cộng ngã thuyết               Biết cùng ai bày tỏ
Nguyện phong xuy tán vân            Mong gió thổi mây tan
Tố dữ thiên biên nguyệt                  Để vừng trăng thấu rõ.
 
Huề cầm thướng cao lâu          Ôm đàn lên lầu vắng
Lâu cao nguyệt hoa mãn           Lầu cao giữa trăng hoa
Tương tư vị tất chung               Cung tương tư sầu nặng
Lệ trích cầm huyền đoạn         Giây tơ đứt lệ nhòa.
 
Nhân đạo Tương giang thâm    Lòng em lòng sông Tương
Vị để tương tư bạn                  Lòng nào sâu thăm thẳm?
Giang thâm chung hữu để      Sông có đáy có bờ
Tương tư vô biên ngạn            Tương tư mênh mông lắm.
 
Ngã tại Tương giang đầu          Đầu sông Tương em ngóng
2
 
Quân tại Tương giang vĩ           Cuối sông Tương anh nương
Tương tư bất tương kiến      Tương tư sầu lẻ bóng
Đồng ẩm Tương giang thuỷ         Cùng uống nước sông Tương.
 
Mộng hồn phi bất đáo            Trong mơ còn chẳng gặp
Sở khiếm duy nhất tử             Kiếp nào mới thấy nhau?
Nhập ngã tương tư môn       Từ tương tư vướng mắc
Tri ngã tương tư khổ             Đã biết tương tư đau!
 
Trường tương tư hề trường tương tư     Tương tư dài hề tương tư sâu
Trường tương tư hề vô tận cực               Tương tư sâu hề bờ bến đâu?
Tảo tri như thử quải nhân tâm                Nếu hay tương tư day dứt thế
Hồi bất đương sơ mạc tương thức        Thà đừng biết nhau đừng yêu nhau
 
Phân phân: nhiều, ngổn ngang. Dục: muốn. Ngân: sẹo, vết. Thiêm: thêm. Thốn:1 tấc. Thốn tâm: tấc lòng. Thuyết: nói rõ. Xuy: thổi. Tố: cáo, kêu oan. Huề: cầm, ôm. Cầm: đàn cầm (7dây). Vị tất: chưa hẳn là như thế. Đạo: nói. Đề (câu 14): bằng, ngang nhau. Bạn: bờ nước. Chung: hết. Đề (câu 16): đáy. Ngạn: bờ. Đê ngạn: bờ đê. Mộng hồn: tâm hồn như trong mộng. Sở: đại danh từ (như sở đắc, cầu, nguyện, kiến v.v..).Sở khiếm: điều mình thiếu. Tảo: sớm, trước. Thử: ấy, như thế. Quải: trở ngại. Hồi: về. Đương sơ: mới đầu
LÝ  BẠCH
 
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ                 TƯƠNG TƯ SÂU
Kỳ nhất                                             Kỳ 1
Trường tương tư tại Trường An         Tương tư sâu tại Trường An
 Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan                Côn trùng kêu thu bên bờ giếng
Vi sương thê thê điếm sắc hàn          Chiếu lạnh lê thê sương buông màn
 Cô đăng bất minh tư dục tuyệt      Đèn côi leo lét soi sầu muộn
Quyển duy vọng nguyệt không trường thán     Rèm cuốn nhìn trăng mãi thở than
Mỹ nhân như hoa cách vân đoan           Người đẹp như hoa cách mây ngàn
3
 
Thượng hữu thanh minh chi cao thiên      Trên có trời xanh cao vòi vọi
 Hạ hữu lục thủy chi ba lan                  Dưới thì nước biếc sóng tràn lan  
Thiên trường lộ viễn hồn phi khổ        Đường xa trời rộng hồn bay mỏi
 Mộng hồn bất đáo quan san nan          Hồn mộng khó lòng vượt quan san
 Trường tương tư tồi tâm can            Tương tư dài não ruột gan
 
Kỳ nhì                                            Kỳ 2
Nhật sắc dục tận hoa hàm yên           Vừng ô sắp tắt hoa ngậm sương
Nguyệt minh như tố sầu bất miên       Buồn trông trăng lụa thức canh trường
 Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ      Đàn sắt vừa ngừng chơi khúc Triệu
 Thục cầm dục tấu uyên ương huyền    Đàn cầm khởi tấu Thục uyên ương
 Thử khúc hữu ý vô nhân truyền       Nhạc khúc hữu tình người xao nhãng
 Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên   Gởi tới Yên Nhiên theo gió xuân
 Úc quân thiều thiều cách thanh thiên    Nhớ chàng thăm thẳm trời xanh ngắt
 Tích thì hoành ba mục                        Xưa long lanh sóng mắt
 Kim tác lưu lệ tuyền                           Nay lệ chảy thành sông
 Bất tín thiếp trường đoạn                    Không tin thiếp đau lòng
Qui lai khán thủ minh kính tiền             Quay về nhìn thiếp trước gương trong
 
Yên nhiên: nơi chàng đang ở. Lạc vĩ: tên 1 loại sâu, kêu rất to khi thu về. Tích lan: lan can trên mặt giếng. Điểm: chiếu bằng mây hay tre. Thanh minh: sắc xanh và cao xa. Lục thủy: nước trong. Triệu sắt: người nước Triệu khéo gẩy đàn sắt nên xưng là Triệu sắt. Thục cầm: đàn Thục. Tư Mã Tương Như khéo gẩy đàn cầm nên người đời gọi là Thục cầm.  Hoành ba mục: nói về con mắt nhìn nghiêng giống như làn sóng nước nằm ngang. Phụng hoàng trụ: cái trụ của đàn sắt có khắc hình chim phượng. Trân tu: món ăn ngon. Thái hàng: tên núi. Kỳ lộ: con đường bên. Trường phong phá lãng: Gió lớn sóng to
 
 
 
 
BẠCH CƯ DỊ
 
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
Kỳ 1                                      Kỳ 1
Biện thủy lưu                         Sông Biện trôi mau
Tứ thủy lưu                           Sông Tứ trôi mau
4
 
Lư đáo Qua châu cổ độ đầu    Trôi vượt cồn Qua bến cũ sâu
 Ngô sơn điểm điểm sầu     Núi Ngô man mác sầu.
Tứ du du                              Ý rầu rầu
 Hận du du                             Hận rầu rầu
Hận đáo qui thời phương thủy hưu     Hận tới tàn đời niềm hận sâu
 Nguyệt minh nhân ỷ lâu          Sáng trăng ai tựa lầu
 
Biện,Tứ: sông Biện và sông Tứ. Thủy: nước. Qua: bãi, cồn Qua. Ngô: nước Ngô. Cổ độ: bến đò xưa.       Điểm điểm: hơi một chút, nhè nhẹ. Du du: xa xôi, lửng lơ.  Phương: vuông vắn. Thủy: mớ đầu
 
Kỳ 2                                      Kỳ 2
Cửu nguyệt tây phong hưng     Tháng chín gió tây lộng
Nguyệt lãnh sương hoa ngưng    Trăng lạnh hoa sương đọng
Tư quân thu dạ trường          Nhớ chàng đêm thu dài
 Nhất dạ hồn cửu thăng           Chín lần hồn tung bay
 Nhị nguyệt đông phong lai    Gió đông về tháng hai
Thảo sách hoa tâm khai        Tim hoa nở cỏ tươi
 Tư quân xuân nhật trì                Nhớ chàng ngày xuân chậm
 Nhất nhật trường cửu hồi         Chín khúc ruột đau quặn.
 Thiếp trú Lạc kiều bắc             Cầu Lạc chia đôi đường
Quân trú Lạc kiều nam              Em phía bắc chàng nam.
Thập ngũ tức tương thức         Biết nhau thuở mười lăm
Kim niên nhị thập tam           Tuổi nay hăm ba năm.
 Hữu như nữ la thảo              Em như nữ la cỏ
Sinh tại tùng chi trắc                Leo lên thân cây tùng
Mạn đoản chi khổ cao             Quấn mãi chưa tới đó
Oanh hồi thướng bất đắc          Dây ngắn cành cao ngồng.
 Nhân ngôn nhân hữu nguyện    Sách nói tâm nguyện có
 Nguyện chí thiên tất thành        Hễ thấu trời trời thương.
Nguyện tác viễn phương thú      Nguyện làm con thú nhỏ
 Bộ bộ tỷ kiên hành                   Mỗi bước đi bên chàng
 Nguyện tác thâm sơn mộc        Nguyện làm cây núi trổ
Chi chi liên lý sinh                    Cành gần nhau tấc gang
5

Lời bàn của ConCò:  Lúc làm bài này Lương Ý Nương  tưởng như đã vĩnh viễn mất người yêu nên lời thơ bi ai thống thiết. Chỉ 4 câu mộc mạc ( Quân tại Tương giang đầu. Thiếp tại Tương giang vỹ. Tương tư bất tương kiến. Đồng ẩm Tương giang thủy) cũng đủ vô địch thế gian rồi, qua mặt cả thi bá Lý Bạch và thi thánh Bạch Cư Dị. Sông Tương trong thơ và nhạc Việt là dùng điển tích của bốn câu thơ này.
Trường Tương Tư của họ Lý và họ Bạch (theo thiển ý của Cò) không bì kịp. Không phải thua vì tài năng mà thua vì cái mức độ chân thành.. Họ Lý có hàng chục người tình (vợ, đào nương) và chỉ tạm thời xa người yêu nên khóc mà mắt không ướt. Họ Bạch khóc người tình trong thời gian bị biếm cho nên nước mắt cho người tình có pha lẫn nước mắt cho sự nghiệp. Mức độ chân thành mà thua thì hồn thơ cũng thua. Tới đây xin bàn qua về kỹ thuật thơ của 3 người. Thơ của Lương Ý Nương trôi từ trong tim qua ngòi bút cho nên không cần tới kỹ thuật điêu luyện. Thơ của họ Lý quá nặng về kỹ thuật nên thiếu hồn thơ.  Thơ của họ Bạch ở giữa 2 người trên, bài 1 giầu âm điệu và suy tưởng, bài 2 diễn tả tỉ mỉ, rõ ràng.
Bài của Lương Ý Nương mới đáng gọi là siêu việt. Trộm nghĩ rằng: nhớ vì thương, khóc vì tiếc, nhớ tiếc bằng tâm hồn thấm thía hơn nhớ tiếc qua kỹ thuật.
 
 
 
 
 
TÂN TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
(Tương Tư Sâu Tân Thời)
Con Cò
( Nhái bài TTT của Lương Ý Nương )
 
Trẻ hơn Nương mười ba thế kỷ
Lại già hơn tới sáu mươi niên*
Trác tuyệt thơ em ta bất kể
Tình cuối đời hay tình đầu tiên
 
Tình này ta chia xẻ
Xướng họa cùng em thôi
Dù mưa Tần gió Sở
Dù Nguyệt lão chia phôi
 
Ngâm thơ trong phòng nhỏ
Thơ sầu lên tiếng ngân
Tuyết rơi ngoài khung cửa
Em xa khuất hồng trần
6
 
Lòng ta với lòng em
Lòng ai sâu ai cạn?
Em son trẻ vắng tình
Ta già nua thiếu bạn
 
Trên Ngân hà em đợi
Dưới Ngân hà ta trông
Tình thơ-thơ vời vợi
Hai bến bờ mênh mông
 
Hồn tìm em khi thác
Đời ta sẽ qua mau
Từ thơ-thơ vướng mắc
Đã biết thơ vương sầu
 
Lương Ý Nương hề em Nương thân!
Lương Ý Nương hề hảo thi nhân
Tình ta tình thơ-thơ thắm thiết
Nguyện đọc thơ em tới ngàn lần
 
*  Già hơn Lương Ý Nương 60 tuổi nhưng sinh sau nàng 13  thế kỷ.

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.