Tôi hiểu được nỗi cô đơn của người làm thơ khi ném tác phẩm thứ nhất vào đời.Thi sĩ rất muốn biết đứa con tinh thần của họ được đón nhận,nhìn ngắm cách nào bởi người đọc? (Bao gồm cả những người viết khác.).
Hầu hết các thi tập có hoặc không giá trị đều đã rơi vào khoảng trống tuyệt âm.Thường là những vang vọng yếu ớt vừa đủ để nhắc nhở sự hiện hữu của cuốn sách.Khiếm khuyết chính là chúng ta vẫn thiếu hẳn bộ môn phê bình văn học.Thiếu những cây viết chuyên nghiệp,tầm vóc, đủ khả năng hướng dẫn người đọc,và cả người sáng tác.
Ðôi khi là những ồn ào lố bịch của một thiểu số hám danh, cố dùng mọi ảnh hưởng, kể cả tiền bạc để mua lấy chút hào quang giả tạo cho những ấn phẩm què quặt, thiếu máu của họ. Những bốc nhằng vô tội vạ, những khoa trương rẻ tiền. Những lăm le đem cò bót vào thơ. Ðó là lúc thi sĩ bị sỉ nhục, đáng được ném đá, và đóng dấu nổi trên trán. Thông thường là những “ra mắt” khiêm nhường đây đó, giới hạn trong vòng thân hữu. Vẫn là chạm trán với chừng đó những khuôn mặt long trọng viên,cổ cồn cà vạt kiên nhẫn chờ đợi tới phiên đăng đàn để được dịp khoe khoang sự hiểu biết giới hạn của họ:“Câu này khiến tôi nghĩ đến La-mác-tin, bài kia giống Huy-gô...”
Một số diễn giả khác thảm hơn,hèn hơn, tìm cách ngợi khen bằng những hậu ý chê bai:..” Bài thơ này cực tả được tình yêu và tình nước. Tôi tìm thấy có hai chỗ thất niêm nhưng đọc lên vẫn rất là lưu xướng..” Và sau đó diễn giả cứ thản nhiên lôi thơ mình ra diễn đọc vô tội vạ. Thơ và thi sĩ bị bạc đãi thế đó. Nhưng khắp cánh đồng hải ngoại, thơ chín rỡ bốn mùa. Dường như tháng nào, tuần nào cũng có thơ chào đời, ra mắt. Liên tục như thế từ nhiều năm. Lượng sách chỉ có tăng mà không giảm. Báo chí nào cũng tràn ngập thơ, người viết cũ và mới chung một chiếu ngồi bình đẳng. Hơn bao giờ hết,sự góp mặt cuả những nhà thơ nữ hôm nay đã vượt trội, bỏ xa mọi dấu mốc cuả tiến trình lịch sử thi ca cuả chúng ta. (Ít nhất cũng là về số lượng.) Về phẩm chất, một số nhà thơ nữ hôm nay đã có những chứng tỏ ngoạn mục để nhích tới gần hơn, cái đích muôn trượng của bà Ðoàn Thị Ðiểm, bà huyện Thanh Quan, và Hồ Xuân Hương tiền bối. Thi tập Sương Chiều Thu Ðọng cuả Huệ Thu mang những chứng tỏ ngoạn mục đó. Những hình tượng đầy sức sống sáng tạo, những thanh điệu óng chuốt, rung động chất ngất, tìm thấy rải rác khắp tập thơ nàng:
"Sương Chiều Thu Ðọng mắt âm u
Ai đốt lòng ai khói toả mù”...
(SCTÐ Trang 11)
...” Xa rồi níu chặt thơ kinh
Lời đi giọt lệ chân thành tiễn đưa...”
(Lệ Thưà,sđd tr 28)
...” Gọi người gần mấy cũng xa
nhánh Bonsai quặn lòng ta nỗi người...”
(Gọi Người, SCTD tr 33)
”Ðêm qua ta mơ thấy ta
Vác hòn núi nhớ lội qua biển sầu...”
(Thoáng Nhớ, SC tr 53)
...” Hình như nước mắt em trào
Khi vui có chút nghẹn ngào cũng hay...”
(Em Về,sđd tr57)
...” Ta đau tiếng khóc không còn
Thì thôi cười vậy hao mòn xác thân.”
(Ta Cười Trên Cây Sầu Ðông,sđd tr 65)
Ở hai đoạn thơ thượng dẫn, Huệ Thu có lối diễn tả thật mới và sâu. Có những dòng lệ làm đầy hơn cho cơn vui. Có những tiếng cười đồng nghĩa với nỗi đau đớn, mất mát của tiếng khóc.Vẫn là lấp lánh trong những trang thơ Huệ Thu những hạt ngọc thanh khiết tĩnh mặc của thiền:
“Lên chùa cúi mặt vòng tay
Buồn nghe một thoáng mà đầy không gian...”
”... Lên chùa nghe dạ rưng rưng
Nghe chuông một lúc,nghe lòng vỡ ra...”
(Bờ Mê Bến Giác, sc tr 96)
Vẫn là không khí thiền bàng bạc trong cả những cơn say của người thơ:
“Rượu ta tự rót tự mời
Cái ly sóng sánh,cái đời ngả nghiêng
Ta soi vào rượu cười duyên
Mặt ta vỡ nát mà tim vẫn tròn!...”
(Rượu Còn Ðể Chi,sđd tr 74)
Thơ của Huệ Thu đẹp thế đó. Nàng viết thật dễ dàng, không là thứ thơ công thức. Mỗi bài là một bức tranh chấm phá, không là một bài luận tả cảnh, tả tình theo một khuôn mòn. Nhưng cũng chính là sự dễ dàng ấy đã khiến cho thơ nàng thiếu hẳn sự cân đối ở toàn bài. Tôi rất thích thơ Huệ Thu,nhưng không thích trọn vẹn một bài nào cả.Nhưng thiết nghĩ, điều ấy cũng không có gì quan hệ cho lắm. Ðôi khi chỉ vì một đôi mắt đẹp, người ta sẵn lòng cưới nguyên cả một thiếu nữ đấy thôi. Những giòng tâm cảm trên đây bị khựng lại. Huệ Thu chưa bao giờ được đọc nó. Không chừng nàng còn tưởng là tôi hờ hững với tác phẩm đầu tay của nàng. Có hai lý do khiến tôi bỏ dở bài viết:
Thứ nhất là lúc ấy, đâu đó, trên báo chí đang ồn ào bài giới thiệu của những cây viết đang tìm ngôi vị ảo tưởng ở những khen phứa ,bốc nhằng. (Tôi không muốn làm buồn lòng các người viết ấy, nhưng thật tình là tôi sợ bị ngộ nhận khi nhập cuộc.)
Thứ hai là giữa Huệ Thu với tôi có khá nhiều kỷ niệm muốn giữ riêng với nhau. Từ tâm cảm, chúng tôi đã coi nhau như người một nhà. Như người cùng phái. Truyện gì chúng tôi cũng có thể tâm sự với nhau, kể cả những ngăn riêng tình cảm của mỗi người. Phải thế không Huệ Thu? Và khi nói về thơ nàng, đương nhiên tôi phải nhắc đến một phần những kỷ niệm ấy. Từ đầu năm 1960 Thu theo chồng về Tiểu Ðoàn 5 Nhẩy Dù, đồn trú ở Thủ Ðức. Chồng nàng, Thiếu Úy Nguyễn Bình Thuận, cùng khóa, cùng đơn vị với tôi. Thế nên chúng tôi vui chơi với nhau hàng ngày. Huệ Thu thật ngây thơ vô tội và cũng rất cô đơn khi ấy, bởi Thuận khoái vào trại nhậu với lính của gã hơn.
Thằng khỉ đôi lúc ghen gió với chúng tôi khi bắt gặp “đôi trẻ” thường kéo nhau ra quán nước tâm sự hoặc trao đổi sáng tác mới. Có lần hai đứa tôi cao hứng kéo nhau đi hồ bơi Ngọc Thủy tắm. Ban đêm. Buồn tình, Huệ Thu ôm eo ếch tôi (trên chiếc Rumi 2 máy kêu như bò rống) chạy về Sài Gòn bát phố nhởn nhơ. Thây kệ người ngoại cuộc nghĩ gì tôi không cần biết. Riêng tôi, cho đến lúc ngồi viết những dòng này, chưa hề phạm lỗi với vợ con bằng hữu lần nào. Nếu những tình cảm chúng tôi có với nhau khi ấy có thể gọi là tình yêu, thì đó là thứ tình cao thượng, thuần khiết. Thứ tình yêu lãng mạn, thánh thiện, ở bên này lằn ranh của dục tính. Mình thật hãnh diện với nhau về điều ấy phải không Huệ Thu? Nhớ không cô bé, đêm giao thừa năm nào nhỉ? Hai đứa mình nắm tay nhau đi ầu ơ trên dốc Tam Hà. (Thằng khỉ bỏ mặc cô bé vào nhậu tất niên với lính). Khi trở về, hắn bất chợt gặp hai đứa mình ở gần cổng xe lửa. Hắn lại ghen gió, vừa hát vừa chửi bằng tiếng Tây vui đáo để. Vào trường hợp ấy, có là ông bụt cũng phải ghen và chửi tục vài câu cho hả... rượu. Có lẽ nó ghen thật nên từ đêm đó nó nằm nhà ôm vợ không đi nhậu nữa. Ðêm nay, cũng sắp một giao thưà ở xứ người, anh ngồi trước những trang thơ cuả Huệ Thu và bắt gặp cái rung động của những ngày xưa đọc thơ cô bé cắt từ trong báo.Mình đã từng tranh cãi với nhau nhiều lần về một tứ thơ lạc điệu, một từ ngữ không hoàn chỉnh đó sao? Này cô bé Ðệ Nhất Giai Nhân Thi Sĩ! Với nhau, mình chỉ có một thứ ngôn ngữ thôi. Nói thẳng. Nói thật. Vậy anh nói thẳng nhé. Ðiểm son của nàng là chất sáng tạo, làm mới thi ca ở từ và tứ. (Thiếu phần tưởng tượng thơ chẳng thể đi xa, đừng nói đến bay bổng). Khiếm khuyết của cô bé là điểm đứt hơi. Những phiến thơ nàng đang bay lượn trên vòm cao bỗng thường khi hụt hững rơi xuống khoảng chân không. Nói rõ hơn là cô bé còn quá dễ dãi với thơ. (Hãy cứ làm dáng trong cuộc đời, nhưng đừng làm dáng với thơ.)
“...Hình như nước mắt em trào
Khi vui có chút nghẹn ngào cũng hay...”
Chỉ cần đọc qua một lần, câu thơ ấy đã thấm vào tim tôi. Nó tràn đầy nữ tính. Nét mâu thuẫn là những chấm phá tuyệt vời, sinh động. Không hiểu sao tôi lại liên tưởng đến hình ảnh của một thiếu nữ chán sống nhất quyết tự trầm, nhưng lại sợ lấm đôi hài thêu. Huệ Thu cũng có nhiều mâu thuẫn thế đó. Trong đời. Tôi tin là Huệ Thu sẽ đi rất xa trong thơ. Con ngựa chứng trong nàng từng bất chấp núi cao, vực thẳm, dặm dài. Muốn nhẩy vào ngành truyền thông, Thu tạm biệt chồng, đi Mỹ học tới nơi tới chốn. Muốn đạp trên cánh gió để thấy “Không Gian Vương Dấu Giầy”, Thu đi học một khóa nhẩy dù. Nàng ham sách như loài mọt, và nhậu như hũ chìm. Rồi mê chim, mê cá, mê cây lùn, thứ nào cũng mê tới đích. Thử hỏi trên đời này, nữ lưu như vậy được mấy người? Mạn đàm. Huệ Thu nói trong tiếng cười nồng ấm: “-Bây giờ thì chưa, nhưng Thu sẽ đi xa hơn các anh nhiều lắm. Các anh là ngựa già. Tâm hồn đã chuẩn bị cho một yên nghỉ, đồng nghĩa với phế thải. Này nhé, Hà Huyền Chi thì đang là:“Thơ Trong Da Ngựa”. Thơ đã chuẩn bị lâm chung, đã chuẩn bị một cõi dừng chân. Mai Thảo đang tiến vào nhà mồ với: “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền”. Du Tử Lê thì đã lẫn: “Ði Với Về Cùng Một Nghĩa Như Nhau.”
Thu còn trẻ, Thu mới chỉ bắt đầu. Nhưng là một bắt đầu ngoạn mục với: Sương Chiều Thu Ðọng. Sương mù rồi sẽ tan. Chiều tím rồi chuyển hóa. Thu vàng để thăng hoa. Ðọng là kết tinh của hiện hữu. Ðể nhìn lại và vươn tới...”
Có thể nói là Thu với tôi vốn khắc khẩu. Ðứa này ngang tàng, đứa kia ngang ngạnh. Hai cái ngang đụng nhau là tóe lửa. Lại giận nhau mút chỉ. (Dù thực tình vẫn quý mến nhau, hơn vợ chồng, hơn nhân tình.) Tình cờ xáp lại vẫn là vui như tết. Như là chưa có giận hờn gián đoạn hồi nào. Cứ thế, hai đứa ở hai đầu một sợi dây tưởng tượng với những trì kéo ngất ngư. Tôi gắng thu xếp lại những giằng co của chữ nghĩa đã có với nàng. Một ngày đẹp trời nàng gửi đến tôi đóa thơ tình tự dễ thương:
RỚT XUỐNG ÐỜI SAU
Gặp gỡ như là một thoáng mây
Mây bay qua núi.Mây bay bay
Người ơi,tôi gọi tên nhè nhẹ
Mà lệ lưng lưng mắt cũng đầy.
Tôi nói gì hơn những tiếng thơ
Những cơn đau buốt đến không ngờ
Hình như Thu đến chiều nay sớm
Hay gió buồn nên tôi ngẩn ngơ.
Tôi nói gì hỡi chiếc lá rơi
Tại sao em rớt xuống lòng tôi
Hạt mưa rất nhỏ tôi không đợi
Mà lạnh bao la kín một trời.
Tôi nói gì khi anh bỏ đi
Chẳng cho nghe hẹn một mai về
Mà mai tôi biết không hề nữa
Khi giận hờn trong mắt đỏ hoe.
Gặp gỡ như là một thoáng mơ
Sống thêm trăm tuổi để mong chờ
Người qua ngõ trúc mây vừa tụ
Rớt xuống đời sau những đám mưa.
HuệThu
Tôi đáp lại bằng những vần thống hối cho những tuổi vàng đã mất, kỷ niệm son đã mờ. Và dĩ nhiên là kèm theo những cố gắng níu kéo không tưởng. Bởi trong hiện tại, cả hai đều đang có những hệ lụy không thể tháo gỡ như khi người ta mở một tấm bánh. Dù muốn.
RỚT XUỐNG ÐÀN CÂM
Rớt xuống đời tôi cuộn kẽm gai
Ðóng khung đời bốn lỗ châu mai
Ðời vuông vức thế còn lăn lóc
Em trách tôi thì tôi trách ai?
Rớt xuống đời sau một trái tim
Nhiều năm tiếng nổ vẫn vang rền
Hôm em trả nhẫn trời mưa pháo
Tôi khóc cười trong cõi nhớ quên
Rớt xuống đời sau hạt lệ nàng
Ðủ chia hạnh phúc khắp trần gian
Lá thư hoen lệ tôi còn giữ
Từng chữ thơm nồng nghĩa nát tan
Rớt xuống đời nhau một thoáng vui
Cho dù mũ súng nát như đời
Ngàn muôn mảnh thép không tròng mắt
Sẽ chẳng cần ai lượm xác tôi
Rớt xuống đời nhau trái lỡ làng
Em đi sương trắng một trời tang
Thề không về lại Tam Hà nữa
Lòng bốn mùa thu gío cũng vàng
Rớt xuống quê người một chữ “nhưng”
Chao ơi,đời lại ngát hương rừng
Thì ra em vẫn còn trong nhớ
Những phút giao tình biển tiếp sông
Rớt xuống đàn câm một đoá hoa
Tình yêu muôn thuở vẫn không già
Hai mươi năm cũ bừng giai điệu
Ðiệp khúc ban đầu lảnh lót ca.
Hà Huyền Chi
Từ vô thức,tôi hằng tưởng tới khu vườn thanh nhã nàng.Với lý ngư, anh vũ, với cây - trẻ - hồn - già trong giấc thiền thông tuệ. Một bữa tôi ôm về chậu cây vạn niên thanh, bằng lụa, đem chưng nơi phòng khách. Bèn có thơ để tán nàng:
CÂY LỤA,TÌNH SI
Mua đôi cây giả về chơi
Cây em đứng cạnh cây tôi rất tình
Ngắm cây hồn bỗng thêm xanh
Lá đan khắng khít trên cành tương giao
Bây giờ em ở phương nào
Hẳn em tìm được cây cao lá dài?
Hà Huyền Chi
Sự tỏ tình dịu dàng, tao nhã ấy đã được đền đáp bằng những vần
điệu tiếc nuối nàng:
CÂY GIẢ,TÌNH ƠI
Ði mua cây giả làm chi
Tình em chưa đủ làm si lòng người?
Lẽ nào nắng héo hoa tươi
Ðể cho cây giả thay lời nước non?
Cây trời nắng hạ héo hon
Tiếc thay trời đất chẳng còn trong anh
Quê hương từ thuở tan tành
Chí trai bốn hướng mây xanh tím bầm.
Huệ Thu
Tính cợt nhả trong tôi thật khó trị. Cuộc tình bây giờ giữa chúng tôi đang là băng tuyết của hai ý niệm: Trong sạch và lạnh lùng.Vậy mà tôi đã phá vỡ bình yên bằng một trái mìn mà tiếng nổ vang động khiến tuyết lăn, đá lở:
NGẠI
Ngại cô bé giận nên anh rét
Chẳng viết lăng nhăng truyện bướm hoa
Thơ anh gió bụi nhăn từng nếp
Nên vẫn từng trang chở thiết tha
Ta muốn cùng em chung gối hạnh
Cho nhau hơi ấm lúc vào đông
Heo may rú rít ngoài song lạnh
Mưa ở trong ta sẽ mặn nồng
Sớm lạnh mù sương chim gấu ó
Ta nằm ngủ nướng giấc mê hoan
Nhà thờ gióng giả chuông rền đổ
Ta quấn vào nhau rất vội vàng
Bé có trách ta giầu tưởng tượng?
Ta đâu hờn bé mải bon chen
(Miếng ăn miếng uống ta chung hưởng
Ðã định ngàn xưa ở cõi thiên.)
Em hãy vui trong hạnh phúc đầy
Sương chiều thu đọng rượu tràn tay
Cánh chim vệt khói gây niềm nhớ
Rồi sẽ tan chìm ở phút say.
Hà Huyền Chi
Ngại, nhưng vẫn nói. Nói đủ và nói hết cái ước muốn phàm tục trong tôi. Nàng đáp lại bằng dao bay chén bể rất Nhẩy Dù:
CHÁN
Anh thức hay là đang mộng mị
Tâm tình đâu phải truyện trăng hoa
Áo xanh Tư Mã nhăn từng nếp
Giữ lại làm chi nỗi thiết tha
Tóc bạc phơi đây bờ gối hạnh
Trời đang lạnh buốt tuyết mùa đông
Lắng tai nghe được ngoài song lạnh
Chỉ tiếc thương thôi thuở ấm nồng
Gợi nhắc chuyện gì chim với vượn
Ngàn năm lạc điệu phút truy hoan
Hoàng hôn mơ hão bình minh dậy
Lửa có bao nhiêu dám thử vàng?
Ðừng nghĩ làm thơ là tưởng tượng
Sống vì... không bỏ chuyện bon chen
Áo cơm dưới mộ còn chưa thiếu
Lòng nỡ chia lìa địa với thiên
Ðừng nghĩ ai đang hạnh phúc đầy
Có gì nắm chặt ở trong tay
Ném ly rượu vỡ đâu còn rượu
Giận đó... thôi thì như đã say.
Huệ Thu
Sunnyvale,Nov,1991
Hình như tôi đã trúng nội ngoại thương một lượt.Mảnh ly bể dội lại chữ “Chán” nằm ngay tâm thất khiến tôi nổi nóng. Mặc dù ở cuối bài là một hồng ân:
...” Giận đó... thôi thì như đã say.”
Trong cơn hôn mê vì vết thương tự ái, tôi còn đủ mềm lòng trước cái tuyệt chiêu trong văn chương nàng. Chữ nghĩa đã đạt tới siêu độ,đã thăng hoa ở trong dòng thơ cuối đó: “Thôi thì như đã say” là một diễn tả tuyệt hảo.Lại nữa, chữ: “Giận đó” mới dễ yêu làm sao. Giận đó... hai chữ đầy nữ tính. Nàng giận mà nói rằng mình giận đó thì cơn thịnh nộ đã vơi đi quá nửa, hoặc đã hàm ý muốn tha tào. Thơ Huệ Thu đầy sáng tạo là ở đó. “Thôi thì như đã say” đau quá. Trưởng thượng quá ở chữ “Thôi thì như”. Chữ “như” mới thật là độc địa hàm ý bao dung kẻ cả.Phẫn quá, tôi lại quả bằng bài sau đây:
MÙ
Gạn lòng xem đang tỉnh hay mơ
Lúc tỉnh không chừng cạn hứng thơ
Cái mất cái còn đâu giới hạn?
Giữa không và có mỏng như tơ
Lắm khi đời thật trong trường mộng
Mà mộng em ơi đã đủ chưa
Lửa nguội than rơm mà vẫn khói
Vàng phai đá nát uổng công chờ
Sông thu tịch mịch đôi bờ lạnh
Mây trắng mang mang một đỉnh sầu
Chẳng được cùng em chung gối hạnh
Thì mơ hay tỉnh khác gì đâu
Long sàng mưa móc trong hay đục
Chiếu rách trăng hoa quấn tổ sâu
Là thế,là đời thanh giống tục
Can chi mà giận chán chi nhau
Ðã là thanh khí nên tâm cảm
Chẳng thể xăm soi lối tục thường
Bình cũ nếu thay bằng rượu mới
Chỉ làm tẻ ngắt chén văn chương
Thề không rót mộng vào thơ nữa
Rũ áo phong trần thôi vấn vương
Trả lại từng ngăn mù trí nhớ
Ta về thả nốt chút dư hương.
Hà Huyền Chi
Và hai đứa giận nhau hết một tuần. Từ bệnh viện, Huệ Thu gửi đến tôi bài thơ vuốt mắt:
KÍNH GỬI
ANH HÀ HUYỀN CHI
Anh đã biết mà cô bé giận
Tại sao còn nói chuyện tào lao?
Tình yêu đâu phải là mưa nắng
Anh tiếc làm chi một tiếng chào.
Hai mươi năm trước với bây giờ
Hội ngộ coi như một giấc mơ
Gặp lại cố nhân ai chẳng thích
Chuyện mình thôi nhé để vào thơ.
Kính gửi thăm anh thơ mấy đoạn
Cũng là mấy đoạn vẫn cầm đây
Là tim gan với lòng đau buốt
Là bởi tình chưa hoá khói mây !
Anh đã biết là cô bé giận
Thì đừng nói nữa chuyện vu vơ
Nửa vòng trái đất bao dâu biển
Cuộc Ðổi Ðời Ðau Ðớn Ðủ Chưa !
Huệ Thu
El Camino Hosp. Nov 6,91
Tôi có thơ đáp lại tức thì:
THƠM SÁP MÔI
Suốt bẩy ngày qua chẳng nghĩ nàng
Cuối tuần bão nhớ lại mênh mang
Hoài công ẩn náu trong cơn giận
Lại cắt buồng tim gửi nhớ sang
Mới hay cô bé ở nhà thương
Còn ráng làm thơ lúc liệt giường
Dễ ghét vẫn là câu “kính gửi”
Ta còn gì mất ở tha hương?
Cô bé hồng nhan nghĩ lại coi
Vai đây xin dựa cái sầu đời
Thơ đây hãy gối khi vào mộng
Anh thở anh cười thơm sáp môi
Hai mươi năm lãng mịt mù sương
Tình ngủ trong ta giấc đoạn trường
Sao chẳng cùng nhau chia chén đắng
Sớm khuya tình tự với văn chương
Ta lại đi về xanh lối xưa
Cao su từng dẫy lọng xanh chờ
Em cùng Thủ Ðức ôm eo ếch
Cho ngựa phi cùng cõi gió mưa
Anh với quê đau đớn đủ rồi
Mai này tận thế giống nhau thôi
Có em ở cuối đời phiêu dạt
Là có ngàn thu một bến vui.
Hà Huyền Chi
Chẳng thể cam tâm đứng mãi bên ngoài cuộc tình sương khói, tôi tiếp tục níu kéo:
CHÉN ÐẮNG
Xuân hồng hai đứa quen nhau
Hoa xanh đợi nở,bướm sầu ngu ngơ
Chập chờn hạ chí,thu sơ
Thuyền xuôi bến đục đôi bờ sương vây
Cuối đời gặp lại nhau đây
Chia nhau chén đắng rót đầy thương mong
Cành đau lá rét vào đông
Em ơi tình có hay không đời này?
Hà Huyền Chi
Huệ Thu dùng ngay cái tựa Chén Ðắng khi đáp lại:
CHÉN ÐẮNG
Gặp nhau... là để xa nhau
Nên người ngơ ngẩn,nên sầu ngẩn ngơ
Cầm bằng liếc mắt ban sơ
Ðò ngang đò dọc đôi bờ bủa vây
Tiếc thầm kẻ đó mình đây
Nhớ thương rót chén rượu đầy ước mong
Nhưng kìa trời đất Thu Ðông
Vuột tay ngọn gió,còn không lá vèo !
Huệ Thu
Vì cớ gì đó không đâu, hai đứa lại giận nhau.Hôm Huệ Thu ra mắt tặng sách ở Thung Lũng Nắng, tôi không đi dự. Chiến tranh lạnh kéo dài cho tới khi tôi có thơ:
NĂN NỈ
Anh sợ bé rồi rõ giận dai
Thiếu em thơ bỗng tự nhiên cay
Lòng trần hảo ngọt toan chừa kẹo
Rượu đắng vài chung giả bộ say
Hư bột hư đường từ dạo trước
Thua đơn thiệt kép đến hôm nay
Bé ơi khẩu nghiệp anh còn mặn
Hãy nhận giùm cho cái ngoéo tay.
Hà Huyền Chi
Nàng sốt sắng hồi âm, dù vẫn còn giận đầy:
HỒI ÂM
Chưa già nhất định giận là dai !
Ai biểu tào lao cho mắt cay?
Thơ đẹp nỡ chi buông tiếng đục
Rượu nồng tiếc nhỉ lỡ cơn say!
Hẹn hò không nói từ muôn trước
Lỡ cuộc có buồn dễ bữa nay?
Khẩu nghiệp khéo tu thì dứt tội
Ðừng hòng Phật độ,chớ đưa tay !
Huệ Thu
..” Khẩu nghiệp khéo tu thì dứt tội..”
Vậy là đơn năn nỉ đã được cứu xét thuận .Tôi bèn ca tiếp:
KHỔ NÀO HƠN?
Bé ở nhà thương cai nỗi hờn
Anh cai nỗi nhớ khổ nào hơn?
Thư không viết nữa đau nghiên mực
Ðiện thoại nằm khan nhớ tiếng chuông
Rút ruột xe tơ nối lại đàn
Ép sầu thành chữ gửi tình sang
Bé ơi xuân nữ ê hề đó
Sao trái tim anh chỉ có nàng?
Bé gửi cho anh sợi tóc mai
Ðể anh nối mộng níu canh dài
Dù mai bão tuyết mù thiên địa
Vẫn lửa tin yêu cháy miệt mài
Bé gửi cho anh chiếc lá ngoan
Cành sương giao động nắng tơ vàng
Nhựa nguyên lấp lánh thơm tình sử
Nhạc gió tưng bừng điệu hỗn mang
Bé gửi cho anh hạt biển khô
Ðể nghe rào rạt sóng hôn bờ
Nét môi đái tội in trên lá
Mở lối đáo nguyên tới đỉnh thơ.
Hà Huyền Chi
Thơ hồi âm của nàng vẫn còn nhiều đắng cay, ngắt véo:
HỒI ÂM
Xin anh đừng nói nữa
Những điều tôi không nghe!
Những đoá hoa rực rỡ
Bàn tay nào đã che?
Tôi không cần gì cả
Những sợi tóc vàng hoe
Mưa ướt mềm tơi tả
Nắng khô giòn hôn mê!
Anh vẫn là kẻ lạ
Bên lề đường chim bay
Tôi dụi tay hạt bụi
Vướng vào mắt còn cay...
Xin anh đừng nói nữa
Ðể bình yên đêm nay
Những mảnh ly tan vỡ
Những mảnh lòng tan bay!
Huệ Thu
Hôm tôi vào bệnh viện để làm Biopsy gan, bỗng thấy nhớ nàng. Thấy thật gần cái tâm cảm về nỗi bất lực của con người trước sinh lão bệnh tử. Bèn có thơ dọa nàng:
LÀM LÀNH
Anh nằm bệnh viện như em
Cũng kim nhọn hoắt chích lên mạch sầu
Lá gan ướp rượu từ lâu
Trái tim xơ cứng nhớ đau từng ngày
Lãn Ông chừng cũng bó tay
Trừ phi em chịu tới đây làm.. lành.
Hà Huyền Chi
Thơ phúc đáp nàng mang nhiều dấu hỏi.Tại sao?
TẠI SAO
Tại sao phải nói cùng em
Tại sao không chịu vuốt lên tóc sầu?
Rượu nồng, hương đậm bao lâu?
Tâm can hồ dễ biết đau một ngày?
Ngày xưa tay đã cầm tay
Chút hơi ấm cũ,giờ đây nguội rồi!
Huệ Thu
Ở bài này chữ nghĩa Huệ Thu bỗng sinh động lạ kỳ. Nó xác định nồng nàn và nó phủ nhận tàn bạo. Nói về phủ định trước.” Cái tình dành cho anh là có thật. Anh không nắm bắt, nâng niu nó là tại anh đó thôi. Dù tình yêu như rượu quý nhưng cơn say đã chìm vào quên lãng. Sự đau đớn đã có không chỉ là mới đây thôi. Những âu yếm cũ đã tàn phai ta còn gì để nói!”
Ở thể xác định, là bồng bềnh cơn say mới khai phá.” Anh cù lần ạ, anh không cần phải hỏi em về tình yêu. Nó vĩnh viễn có đó. Anh không chịu tiến chiếm mục tiêu đấy thôi. Tình yêu như rượu quý hương nồng dễ gì quên. Sao không làm đầy lại những trao gửi ân ái ngày xưa!”
Anh phải hiểu thế nào đây cô bé? Hỏi em cũng là thừa, bởi với đàn bà thì giữa có và không nào có gì khác biệt? Thực tình anh vẫn không có cho mình chọn lựa nào giữa hai lời giải ấy. Bởi cái nào cũng dẫn đến một tụ điểm mơ hồ giữa mất và được, giữa có và không. Bởi như em biết, trong lần hợp xướng nào anh cũng đều đến trễ giờ, đứng lộn phía hay ca lạc điệu. á Ðể thăm dò, tôi ném thêm một hòn sỏi khác. Hòn sỏi cổ tích biến thành con chim. Con chim biến thành giọt mưa ngậm ngùi hiu quạnh:
QUA KẼ TAY
Bên lề những chuyến chim bay
Lòng ta thuở ấy, hôm nay đều buồn
Mây che từ những trăng tròn
Nghìn sau hạt gió còn vương mắt người
Nói chi em cũng muộn rồi
Mảnh tim vỡ lúc mảnh đời còn chưa
Lọt qua những kẽ tay thưa
Bao nhiêu giọt nắng giọt mưa ngậm ngùi.
Hà Huyền Chi
Thơ hồi âm nàng đẹp hơn mộng tưởng:
VÀ MƯA THÔI MÀ
Gió đùa thích nhỉ mây bay...
Ước chi trọn sáng hôm nay đừng buồn!
Ước chi trái đất cứ tròn
Ðể cho hạt bụi đừng vương mắt ngừơi!
Trăm năm ngó lại, xa rồi
Một hai phút đợi, chuyện đời nói chưa?
Còn gì mà thốt mà thưa?
Mây tan sẽ tụ.Và mưa thôi mà!
Huệ Thu
...” Ứơc chi trái đất cứ tròn...”
Ðiều tâm nguyện nàng như đồng tiền may rủi búng lên không trung.Ðồng tiền có hai mặt giống đúc nhau, bởi trái đất không thể khác hơn là cứ tròn. Ở một mặt khác của hình tượng thì “Trái đất tròn” nói lên ước muốn gặp lại người xưa. Từ suy nghiệm ấy, nàng ao ước cả cuộc đời thu gọn vào một buổi sáng lồng lộng gió mây tâm cảm. Cái trăm năm vời vợi của dĩ vãng, của tơ duyên, chỉ là một hai phút đợi chờ, cho những tiếng lòng chưa trọn vẹn mở ra một lần. Hai câu kết là những hứa hẹn vỗ về tuyệt diệu. Ở một ngả rẽ, Huệ Thu vẫy tay chào biệt cuộc tình đằm thắm mà khói sương, thủy chung mà bầm giập ngay từ nguyên thủy:
THÔI NHÉ MÂY SƯƠNG
Thôi nhé! Không còn nhớ nữa đâu!
Ngày xưa không chịu nói thương nhau
Bây giờ gặp lại như mưa tạt
Ướt mặt ta đành vén áo lau
Tình nghiã nào không như gió bay?
Trái tim ai đặt ở bàn tay?
Phù dung sớm nở trưa tàn tạ
Kỷ niệm chỉ còn trong mắt cay!
Ðừng vẽ vời thêm.Ðừng ước mơ
Hãy hôn tấm kính một đêm mờ
Có nghe lạnh buốt run nhè nhẹ
Thì hiểu rằng Thu lạc ý thơ!
Thôi nhé chào nhau có dễ thương
Ðến đây là cuối ngã ba đường!
Xem kìa sông núi còn tan biến
Giữ được chăng mà một thoáng sương?
Huệ Thu
Mình đã chẳng vẫy tay nhiều lần để chào biệt rồi đó sao? “Thôi nhé! Không còn nhớ nữa đâu!” Chữ nghĩa nàng đã tàng ẩn đầy ma lực. Nghĩa không còn nằm ở chữ. Nó hóa thân khiến thổn thức cả trái tim người viết và kẻ đọc. Ngay cả sự níu kéo của tôi cũng thế, cũng đã mang sẵn cái tâm thức tuyệt vọng. Nhưng nhất định là mãi mãi không cam chịu buông tay:
CỐ NHÂN
Ðời đã mù sương em có hay
Cây đàn tự ải nhện thêm giây
Muốn không nhớ nữa càng thêm nhớ
Mộng cũ ơ hờ xoải cánh bay
Lòng mở ra như đĩa mứt gừng
Bao nhiêu cay đắng lẩn vào trong
Áo đường mỏng quá em yêu nhỉ
Còn lại ê hề nỗi đắng chung
Lòng mở ra như một tách trà
Ðường về kỷ niệm mịt mù xa
Hương gây mùi nhớ ai người nhớ
Mỗi dặm tình đau một ngã ba
Tim mở toang nghe máu hát thầm
Hoài công giữ mãi nửa vầng trăng
Quê không thể mất mà quê mất
Thì tiếc gì nhau hở cố nhân?
Hà Huyền Chi
Này Huệ Thu, dường như bây giờ nàng đã là một người nào khác. Thu ngày xưa bướng bỉnh nhưng hồn nhiên như trẻ thơ. Thu bây giờ bướng hơn, và rắc rối như đàn bà. Thơ của em rắc rối như người, muốn hiểu xuôi hiểu ngược thế nào cũng được.
Anh đã là bại tướng khi lần thứ nhất năn nỉ người ta bằng thơ đấy. Kể như là số trời đã định,không muốn thảm bại dưới tay em cũng khó. Anh là Hà Huyền “Chi” khi em là Huệ “Thu”? Em đã đâm suốt ngực anh một kiếm để đời ở bài Chán:
...” Lửa có bao nhiêu dám thử vàng?”...
Thi sĩ đích thực, phải là phù thủy của chữ nghĩa. Hắn thao túng đám âm binh, làm sống dậy những xác chữ. Bắt chữ câm phải nói. Chữ này nói giùm chữ khác, nói giùm cả những chữ không cần phải viết ra. Huệ Thu xứng đáng là một thi sĩ Thơ Huệ Thu hay hết ý! Rồi nhé! Ðã vừa lòng chưa cô bé?
CHI THU
Riêng cho Huệ Thu
Có “Thu” thì phải có “Chi”
Thế gian đâu có tên gì xứng hơn
Nhà anh sẵn gạo Nàng Hương
Sẵn lầu vọng nguyệt sẵn giường Hồng kông
Thơ anh sưởi ấm nghìn Ðông
Thơ em rượu ướp tuổi hồng chưa phai
Thu ơi đời sống bao dài
Ðể anh héo hắt trông hoài mà chi?
Hà Huyền Chi
*
Huệ Thu Gửi lại anh HHC
Ai thu mà chẳng có chi
Chi nhiều thu ít có gì mà hơn !
Hoa nào có sắc không hương ?
Sắm làm chi những chăn giường uổng công
Mùa này đã hết mùa Ðông
Hoa đào cùng với má hồng chưa phai
Hỏi ta đường sá bao dài
THU chưa kịp kiểm đã hoài công CHI !
Huệ Thu
Tháng Giêng, Nhâm Thân
Hà Huyền Chi
|