Trê Cóc là một truyện Nôm khuyết danh của Việt Nam, chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái hại "xui nguyên giục bị" của bọn thầy cò (Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển).
Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1923, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước
Truyện đời có cổ có kim,
Ngẫm trong vật lý mà xem cũng kỳ.
Những tuồng loài vật biết gì,
Cũng còn sự lý tranh thi khéo là.
5Nhớ xưa Trê, Cóc đôi nhà,
Vì tình nên phải sinh ra oán thù.
Cóc quen vui thú bờ hồ,
Khi ra đài các, khi vô cung đình.
Tới khi thai sản thành hình,
10Xuống ao Trê, mới đem mình thoát xong.
Nhìn xem lòng những mừng lòng,
Trở về ngồi chốn nghiêm-phòng nghỉ-ngơi.
Chàng Trê đâu mới nơi,
Thấy đàn nòng-nọc nhảy, ngoi đá rầm.
15Nhìn xem dạ đã mừng thầm,
Giống Trê như lột chẳng nhầm vẻ chi.
Bắt về nuôi nấng phù-trì,
Con nuôi cũng chẳng khác gì con sinh.
Hay đâu Cóc cũng vô tình,
20Nhớ ngày đầy cữ ra rình thăm con,
Tới nơi, chờ đợi nỉ-non,
Vắng tanh dấu cũ, nước còn, tăm không.
Lâu-lâu nghĩ cũng giận lòng,
Vội-vàng nhảy xuống bên trong dạo tìm,
25Bọt bèo lầm nước tối-tăm,
Động tin, Trê mới hăm-hăm hỏi dò.
Lảng ra, thấy Cóc bên bờ,
Trê liền quát mắng tri-hô vang rầm:
«Cóc kia đâu đó tối-tăm ?
30«Dạ gian, phi đạo, tắc dâm[1] chẳng lành».
Cóc rằng: «ai kẻ gian manh,
Gây ra những sự sinh tình gớm-ghê.
«Vì con nên phải sớm khuya,
«Không dưng, ai có đến chi chốn này ?»
35Nghe lời Trê tức giận thay !
Vểnh râu, mắng Cóc: «Tỉnh say lắm điều !
«Cóc kia cả quyết gan liều,
«Bọn người coi đã mỹ-miều lắm thay !
«Một ngày lạ giống chúng bay !
40«Nghề bôi vôi vẫn nồng thay chẳng chừa.
Một tội mất, mười tội ngờ.
«Biết đâu mà khéo tri-hô hỏi dồn.
«Thôi đừng đua dại, tranh khôn,
«Trở về ngồi tối gầm giường cho xong».
45Cóc liền dương mắt trừng-trừng,
Rằng: «Khôn, ngươi cũng ở trong ao tù.
«Ta đây dẫu có hèn ngu,
Nhà ta cũng có cơ-đồ đỉnh-đang[2].
«Ra vào gác tía nhà vàng,
50«Cõi bờ mặc sức nghêng-ngang chơi-bời.
«Nghiến răng chuyển chín phương trời,
«Ai ai là chẳng rụng-rời sợ kinh.
«Tuồng gì giống cá hôi-tanh,
May chăng được một môi canh ra gì».
55Cầm lòng, Cóc trở ra về,
Vợ chồng bàn định sớm khuya ngại-ngùng,
Rằng: «Con đương độ ấu trùng[3],
Xa-xôi non nước lạnh-lùng biết sao.
«Khuyên chàng chớ nghĩ thấp cao,
60«Công bao cũng chịu, của bao cũng đành».
Cóc rằng: «Nàng khéo lo quanh,
«Can chi chịu phí xem tình ra sao.
«Đàn bà nông-nổi khác nào,
«Biết đâu những chuyện mưu cao mà bàn.
65«Trê kia đã có lòng tham,
«Được thua quyết kiện một phen xem mà».
Tức thì đến cửa quan nha,
Làm đơn khất lĩnh minh tra cho tường.
Đơn rằng: Trung đình phủ, Tường miếu huyện, Bích gia xã, Thạch cốc thôn, Trần văn Cốc, khấu bẩm vì khổ ức sự, một chút tình duyên, vì có đàn con, vốn xưa ở cạn, tới khi có nghén, sinh ở ao Trê. Trai gái đề huề, một đàn nòng nọc. Đương cơn sinh dục, hiện có tứ bề : danh Chép, danh mè, danh Măng, danh Trắm ; cậy người đỡ tắm, mụ Diếc, mụ Rô, mượn người thăm dò anh Lươn, anh Trấu... Tìm nơi nương náu, Cóc mới về quê, vì nỗi thê nhi, Cóc ra thăm viếng. Bốn bề im tiếng, chẳng thấy một ai, Cóc hỏi khúc nhôi, Trê liền thét mắng, sinh tình ngạnh ác, cố dạ gian tham. Đạo nghĩa cha con, khôn đường nhẫn nhục. Vi thử cụ đơn, khấu bẩm đường quan, soi xét lòng đơn, xin người cứu vấn. Nhờ ơn son phấn, yên phận thê nhi, vạn vạn bái.
Kim khấu bẩm:
Phủ quan nghe tỏ lòng đơn,
Truyền đòi nha lại các phiên vô hầu.
Xem đơn danh Cóc gót đầu,
Đoạt nhân thủ tử nhẽ đâu làm vầy.
Thực hư tình ý chưa hay,
Cứ trong đơn khất cũng ngầy lắm thôi.
Truyền cho thảo trát vô đòi,
Mấy danh chứng tá giải hồi nghiêm tra.
Các thầy vâng lệnh trở ra,
Đòi tiền thông lệ bản nha tức thì.
Trát thảo cho dấu chữ y,
Truyền cho lệ dịch tức thì phát sai.
Trát rằng:
Hải giang phủ, tri phủ Đàm, vi phát lệ binh nhất danh y phải tùy hành, cứ hương lý dịch, thân dẫn danh Trê, chứng tá các bề, truyền đòi cho hết, cùng người bàng tiếp, danh Chép, danh Mè, danh Măng, danh Trắm, cụ thử nhất đoàn, duyên cố nguyên đơn, danh Trần văn Cóc, thân tình ức khổ, vi thử đẳng danh, đồng đảng gian manh, đoạt nhân thủ tử, vi thử hợp trát, giang giải hồi trình, lập tức dẫn thôi, y như trát nội, hợp trát.
Lệ binh vâng trát thôi đòi,
Bộ hành mới kéo về nơi Thanh trì.
Truyền đòi lý dịch tức thì,
Dẫn thôi thủ phạm danh Trê ra hầu.
Nghe tin chứng tá đâu đâu,
Sửa sang chè rượu cùng nhau khuyên mời.
Lệ rằng: "Quan pháp như lôi,
Chỉ đâu đánh đấy chẳng đâu là lành.
Trê kia là đứa gian manh,
Chúng ngươi họp đảng đồng tình nhất môn.
Đây mà cứ phép việc quan,
Thời bay thịt nát xương tan chẳng lành.
Song bên lý có bên tình,
Liệu sao các việc thỏa tình người ta.
Kẻo khi quan lại còn xa,
Đây mà nổi giận lôi ra kéo vào."
Chàng Trê ngóc cổ liền kêu,
"Dân đen có biết chi điều gian ngoan.
Vì ai nên phải tiếng ai,
Dám xin mấy cậu liệu đường giúp cho.
Chữ rằng: "Nhất nhật tại tù,"
Hết bao nhiêu cũng xin lo dám nề.
Còn như danh Chép, danh Mè,
Cũng trong luân lý một bề với tôi.
Sửa sang lễ vật lên hầu,
Có tôi đã đứng là đầu thời xong."
Lệ nghe lời nói êm lòng,
Bèn đưa nhau đến cửa công tạ trình.
Lệ vào lạy trước công đình,
Trát sai đã bắt đẳng danh hồi trình.
Quan liền chỉ phán phân minh :
"Trê kia sao dám gian manh làm vầy ?
Nguyên đơn danh Cóc ngồi đây,
Đoạt nhân thủ tử việc này có không ?"
Trê vào lạy trước vừa xong,
Cất đầu kể hết sự lòng xa xôi:
"Sự này tại chú Cóc tôi,
Dạ gian vô cớ xuống ngồi bên ao.
Bấy giờ tôi có kêu rao,
Hỏa quang kiến diện qua rào nhảy ra.
Sợ rằng: ngỏ tiếng tăm ra,
Vậy nên trước phải quỳ thưa đỡ đòn.
Ví dù Cóc lại có con,
Lẽ đâu để cách nước non sao đành.
Đầu đen là giống phù sinh,
Dám xin soi xét ra tình kẻo oan."
Quan rằng: "Bây khéo gian ngoan.
Truyền đòi chứng tá tiếp bàng hỏi qua.
Mèo, Nheo, Trắm, Chép nhảy ra,
Khấu đầu lạy trước quan nha diện trình :
"Chúng tôi thật kẻ vô tình,
Xưa nay vẫn thực hiền lành biết chi.
Mặc ai vùng vẫy giang khê,
Biết thân tránh khỏi lưới nghề là xong.
Biết đâu Trê, Cóc sự lòng,
Buộc cho đôi chữ phù đồng khổ thay !
Đèn trời soi xét gian ngay,
Lẽ đâu ao cá vạ lây cháy thành."
Cóc vào bẩm trước công đình :
"Chẳng qua các chúng đồng tình mưu gian.
Người thân thích kẻ lân bang,
Cùng trong vây cánh một đoàn nó thôi.
Vả trong đất nước khác vời,
Cóc khô ở chốn quê người biết sao.
Ngửa trông lạy đứa quan cao,
Cứu đàn con nhỏ phiêu lưu kẻo mà."
Quan truyền: "Cho Cóc lui ra,
Đem trê giam đó hậu tra vội gì."
Lệ binh vâng lệnh tức thì,
Đem Trê vào trại liền mi chẳng chầy.
Canh giờ nghiêm cấm khổ thay !
Mười người nhắm một, đều tay lấy tiền.
Quan cứ lệnh, lính cứ truyền,
Đã ngày cổ buộc, lại đêm chân cùm.
Giam tra thịt nát xương tan,
Đánh cho mấy chục, chập đòn roi đôi.
Vợ chồng Trê những ngậm ngùi,
Ra vào phí tổn hết bao cũng đành.
Có công lặn suối trèo ghềnh,
Tìm người lý sự hỏi tình sâu nông.
Xa nghe Triều Đẩu anh hùng,
Đưa tin hoàng tước hỏi cùng phải chăng.
Đầu đuôi mấy khúc thưa rằng:
"Thực tôi là phận tảo tần chàng Trê.
Nay đơn chàng Cóc tâu quì,
Vậy nên Trê phải giam mi tại tù.
Đàn bà ngu dại vụng lo,
Đội ơn quan bác liệu cho phận nhờ."
Kình rằng: "Chẳng ngại việc chi,
Đây ta nào phải lụy gì đến ai.
Có tên Lý Ngạnh thôn ngoài,
Cũng trong thủ hạ tôi đòi ta đây.
Vốn người độc ác xưa nay,
Cho đi giúp chúng việc này hẳn xong."
Trê nghe thấy nói mừng lòng,
Liền quỳ lạy Ngạnh kể thông mọi lời.
Sửa sang đồ vật thảnh thơi,
Tôm he, cá mực đủ mùi trân cam.
Ngạnh rằng: "Quan sự dã am,
Những phường cáo giả oai hầm ghê thay.
Việc quan muốn xử cho xong,
Thời trong lại bộ có thầy thông Chiên.
Muốn cho trong ấm ngoài êm,
Phải đưa lễ tốt các phiên mới dành."
Ngạnh vào tư thất bẩm trình,
Trê ra lạy trước công đình tâu thân:
"Gọi là lễ mọn kính dâng,
Dám xin soi xét phận dân ngu hèn.
Chàng Trê giam chấp mấy phen,
Cũng vì điên đảo làm thiên án từ.
Lòng ngay chẳng dám mưu mô,
Lưới Thang rộng mở ơn nhờ xiết bao."
Quan rằng: "Kêu vậy biết sao,
Đây ta cũng chẳng xuy mao cầu tì.
Cứ trong tình lý mà suy,
Thời như đơn Cóc có khi cũng huyền.
Cho đồng đối tụng hai bên,
Có bên bị, có bên nguyên mới tường."
Cóc ngồi chực sẵn bên tường,
Nghe lời quan phán vội vàng nhảy ra :
"Trê kia chớ có huyên hoa,
Hùm dầu có cánh ta đà chẳng ghê.
Quả tình nào có hồ nghi,
Ra điều bán dạ lâm trì khó coi.
Phù sinh mấy kiếp ở đời,
Làm cho rắn cắn được voi còn chầy.
Chỉ nghề dạy khỉ leo cây,
Xui nguyên dục bị, chỉ hay bày trò.
Ai ngờ xã thử thành hồ,
Chỉ điều cậy thế làm cho hại người.
Biết rằng hươu chết tay ai,
Mỏ chim, nanh chuột tranh hơi còn nhiều."
Quan rằng: "Bây chớ rối điều,
Việc quan chẳng lọ nhiều kêu mới là.
Lệ đâu đòi mấy thầy nha,
Cho đi nghiệm thực hậu tra mới tường.
Trê kia quả có tính gian,
Cứ trong luật lệ y đơn mà làm."
Các thầy vâng lệnh lên đường,
Theo chân thầy tớ một đoàn thong dong.
Kéo về đến chốn ao trong,
Cho đòi tổng tiếp điều cùng khám thăm.
Thấy đàn nòng nọc lăm xăm,
Vẫy vùng mặt nước đen rầm như Trê.
Nha rằng: "Sự chẳng hồ nghi,
Đầu đuôi hình tượng giống Trê đó rồi."
Khám tường biên thực chẳng sai,
Sự tình nha lại tức hồi trình qua:
"Ngửa trông đôi đức cao xa,
Vâng sai án nghiệm minh tra tỏ tường.
Trê kia quả có tình oan,
Hiện có tổng tiếp ký đơn về trình."
Đơn rằng:
Hải giang phủ, Đường hào huyện, Thái cốc xã, Hùng văn Trê trình về phúc bẩm sự. Mấy khúc đầu đuôi, hiện có mấy người, thường đi thường lại, ở chốn ao sen, bất ý đương đêm, Cóc vào xuyên tạc, Trê liền phát giác, Cóc nhảy qua rào, cậy thế hùng hào, vậy nên nại chứng. Thay trời trị chúng, tiếng trống nghìn quân, nhờ lượng đường quan, cho về khám xét, đầu đuôi tình tiết, như đã biên tường, vị thử cụ đơn, trông ơn khám xét, minh tra các tiết, tỉ đắc thân oan, vạn vạn bái, kim khấu bẩm.
Quan truyền bắt Cóc ra tra:
"Sao bây kiện sai ngoa làm vầy ?
Nay đơn nha khám về đây,
Trê kia là đứa tình ngay có gì !"
Cóc ra lạy trước sân quỳ,
Bẩm rằng: "Lại dấu cho Trê lắm điều.
Chẳng qua hối lộ đã nhiều,
Vậy nên mới nói mè nheo những lời."
Bản nha tức giận mọi người,
Bẩm xin tội Cóc ra ngoài trại canh.
Truyền cho thẩm xét phân minh,
Ký giam ở đó kẻo tình còn oan.
Cóc ngồi dài thở ngắn than,
Những là đứt ruột, căm gan cho đời.
Biết chăng có một ông trời,
Nghiến răng có thấu xin soi đến cùng.
Ai làm oan thác sự lòng,
Thì xin tiếng sấm cửu trùng nổi lên.
Cóc ngồi trằn trọc thâu đêm,
Vợ chồng bàn định nỗi niềm trước sau.
"Phải tìm thầy thợ cho mau,
Để cho thiếp được trước sau rõ mười.
Đua nhau cái trí mà thôi,
Chẳng mừng chi được, chẳng ngùi chi thua.
Thiếp xin đi lại toan lo,
Làm cho trả được oán thù mới thôi."
Cóc về dạo khắp các nơi,
Qua miền Chẫu chuộc, tới miền Ễnh ương.
Thôi lặn suối lại trèo nương,
Giếng sâu bụi bặm lòng càng ngẩn ngơ.
Vô tình đương lúc mây mưa,
May sao thấy Ếch ngẩn ngơ cõi ngoài.
Ếch đương quen thú ngồi chơi,
Nhác trông thấy Cóc sắp rời chân ra.
Rằng: "Đâu mà đến đây ta ?
Cớ sao thân thể coi mà kém xuân.
Hay là có việc chi chăng ?
Đầu đuôi ngỏ thực xin đừng giấu nhau.
Cóc rằng: "Có việc chi đâu,
Vì chồng con phải lo âu chưa đành.
Trê kia là đứa gian manh,
Bắt con mà lại sinh tình sai ngoa.
Làm đơn đút lót quan nha,
Vậy nên Cóc phải giam tra thế này.
Cố công lặn suối tới đây,
Nhờ chàng liệu giúp việc này họa xong."
Ếch rằng: "Đồng trắng, nước trong,
Tôi đây tiếng cả nhà không có gì.
Thấy lời chị nói nằn nì,
May ra giúp được việc chi cũng đành.
Nghề tay thầy kiện trứ danh,
Có chàng Nhái bén thực anh bợm già.
Đơn từ, mẹo mực vào ra,
Bàn tay tráo trở coi đà ngon không.
Muốn cho các việc được xong,
Phải tìm cho đến hỏi cùng sự duyên.
Cóc nghe lời nói tự-nhiên,
290Trở về dạo khắp các miền hỏi thăm,
Nước non cây cối âm-thầm,
Một mình Cóc lại băn khoăn một mình.
Hay đâu cảnh thú hữu tình,
Lui chân bóng mát, nương mình cõi râm,
295Gió đưa ngọn cỏ lầm-rầm,
Nhác trông thấy Bén đang nằm nghỉ-ngơi.
Chào rằng: «Chị Cóc lại chơi,
«Việc gì mà phải tìm tôi những là ?
«Dặm ngàn non nước thẳm xa,
300«Cớ sao mà khéo lân-la biết đường ?»
Cóc rằng : Muôn đội ơn chàng ,
« Vì tình, nên phải đa-mang với tình.
« Nói ra lắm sự bất bình,
« Vì Trê nên phải đem mình đến anh.
305« Xiết bao kể nỗi ức tình,
« Nhịn đi chẳng được, tức mình lắm thôi.
« Cố lòng lấy của, cướp người,
« Đơn-từ điên-đảo mấy hồi khổ thay !
« Quan tham, lại cũng chẳng ngay,
310« Vậy nên bắt Cóc tội rầy bấy lâu.
« Nghĩ tình càng thảm, càng rầu,
« Biết ai là kẻ nông sâu mà bàn ?
« Vậy nên bao quản đường trường,
« Trước vì biết Ếch, sau tường tôn-nhan[4].
315« Dù trong lẽ dại, đường khôn,
« Dám xin chỉ giáo[5], tôi con được nhờ ».
Bén rằng: «Ngán chuyện đàn bà,
« Làm gì việc ấy, khéo mà nói quanh.
« Tuy cùng một kiếp phù-sinh,
320« Giống nào giống ấy, tranh giành làm chi ?
« Trê kia là đứa ngu-si,
« Chẳng qua tham dại nghĩ gì nông sâu.
« Thôi đừng kiện cáo chi nhau,
« Con đương dưới nước, dễ hầu làm chi.
325« Để cho Trê nó phù-trì,
« Đứt đuôi, nó lại tìm về là hơn.
« Muốn cho êm ái đôi bên,
« Thời đem trình Phủ mà xin Cóc về.
« Nhược bằng có dạ tranh thi,
« Lại làm đơn phục[6] cho Trê khó gì».
Nghe lời Cóc cũng nằn nì :
"Làm cho bõ ghét cho Trê mới đành.
Kẻo Trê nó cũng cậy mình."
Nghe thôi, vợ Cóc tạ trình ra đi.
Trở về cửa phủ tức thì,
Dặn chồng sau trước mọi bề đinh ninh.
Lại về chốn cũ thăm tình,
Quả như Bén nói rành rành chẳng sai.
Cười cười nói nói tả tơi,
Sửa sang lễ vật tới nơi công đường.
Cóc vào lễ tước, quỳ đơn,
Theo sau một lũ Cóc con sang trình.
Đơn rằng:
Nguyên danh Cóc trình vi khất thôi cứu sự, vì Trê gian khiếu, nên Cóc thân oan, sự đã tỏ tường, vậy nên tục khống. Trời sinh có giống, ai dám trang càn, Trê quả lòng gian, tìm đường giam chấp; mấy phen thăm bắt, tin tức vắng không. Nay đã khỏi vòng, trở về đất cũ, trần tình cụ thử, đồng đồ nhũng tệ, Cóc tôi yếu vế, vậy phải chịu im, vị thử phục qui, ơn trên soi xét. Giãi bày các tiết, nhờ lượng cao xa, dân được điều hòa, khỏi điều oan khốc.
Trình đơn trước mặt công đình,
Phủ quan nổi giận lôi đình thét vang.
"Sự đâu có sự dị thường,
Nha môn sao dám tự đương làm vầy."
Truyền đòi nha khám ra đây,
Giao cho Bang biện việc này mới xong.
Bản nha hiệp nghị một lòng,
Khấu đầu lại trước cửa công tạ tình.
Rằng: "Đem dấu trát tra minh,
Bắt Trê nhận thực tượng hình mới biên.
Chẳng qua con tạo đảo điên,
Sinh sinh hóa hóa, hiện truyền chi đây.
Chúng tôi giữ việc lòng ngay,
Dám đâu gian dối chuyện này cho đang."
Quan rằng việc ấy dở dang,
Truyền Trê ra trước công đương hỏi qua,
Roi đâu mấy chập đòn tra,
Gian ngay thú thực thưa qua cho tường.
Dám đâu nhận mệnh làm thường,
Cố nhiên kiếp đoạt đường đường như chơi.
Cứ trong lý luật mà coi,
Lưu tam thiên lý tôi ngươi đã đành.
Bao nhiêu đồ vật sắm sanh,
Truyền Trê phải chịu cho thanh mọi bề.
Cóc kia thôi chớ nằn nì,
Được con là trọng, kêu chi thêm càng.
Trê kia thực có lòng tham,
Đã đem đày chốn xa đường thì thôi."
Quan trên chỉ phán mấy hồi,
Cóc vào trình lạy mấy lời bẩm qua :
"Ngửa trông đức cả cao xa,
Non công, bể đức kể đà xiết bao.
Đoái thương đến phận nhi tào
Gọi là lễ mọn đem vào tạ ân."
Quan rằng: "Thôi chớ ân cần,
Thế thời cũng đã có phần hậu thay.
Khéo đâu lễ vật đặt bày,
Biết thôi trả lại cho bay đem về."
Tạ từ Cóc trở ra về,
Vợ chồng mừng rỡ đề huề ngổn ngang.
Bước ra khỏi chốn công đường,
Thông Chiên dật lễ, Đề Tôm cướp tiền.
Ôm đầu vỗ vế ngả nghiêng,
Kẻ đòi bầu rượu, người xin bao chè.
Được kiện Cóc trở ra về,
Họ hàng náo nức ngồi kề mừng vui.
Chè sen rượu cúc thảnh thơi,
Cóc ngồi chịu chuyện, Bén ngồi ngâm thơ.
Vang lừng trong hội mây mưa,
Say sưa mặc sức, xướng ca thỏa lòng.
Mới hay duyên ngộ kỳ phùng,
Anh hùng tỏ mặt anh hùng hẳn hoi.
Ngẫm xem thế sự nực cười,
Cũng là dở cái trò chơi đấy mà.
Vẽ vời mấy tiếng ngâm nga,
Tỏ tường sự lý để ra với đời.
Chú thích cuối trang
- ▲ Dạ gian, phi đạo tắc dâm 夜 間 , 非 盜 則 淫: ban đêm (đến nhà người ta), không phải kẻ trộm thì là người gian-dâm
- ▲ Đỉnh đang 鼎 鐺: cái vạc và cái xanh, nói về nhà giàu sang
- ▲ Ấu-trùng: nhỏ thơ
- ▲ Tôn-nhan 尊 顏 : (Tôn : kính trọng ; nhan : mặt) : Chữ dùng để gọi người khác, tỏ ý kính trọng
- ▲ Chỉ giáo 指 教 : Trỏ bảo dậy dỗ
- ▲ Đơn phục (phục : lại một lần nữa) : đơn kêu lại
nguon Wikisource