Thủ Bút Lan Hinh
Phỏng An Lạc Viên,
Hữu cảm
Thế đồ bôn tẩu khủng thông thông,
Hạnh đáo phương viên mặc khách phùng.
Vân độ Pháp Kiều trần mộng tỉnh,
Phong xuy Dình Liễu bách ưu không
Thảo hương nhiễu thạch lưu trì ngoại.
Ðiễu ngữ quy lâm hưởng vịnh trung.
Dục học trừng tâm cô ỷ hạm,
Tiêu sơ trúc kính tịch dương hồng.
Lan Hinh kính đề
Bính Dần niên , đào nguyệt (1986)
Chú thích :
An Lạc viên toạ lạc trong khuôn viên
ngôi chuà Lâm Tỳ Ny , Ðà Lạt.
Pháp Kiều và Ðình Liễu là tên cuả cảnh cầu và đình rất nên thơ trong quần thể hòn non bộ rong rêu ở vườn An Lạc.
Lan Hinh
*
Ðường đời chạy vạy bước truân chuyên,
Mùng gặp tao nhân hội cửa thiền.
Mộng tỉnh Pháp Kiều mây dẩn độ,
Sầu tan Ðình Liễu gió đưa duyên.
Ngoài ao hương cỏ vương triền đá,
Trong cảnh lời ngâm quyện tiếng chim.
Ðứng tựa bên thềm mong học Ðạo,
Tiêu sơ ngõ trúc bóng chiều nghiêng.
Ðức Minh dịch
(1986) .
Dã Hạc lan
Kỳ nhất
Dạ thâm phu toạ đối nùng hương,
Bách cảm khởi sinh uý trường.
Cựu hạc nhất du vô kiến tích,
Quy lai thùy liệu hoá băng lan.
Bính dần niên, trọng hạ.
(1986)
Lan Hinh tác
*
Lan Dã Hạc
Bài thứ nhất
Ðêm sâu ngồi lặng giữa ngàn hương,
Cảm xúc bừng lên, ý ngút ngàn.
Hạc cũ lần bay nào để dấu,
Ai ngờ về hoá cánh băng lan.
Nhất Nguyên Nhiên dịch
(1986) .
Dã Hạc lan
Kỳ nhị
Mãn ban tử sắc ngưng yên vân,
U mật tư dung đơi muộn tâm.
Hoa chúng hạ lai duy chỉ nhĩ,
Tảo tương thu tín báo sơn nhân.
Bính dần niên, trọng thu. (1986)
Lan Hinh tác
Lan Dã Hạc
Bài thứ hai
Tím thẫm một màu đặc khói mây,
Thâm trầm dáng đẹp nỗi niềm tây.
Hạ về hoa vắng riêng lan ấy,
Sớm báo tin thu sơn khách hay.
Trần Tuấn Mẫn dịch
(1986) .