"Bần nữ-thán" không phải là truyện ký, chỉ là một thiên văn vần, thể song thất lục bát, gồm có 216 câu. Tác giả là một vô-danh-thị, viết theo lời than của gái nghèo.
"Tập thơ song thất lục bát khuyết danh, thác lời than thân trách phận của người con gái nhà nghèo. Thời điểm sáng tác có lẽ chỉ mới làm ra trước khi in không lâu. Mặt sau tờ tên sách cũng có bài đề từ bằng Hán văn, đề là Bần nữ [thán] thi 貧女[嘆]詩, rồi đến chính văn đề là Bần nữ [thán] truyện 貧女[嘆]傳. Tuy gọi là “truyện”, nhưng nội dung nếu gọi là một khúc ngâm thì hợp hơn, vì chủ yếu nói tâm trạng chứ không có cốt truyện. Người con gái đang độ xuân xanh, tự xét mình nhan sắc nết na cũng không thua kém con nhà giàu sang quyền thế, và do đó cô cũng có ước nguyện lấy được tấm chồng hiển quý, nhưng rồi số phận vẫn hẩm hiu, ngày tháng qua đi mà duyên may chẳng đến. Cô xét nguyên nhân thì chẳng thua kém ai, suy ra chỉ vì thua kém đồng tiền: “Vì một nỗi thua tiền thua bạc, Hoá cho nên thua sắc thua tài”. Gần như cả tập là lời độc thoại của cô con gái với nội tâm nhiều nỗi day dứt tóm tắt như trên."
Kiếp phù thế, nhân sinh thấm thoắt,
Vì chữ bần, nên ngắt chữ duyên!
Ai làm số phận xui nên ?
Há thua sắc thắm, há hèn màu tươi.
Con tạo hóa trêu ngươi chi tá ?
Đem sắc, tài thu cả vào khuôn,
Hiên tây thấp thoáng trăng suông,
Gió vàng hiu hắt như tuôn mạch sầu.
Niềm tâm sự thấp cao mọi nỗi,
Tình cảnh này biết nói cùng ai?
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Bực mình mà gửi mấy lời vân vân.
Nghĩ mình cũng dự phần son phấn,
Cũng dự phần ngọc trắng, gương trong,
Cũng môi son, cũng má hồng,
Cũng màu thi lễ cũng dòng trâm anh.
Cũng chải chuốt màu thanh vẻ quý,
Cũng não nùng trâm vẽ, hương xông,
Cũng hay nữ hạnh, nữ công,
Nữ ngôn cũng lịch, nữ dung cũng mầu.
Vẻ quyền quý phong lưu cũng thuộc,
Nết đoan trang, trinh thục cũng ưa,
Ở ăn nề nếp sau xưa,
Dám sai phận gái mà thưa phép nhà.
Việc canh cửi, tay đưa chân dận,
Đường dệt thêu bướm lượn óng đôi,
So xem quốc sắc, nữ tài,
Đã trong gia huấn, lại ngoài nam phong.
Khi nối gót kiếm, cung, kỵ, ngự,
Khi theo đòi kinh sử, tứ thư,
Khi lựa vận, lúc so tơ,
Khi bầu Lý Bạch, khi cờ Trương Ba .
Dẫu chẳng phải ngọc ngà kỳ dị,
Nhưng cũng trong ý nhị thanh tân,
Những mong vườn hạnh gặp tuần,
Gieo cầu đáng dịp, nhắc cân đương vừa.
Tuy chưa chắc cung phi hoàng hậu,
Thì cũng rằng mệnh phụ, phu nhân,
Hoặc là tài tử, giai nhân,
Thì công sửa túi nâng khăn cũng đành!
May mà gặp khoa danh, khoa giáp,
Cũng bỏ công đánh sáp soi gương,
Những công trang điểm sửa sang,
Dẫu treo thước ngọc, nhà vàng cũng nên!
Tưởng không nổi giận duyên, tủi phận,
Tưởng không điều nhạt phấn, phai son!
Một hai tính cuộc vuông tròn,
Đào còn đương thắm, liễu còn đương tơ.
Ngẫm duyên phận, ai ngờ nên nỗi,
Nghĩ nguồn cơn, dở dói thêm càng,
Vì đâu nên nỗi dở dang?
Nói càng thêm giận, nghĩ càng thêm thương.
Con tạo hóa, đa đoan lắm nhẽ?
Cái tiện nghi chẳng xẻ cho cân.
Giàu thì trọn vẹn mười phần,
Khó không cho một vài phân với người!
Tay nguyệt lão trêu ngươi chi mấy,
Cầm lấy dây giữ mãi thế mà?
Giàu thì nẩy mực đương vừa,
Khó thì để mãi trơ trơ sao đành.
Chị Hằng lại đành hanh chi mấy,
Quyết đang tay giữ mãi khăng khăng,
Cầm cân chẳng nhắc cho bằng,
Giàu thì nhắc đến, khó hằng chịu trơ!
Trách người thế mập mờ có một,
Bỏ vàng mười mà chuốc thau ba,
Trách thay người thế mập mờ,
Chơi non chẳng biết rằng là non thanh.
Trách người thế vô tình lắm lắm,
Cảnh thanh kỳ bỏ vắng chẳng chơi,
Trách thay người thế mà sai,
Chỉ tham bông thắm, nỡ hoài bông thơm.
Tưởng thế sự ai làm nên nỗi,
Nghĩ càng thêm tức tối, trăm chiều,
Hay là số phận làm sao?
Xui ra duyên phận hẩm hiu thế mà!
Hay là kém da ngà mắt phượng,
Hóa cho nên bướm chán ong chê,
Hay là nắng chẳng thương huê,
Để rầu bông thắm, để xơ nhị vàng?
Hay là kém màu gương, nước tủy,
Hay là thua màu quý, vẻ thanh,
Hay là thua đẹp, thua xinh,
Thua son, thua phấn, thua tình, thua duyên.
Vì một nỗi thua tiền, thua bạc,
Hóa cho nên thua sắc, thua tài,
So ra ai đã kém ai,
Kẻ kia tám lạng, kẻ này nửa cân.
Vốn đã biết cái thân kẻ khó,
Có dám đâu đánh đọ với giàu.
Rằng thì mang tủi đeo sầu,
Nói càng ấp úng, nghĩ thêm ngại lời.
Xuân xanh kể đôi mươi có lẽ,
Quả mai còn ba bảy đường tơ.
Kìa như đông bích lân gia,
Kẻ đà bốc phượng người đà mộng lan!
Cũng mang tiếng hồng nhan với thế,
Nỡ nào nên ruồng rẫy chẳng thương.
Bao nhiêu thêu dệt y thường,
Vì người ta sửa tư trang lấy chồng.
Cũng mang tiếng má hồng mặt phấn,
Luống năm năm chực phận phòng không.
Há rằng hoa chẳng chiều ong,
Cho nên tủi phận thẹn hồng lắm thay!
Bắc thang đến cung mây mà hỏi,
Biết bao giờ phượng tới cành ngô?
Bao giờ bắc lại cầu Ô,
Mà cho ả Chức chàng Ngưu tới gần?
Tình rầu rĩ thôi xuân lại hạ,
Cảnh thốt nhiên thu quá đông qua.
Rắp toan hỏi nguyệt than hoa,
Nguyệt trong mây tối, hoa đà ủ bông.
Giải phiền sắp so cung mượn chén,
Áng mây sầu cánh én chao nghiêng,
Lựa vần nghĩ cuộc giải phiền,
Cờ tiên nước bí, thơ tiên túng vần.
Đêm thanh những âm thầm với bóng,
Mặt âm thầm mà bụng ủ ê,
Buồn trông gương sớm đèn khuya,
Gương mờ nước thủy, đèn hoe lửa phiền.
Buồn trông cảnh, cảnh xiên bóng bạc,
Buồn trông trăng, trăng gác non tây,
Buồn trông ngọn cỏ lá cây,
Tháng ngày theo ngọn gió bay tơi bời.
Buồn trông tranh, thẹn người tố nữ,
Buồn ngâm thơ, tủi chữ thanh xuân,
Buồn trông mây kéo dần dần,
Như tuôn khói tỏa, như vần khí thiêng.
Trông non tây đá xiên lỗ chỗ,
Trông bể đông sóng vỗ mênh mông,
Lại càng như nấu như nung,
Như hun, như đốt, càng nồng, càng mê.
Trông ngàn Bắc so le ngọn cỏ,
Trông bể Nam, nhấp nhố thuyền câu,
Lại càng như dệt như thêu,
Như vò như cuộn, càng khêu càng buồn.
Nghe oanh thành véo von rộn rã,
Nghe quốc hè ra rả giọng rên,
Lại càng ngơ ngẩn lao đao,
Lại càng tức tối tâm bào lắm nao!
Nghe đêm thu ve sầu ri rỉ,
Nghe đêm đông giọng dế nỉ non,
Lại càng rầu rĩ bồn chồn,
Lại càng tức tối gan vàng chẳng xong.
Buồn muốn nói, nghĩ không nên nói,
Buồn muốn trông, lệ lại chứa chan,
Sắt cầm muốn lựa phím loan,
Giọng sầu ra rả cho đàn ngang cung.
Buồn cầm quạt, khi phong khi mở,
Ngâm thơ tình, tình nhớ, tình quên,
Thương vì phận, xót vì duyên,
Chẳng ai phận nấy, hóa nên nỗi buồn.
Càng nghĩ lắm, tâm hồn tức tối,
Nghĩ nguồn cơn nông nỗi càng đau,
Chẳng qua kẻ trước người sau,
Thôi thôi, ta sẽ bán sầu làm tươi.
Lọ là phải bàn may bàn rủi,
Lọ là nên kẻ tủi người sầu,
Ai ơi, xin chớ cười nhau,
Chẳng qua mai trước, hạnh sau khác gì.
Mai nở trước, mai cười hạnh muộn,
Hạnh nở sau, hạnh ngán mai suy,
Hạnh, mai cười lẫn nhau chi,
Đến kỳ kết quả, đến kỳ khai hoa.
Kìa trai già có khi nở ngọc,
Nọ trúc đông có lúc nẩy măng,
Kìa thì nước nọ thì trăng,
Trăng thường tròn khuyết, nước hằng đầy vơi.
Đêm thì có khi dài khi ngắn,
Thời tiết trời khi nắng khi mưa,
Năm khi thiếu, có khi thừa,
Ngày thì khi sớm khi trưa khác nào.
Có đâu lại gieo đào trả lý,
Có đâu nên nhắn cá gửi chim,
Miễn cho chí ở cho bền,
Chẳng lo phận khó, chẳng phiền muộn duyên.
Kim, Kiều nọ, ước nguyền mấy độ,
Phan, Trần kia gắn bó bao lâu,
Ấy là sớm đã gặp nhau,
Mà còn cách trở lâu lâu sum vầy.
Kim cúc nọ, sương bay mới nở,
Kinh tùng kia, tuyết vỗ càng xanh.
Kìa sen, tiết muộn cành xinh,
Có khi cũng gặp duyên lành như ai.
Hễ hãy còn mày ngài mắt phượng,
Hễ hãy còn má phấn môi son,
Còn đời, còn nước, còn non,
Hãy còn cát sĩ hãy còn cát nhân.
Thôi thì thôi, vườn xuân chực khóa,
Giận những loài nhạn cá ỏi tai!
Thôi thì vườn khóa then cài,
Lấp dòng lá thắm, ngăn loài chim xanh.
Nỡ nào để hồng ngâm chuột vọc,
Nỡ nào để hạt ngọc trâu vầy,
Quyết gan chờ kẻ cân đai,
Sớm khuya đành phó mặc nơi thanh hoàng.
Mã Long tuấn gặp chàng Bá Nhạc,
Ngọc Kinh sơn gặp được Biện Hòa.
Nước non kia hẳn chưa già,
Nhân duyên kia định, cũng là có nơi.
Còn hàn vi biết ai hay ai dở,
Trải phong trần mới rõ khá hèn.
Hễ mà vận đến thì nên,
Giàu sang cũng có, nhân duyên cũng mầu.
Phượng chắp cánh kia còn đợi gió,
Rồng sinh răng cũng biến lên mây,
Trăm năm có phải một ngày,
Ôm cầm lựa lọc so dây bốn bề.
Nên kết tóc xe tơ cho phải,
Đáng văn nhân tài tử mới trao,
Ngọc lành còn đợi giá cao,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Muộn thì muộn, muộn thì càng chắc,
Khó đành khó, khó chẳng lụy ai.
Giận duyên nói bấy nhiêu lời,
Ai khen cũng mặc, ai cười mặc ai.
Bần Nữ Thán là một thiên văn vần theo lối tự truyện trong nền văn học cổ Việt Nam. Truyện thơ gồm có 216 câu do một tác giả Vô Danh sáng tác được viết theo thể Song Thất Lục Bát. Đây là một thể thơ đặc biệt của nền thi ca Việt nam, gồm có 4 câu ba vần. Hai câu đầu có 7 chữ thuộc vần trắc và hai câu kế là 6 và 8 chữ thuộc vần bằng. Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa vần trắc của 2 câu 7 và vần bằng của 2 câu 6, 8 nên dễ gây xúc động lòng người. Nội dung của Bần Nữ Thán kể lại tâm sự buồn than [Thán] của một cô gái nhà nghèo [Bần Nữ] trước cảnh đời nhiều hệ lụy trắng đen.