LÀM THƠ
Lúc túng mưu mô quỵt cả ... Trời
Trời cười truyền chỉ bác Thiên Lôi (1)
Mau mau tóm gã ngông cuồng đó
Bắt hắn làm thơ ... trả nợ đời
Tấp tểnh làm thơ, tập tễnh mơ
Từ năm mười sáu đến bây giờ
Một câu một chữ không nên trọn
Rõ ngọng làm thơ, rõ ngốc mơ
Rượu nốc tì tì dăm bảy hũ
Thơ nặn không ra lấy nửa vần
May mà Thi Thánh đem lòng giúp
Phong trần lãng tử hóa thi nhân
HSN (Tự trào-1999)
_________________
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần
(1) Hai câu đầu nhái thơ Tú Xương : Lúc túng mưu mô bán cả Trời // Trời cười thằng bé nó hay chơi....
==========
THI PHÁP
Nội Dung
==========
Thi Pháp là một tập tư liệu biên khảo bao gồm chín nội dung như sau :
1-Thơ Lục Bát Chính Thể
2-Các Biến Thể của Thơ Lục Bát
3-Thất Ngôn Bát Cú Xưa và Nay
4-Xướng Họa và Liên Ngâm với TNBC
5-Thơ Mới 7 chữ
6-Thơ Mới 3,4,5,6 chữ
7-Thơ Mới 8 chữ
8-Thơ Lập Thể
9-Thơ Tự Do
***
Đôi lời phi lộ
1-Mục đích của loạt bài này là nhằm giúp các bạn trẻ yêu thơ, nhưng chưa biết cách làm thơ, có cơ hội trang bị một số công cụ quan trọng cần thiết khi sáng tác.
Thử tưởng tượng một người thợ mộc nếu không có cưa, giũa, đục, bào, kìm, búa v.v... thì biết xoay sở làm sao với thanh gỗ, làm sao mà tạo ra được những tác phẩm bình thường, còn nói gì đến những tuyệt tác tinh xảo ?
Làm thơ cũng là một hoạt động sáng tạo, cũng đòi hỏi phải có những công cụ, những thủ thuật, những kỹ xảo, những yếu quyết riêng của nó vậy.
2-Đối tượng của loạt bài này là các bạn trẻ yêu thơ, muốn khởi đầu nghiệp thi ca tài tử của mình, mà hành trang chưa có chút vốn liếng nào, thậm chí cũng không biết khởi đầu từ đâu; Một đối tượng khác nữa là một số các bạn thơ đã biết , đã ít nhiều lăn lóc với thơ và còn muốn trang bị thêm những kiến thức về nó
Xin các bạn thơ đã có bản lãnh rồi miễn trách tôi nói dông nói dài nhé. Những bất đồng quan điểm nếu có, xin cũng mạn phép Miễn Tranh Luận. Vì thật ra, để đến La Mã có rất nhiều đường. Những khái niệm mà tôi nêu ra ở đây chỉ là một trong vô số các đường ấy mà thôi. Nếu những con đường này có khác biệt nhau, cũng không có gì là lạ cả.
3-Các thí dụ minh hoạ trích dẫn ở đây xuất xứ từ 2 nguồn :
-Một là : từ các thi hào danh tiếng như Nguyễn Du, v.v....Học tập, bắt chước các danh sĩ đã có tiếng tăm là chuyện đương nhiên, không có gì phải bàn cãi.
-Hai là : từ chính những bài viết của Hàn Sĩ Nguyên. Mục đích của việc này không phải để đề cao mình, mà là nhằm chứng minh cho các bạn trẻ thấy HSN (cũng tầm thường, bình thường như các bạn) bắt chước các danh sĩ được, thì các bạn trẻ cũng làm được; theo kiểu “Yan can cook, you can, too !” vậy. Việc học tập , bắt chước Nguyễn Du v.v... không hề nằm ngoài khả năng của các bạn đâu. Chẳng có gì phải tự ti mặc cảm cả, các bạn ạ.
4-Những bài viết này trước đây chính tôi đã đăng 2 chương một và hai trên website Trí Tuệ Việt Nam Online, và sau này là website Trinh Nữ. Sau đó, những nội dung ấy được nhiều bạn, quen hoặc chưa quen có nhã ý chuyển tải đi nhiều websites khác nữa... Và nội dung đôi khi bị thêm bớt, hoặc rơi vãi, không tránh khỏi TAM SAO THẤT BẢN. Gần đây, nhiều bạn thơ có gửi e-mail cho tôi đề nghị đăng lại các nội dung của tập sách 9 chương này, chứ chờ sách in thì lâu quá. Hàn Sĩ vốn... túi thủng, biết đến thuở nào mới có đủ kinh phí mà in (!)
5-Như tên gọi của tập sách : THI PHÁP HSN, đây là một bộ tư liệu nói về những PHƯƠNG PHÁP làm thơ, way to make verse, chữ PHÁP này không phải là LUẬT PHÁP (law), mà là PHƯƠNG PHÁP... Vì theo thiển ý, làm thơ là một nghệ thuật của trí tuệ, ta chỉ cần học biết CÁCH làm thôi (như học nấu ăn, học cắm hoa, học gảy đàn vậy)... chứ chả cần học LUẬT LỆ quái quỷ chi hết cho nhọc lòng. Có ai cần học Luật nấu ăn, Luật cắm hoa, Luật gảy đàn bao giờ đâu nhỉ? Nhưng Cách nấu thì cần thật đấy, cần lắm các bạn thân mến ạ.
Chúc các bạn tìm thấy đôi điều bổ ích nơi đây
HSN
============
THI PHÁP
Chương I
Thơ Lục Bát
============
Bài 1-Làm sao làm thơ Lục Bát ?
Bài 2- Những lỗi thường gặp trong thơ Lục Bát
Bài 3-Những thủ thuật Mỹ từ pháp trong thơ Lục bát
oOo
Bài 1-Làm sao làm thơ Lục Bát ?
1-Thơ Lục Bát là gì ?
Là một thể thơ thuần túy Việt Nam, gồm một câu 6 chữ, nối theo một câu 8 chữ, rồi lại một câu 6 chữ, một câu 8 chữ ... liên tiếp vô cùng vô tận
2-Độ dài của một bài thơ Lục Bát :
a- Lục bát ngắn :
+Bài ngắn nhất gồm 2 câu : một câu lục (6 chữ), một câu bát (8 chữ) thường gặp trong ca dao, thí dụ như :
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
+Các bài ngắn khác gồm 4, 6, 8, 10 câu, thí dụ như :
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn , trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ
b-Lục bát trung bình :
Thường có độ dài từ 12 đến 24 câu, tối đa là 36 câu mà thôi. Nếu dài quá bài thơ sẽ bị nhàm chán, mất hay.
Chẳng thương ...
Chẳng thương cũng gọi rằng chồng
Chẳng tình cũng nghĩa, chẳng mong cũng chờ
Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt, nhạt nhòa mưa xuân
Hỏi người tham bã phù vân
Nhớ chăng bể ái nguồn ân thuở nào
Lưng dưa dĩa muối bên nhau
Gừng cay khế ngọt biết bao nhiêu tình
Ngỡ rằng phu quý phụ vinh
Ngờ đâu rũ áo dứt tình theo ai
Một mai phấn nhạt hương phai
Bình rơi, trâm gãy, bèo trôi, hoa tàn
Trách mình số kiếp gian nan
Trách trời ghen ghét hồng nhan muộn rồi !
Mộng mơ chi lắm người ơi
Nồi nào vung nấy suốt đời thong dong
Mộ Trung Nhân
c-Trường thiên lục bát :
Thường gặp trong các bộ truyện thơ , thí dụ như :
-Thạch Sanh Lý Thông (1790 câu)
-Truyện Kiều tức Đoạn Trường Tân Thanh (3254 câu)
-Thừa Tướng Ứng Hầu Phạm Thư (3380 câu)
Truyện thơ dài nhất tính đến nay được biết là bộ truyện thơ Cuộc đời Chúa Cứu Thế (hơn 9 ngàn câu) của nhà thơ Linh mục Xuân Văn
3-Cách gieo vần trong thơ Lục Bát :
Lục Bát chính thể là thể loại nối tiếp một câu 6, một câu 8 rồi lại đến một câu 6, một câu 8 khác , cứ thế nối tiếp nhau, trong đó cách gieo vần như sau :
-Chữ thứ 6 câu 1 ăn vần với chữ thứ 6 câu 2
-Chữ thứ 8 câu 2 ăn vần với chữ thứ 6 câu 3
-Chữ thứ 6 câu 3 ăn vần với chữ thứ 6 câu 4
-Chữ thứ 8 câu 4 ăn vần với chữ thứ 6 câu 5
..... cứ như thế nối tiếp nhau mãi
Thí dụ 1: Ca dao
Anh về rẫy vợ anh RA
Công nợ em trả, mẹ GIÀ em NUÔI
Anh đã rẫy vợ anh RỒI
Công nợ anh trả, anh NUÔI mẹ già .
Thí dụ 2 : Cây thông ( Nguyễn Công Trứ )
Ngồi buồn mà trách ông XANH
Khi vui muốn khóc, buồn TÊNH lại CƯỜI
Kiếp sau xin chớ làm NGƯỜI
Làm cây thông đứng giữa TRỜI mà REO
Giữa trời vách đá cheo LEO
Ai mà chịu rét thì TRÈO với thông .
4-Luật Nhị Tứ Lục trong thơ Lục bát : (Luật B-T-B)
Điều này không quy định thành luật bắt buộc chính thức, nhưng thường thì muốn cho một câu thơ hay, phải tuân thủ luật nhị tứ lục (chữ thứ 2,4,6 trong câu phải mang thanh Bằng, Trắc, Bằng theo thứ tự).
+Riêng chữ thứ 2 được phép linh dộng tự do, muốn Bằng Trắc gì cũng được
+Mấu chốt ở nơi chữ thứ 4 bắt buộc phải là thanh Trắc ( có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng ) và chữ thứ 6 bắt buộc phải là thanh Bằng ( không dấu, hoặc dấu huyền ) .
Tóm tắt : Phải tuân theo luật 'Tứ Trắc Lục Bằng'
5-Luật Phù Trầm trong thơ Lục bát :
Phù : nổi
Trầm : chìm
Bình thanh : thanh bằng
Phù bình thanh : thanh bằng nổi, không dấu
Trầm bình thanh : thanh bằng chìm, có dấu huyền
Trong câu bát (câu 8 chữ) của bài Lục bát, đã hình thành một quy luật, một giao ước như sau :
-Nếu chữ thứ 6 của câu bát là Trầm Bình Thanh (dấu huyền) thì chữ thứ 8 của câu ấy phải là Phù Bình Thanh (không dấu).
Thí dụ :
Người đi, người đã đi rồi
Sao còn đứng đó ngậm NGÙI mà CHI
(HSN-Thừa Tướng Ứng Hầu Phạm Thư)
-Ngược lại, nếu chữ thứ 6 là Phù Bình Thanh (không dấu) thì chữ thứ 8 phải là Trầm Bình Thanh (dấu huyền).
Thí dụ :
Hỡi ơi người đó ta đây
Trăm năm trăm tuổi bèo MÂY hững HỜ
(HSN-Mộ Sầu)
Tóm lại :
Chỉ cần bấy nhiêu vốn liếng thôi, các bạn cũng đã đủ để viết được thơ lục bát rồi vậy.
Tuy nhiên, muốn viết được một bài Lục bát cho hay, nhất thiết phải tránh không để vấp phải lỗi Lục bát trôi xuôi, lỗi lạc vận và lỗi vần trùng lặp
Bài 2- Những lỗi thường gặp trong thơ Lục Bát
1-Lỗi vần trùng lặp
2-Lỗi lạc vận
3-Lỗi Lục bát trôi xuôi
1-Lỗi vần trùng lặp
Như đã nói trong phần “Cách gieo vần trong thơ Lục Bát chính thể” ở trên :
-Chữ thứ 6 câu 1 ăn vần với chữ thứ 6 câu 2 : Yêu vận
-Chữ thứ 8 câu 2 ăn vần với chữ thứ 6 câu 3 : Cước vận
-Chữ thứ 6 câu 3 ăn vần với chữ thứ 6 câu 4 : Yêu vận
-Chữ thứ 8 câu 4 ăn vần với chữ thứ 6 câu 5 : Cước vận
Trong đó :
-Yêu vận là vần lưng, gieo ở giữa câu (Yêu = lưng), mục đích nối kết câu 6 với câu 8
-Cước vận là vần chân, gieo ở cuối câu (Cước = bàn chân), mục đích để chuyển sang một vần mới
Thí dụ :
Tình Cờ
Tình cờ gặp lại nhau đây
Tóc vương màu cỏ, áo phai bụi ĐƯỜNG
Gợn buồn xen lẫn yêu thương
Chút tình thơ dại vấn vương bao NGÀY
Ngượng ngùng tay lại cầm tay
Rưng rưng mắt biếc, ngây ngây má HỒNG
Nhìn nhau lòng những thẹn thùng
Vì đâu ai bỗng lạnh lùng với AI ?
Người song cửa, kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình CỜ !
Hàn Sĩ Nguyên
Tóm lại :
Chữ thứ 8 trong câu bát có nhiệm vụ chuyển đoạn thơ kế tiếp sang một vần mới. Vần của nó phải khác với vần của chữ thứ 6 trước đó
Như trong bài Tình cờ nói trên, những chữ thứ 8 trong các câu bát cụ thể là ĐƯỜNG (trong câu 2), NGÀY (trong câu 4), HỒNG (trong câu 6), AI (trong câu 8) và CỜ (trong câu 10) có nhiệm vụ chuyển đoạn thơ kế tiếp sang một vần mới, giúp cho bài thơ không bị trùng lặp về vần, tránh sự nhàm chán
***Nếu vì sơ xuất mà viết chữ thứ 6 và chữ thứ 8 cùng một vần, ta sẽ mắc phải lỗi vần trùng lặp.
Thí dụ :
Thôi đừng mơ tưởng bên nhau
Thế nhân lắm kẻ chung ĐẦU phụ SAU
Hoặc :
Tàn rồi một cánh hoa mơ
Trên sông khuya nhớ bến BỜ lửng LƠ
Trong những câu bát này, chữ thứ 6 (ĐẦU, BỜ), và chữ thứ 8 (SAU, LƠ) cùng một vần, hậu quả là đoạn thơ kế tiếp cũng sẽ cùng một vần với đoạn trước đó ... Đó là lỗi vần trùng lặp, làm cho bài thơ bị nhàm
Thật lạ là có nhiều tay cao thủ về thơ, nhưng khi viết thơ Lục bát vẫn dính lỗi này (!)
Để tránh lỗi này, khi viết câu bát ta chỉ cần lưu ý cho chữ thứ 6 và chữ thứ 8 khác vần là xong .
2-Lỗi lạc vận :
-Tu từ ( các thủ pháp mỹ từ hoá )
-Tiết tấu bổng trầm ( do luật phù trầm , tứ trắc lục bằng quyết định )
-Sự hoà hợp về vần
Là những yếu tố quan trọng nhất, góp phần hình thành nên một bài thơ hay. Sự hoà vận này bao gồm bốn mức độ khác nhau :
a-Chính vận :
-A với A
-I với I
-AI với AI
-ONG với ONG v.v....
gọi là chính vận ( vần nào ăn khớp chặt chẽ với vần nấy )
b-Thông vận :
-A với OA
-I với Ê, IA
-AI với AY, ÂY
-EM với ÊM, IM, IÊM
-ANH với INH, ÊNH
-ONG với ÔNG - UNG v.v...
gọi là thông vận ( vần hơi khác loại nhưng ăn thông với nhau được )
c-Cưỡng vận :
-AN với ANG
-ON với OM, ÔN với ÔM
-IN với INH, IM
-ÊN với ÊM, ÊNH v.v.....
gọi là cưỡng vận ( vần ép, vần cưỡng bách )
d-Lạc vận :
-Ơ với ƠI
-A với AI, IA
-ÔI với ÔN, ÔM, ÔNG
-ƠI với ƠN
-AI với AN , ANG v.v....
gọi là lạc vận ( vần ăn ... trét; không hoà vận )
Trong 4 cách hoà vận nói trên
-Chính vận thường chặt chẽ, nhưng cũng gò bó, kém phần linh động.
-Thông vận là cách hòa vận thoải mái nhất, làm cho bài thơ trở nên đặc sắc, biến ảo vô cùng
-Cưỡng vận là vần ép, miễn cưỡng cũng có thể dùng được, nhưng nếu sử dụng cưỡng vận nhiều quá, sẽ làm giảm giá trị câu thơ
Tóm lại :
Cả ba cách hoà vận nói trên đều dùng được
Chỉ riêng Lạc vận là phải tuyệt đối tránh, gieo vần lạc vận kể như bài thơ hỏng
Những tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều của Nguyễn Du sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều về cách thức gieo vần vậy. Nói chung là cái gì Nguyễn Du làm được, ta cũng có thể noi theo được.
3-Lỗi Lục bát trôi xuôi :
Một bài lục bát dẫu thật chuẩn về âm vận (vần) và tiết tấu (theo đúng luật tứ trắc lục bằng, và luật phù trầm), nhưng nếu vấp phải lỗi lục bát trôi xuôi, thì cũng chỉ là một bài thơ tầm thường mà thôi.
Như thế nào gọi là lục bát trôi xuôi ?
Lục bát trôi xuôi là một bài lục bát ý thơ trải đều một nhịp, miên man trôi chảy đều đều từ đầu đến cuối như một dòng sông lặng lẽ, không có đột biến, không cả mỹ từ pháp. Nói cách khác, đó là bài thơ phạm phải lỗi MONOTONE (đều đều một nhịp) vậy
Thí dụ về một bài Lục bát trôi xuôi :
Đoá hồng
Anh cho em một đóa hồng
Khơi lên hy vọng trong lòng của em
Anh ơi em khóc bao đêm
Lòng em chết rũ trong niềm yêu thương
Em thức trắng một canh trường
Vừa yêu nhau đấy người thương xa rồi
Tay em nắn nót tên người
Đóa hồng trên giá trêu ngươi cợt đùa...
( Tác giả vô danh )
Trong bài thơ này, vần gieo khá chặt chẽ, chính xác, luật tứ lục, phù trầm phân minh, nhưng phạm lỗi lục bát trôi xuôi nên ý thơ dẫu hay đến mấy thì cách thể hiện cũng thật là tầm thường vậy
***Làm thế nào tránh được lỗi “Lục bát trôi xuôi” ?
Câu trả lời duy nhất là phải áp dụng các thủ pháp tu từ, hoặc mỹ từ pháp mới có thể tránh được lỗi này. Và đó cũng chính là nội dung của bài sau : bài 3.
Bài 3 –Thuật sử dụng Mỹ Từ Pháp trong thơ Lục Bát
I-Thủ pháp Ngắt mạch
II-Thủ pháp Tiểu đối
III-Thủ pháp Đồng dạng
IV-Thủ pháp Đảo ngữ & Ẩn ngữ
V-Thủ pháp Điệp ngữ
..v.v..
===============================
Để tránh lỗi Lục bát trôi xuôi (một lỗi nặng), và cũng để nâng cao giá trị một bài thơ lục bát, cách duy nhất là phải sử dụng Mỹ Từ Pháp, bao gồm những thủ thuật như sau :
I-Thủ pháp Ngắt mạch :
Một cặp thơ lục bát bao gồm 2 câu 14 chữ, nếu để nó trôi xuôi hết cặp này nối theo cặp khác, tất nhiên không thể tránh khỏi bị nhàm chán.
Thủ pháp ngắt mạch không những giúp tạo đột biến cho dòng chảy, mà còn gia tăng hình ảnh, màu sắc, âm thanh, hương vị cho câu thơ nữa
1-Ngắt mạch 2/2/2 trong câu lục và 2/2/2/2 trong câu bát:
Thay vì một câu lục 6 chữ diễn tả một ý SVO ( chủ từ - động từ - đối từ ) kiểu như :
- Anh (S) cho (V) em (IO) một đoá hồng (DO)
(IO: indirect object, đối từ gián tiếp chỉ người.
DO: direct object, đối từ trực tiếp chỉ vật)
Câu lục có thể phân làm 3 đoạn, mỗi đoạn 2 chữ mang một ý, một hình tượng nào đấy, lập tức câu lục này sẽ mang 3 hình tượng vừa làm giàu cho câu thơ, vừa phá thế đơn điệu .
*Thí dụ : Từ 2 câu đầu bài “Đoá hồng”:
Anh cho em một đoá hồng
Khơi lên hy vọng trong lòng của em
Có thể sử dụng thuật “Ngắt mạch 2/2/2” viết lại thành :
Nụ cười, ánh mắt, hoa hồng
Cho em, cho cả tấm lòng thương yêu
*Các thí dụ khác :
Này chồng / này mẹ / này cha
Này là em ruột / này là em dâu
..................................(Nguyễn Du-Kiều)
Râu hùm / hàm én / mày ngài
Vai năm tấc rộng / thân mười thước cao
........................................(ND-Kiều)
Sấm vang / chớp giật / gió đưa
Mây mù se mối / hạt mưa kết tình
........................(HSN-Người trong mưa)
Một mai phấn nhạt hương phai
Bình rơi / trâm gãy / bèo trôi / hoa tàn
............................(MTN-Chẳng thương)
2-Thủ pháp ngắt mạch 3/3 (Câu 6) V 4/4 (Câu 8) :
Ngắt câu lục thành 2 đoạn, mỗi đoạn 3 chữ, ngắt câu bát thành 2 đoạn mỗi đoạn 4 chữ
Thí dụ :
Khi chén rượu / khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở / khi chờ trăng lên
............................................(ND-Kiều)
Khi gió mát / khi trăng thanh
Ai người nhắc kẻ lữ hành đường xa
..............................................(HSN-Ngàn dâu)
Người song cửa / kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình cờ
.........................................(HSN-Tình cờ)
3-Các thủ pháp Ngắt mạch khác :
-1/5 trong câu lục, thí dụ :
Rằng /: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thời cũng người ta thường tình
.............................................(ND-Kiều)
-2/4 trong câu lục, thí dụ :
Vầng trăng / ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc / nửa soi dặm trường
..............................................(ND-Kiều)
Mảng nghe : / Tần chẳng có vua
Thái hậu nhiếp chính ầu ơ điện tiền
.......(HSN-Thừa Tướng Ứng Hầu Phạm Thư)
-3/5 hoặc 3/3/2 trong câu bát, thí dụ :
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm
Chẳng bao lâu / tất sắt cầm hợp hoan
.......................(HSN-Hoa Cúc Vàng)
-2/6 hoặc 2/4/2 trong câu bát, thí dụ :
Ôi Kim lang / hỡi Kim lang
Thôi thôi / thiếp đã phụ chàng từ đây
...............................................(ND-Kiều)
Tóm lại :
Trên đây là các thủ pháp ngắt mạch chính nhằm tạo ra đột biến và làm giàu cho câu thơ. Lưu ý rằng ở vị trí ngắt mạch muốn đặt dấu phẩy cũng được, mà không đặt cũng được, để người đọc tự ngắt mạch lấy càng hay !
HSN
II-THỦ PHÁP TIỂU ĐỐI
Khi thực hiện thủ pháp ngắt mạch, đặc biệt là với thủ pháp ngắt mạch 3/3 trong câu lục và 4/4 trong câu bát, thường thì các thủ pháp Tiểu đối và Tiểu đồng dạng cũng hay được sử dụng lồng vào, làm gia tăng hẳn giá trị của câu thơ.
1-Tiểu đối 3/3 và 4/4 :
Tiểu đối là một hình thức đối ngẫu thực hiện trên cùng một câu thơ bằng cách ngắt mạch câu thơ ấy thành ra 2 nửa , nửa nọ đối chặt chẽ với nửa kia. Trong câu lục ta sẽ có tiểu đối 3/3, trong câu bát sẽ có tiểu đối 4/4.
Hai vế trong câu thực hiện tiểu đối phải vừa đối ý, đối thanh, vừa đối cả từ loại .Thí dụ :
Làn thu thuỷ / nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh
.........................................(ND-Kiều)
Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười
........................................(ND-Kiều)
Người song cửa / kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình cờ
.....................................(HSN-Tình cờ)
Khi sương sớm / lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng vang xa tiếng đàn
...............................................(HSN-TTUHPT)
Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Vó câu khấp khểnh / bánh xe gập ghềnh
..................................................(ND-Kiều)
Xa quê từ ấy đến giờ
Lối xưa quên lối / đường xưa lạc đường
..........................................(HSN-Ngàn dâu)
Người này đáng mặt thần nhân
Tài kiêm văn võ, quỷ thần cũng thua
Hiền tài bậc nhất bây giờ
Pháp binh thông tỏ / thi thư am tường
.............................................(HSN-TTUHPT)
Có thể nói Tiểu đối là một thủ pháp quan trọng bậc nhất của thơ lục bát vậy
***Qua những thí dụ về Tiểu đối nêu trên , dễ dàng nhận thấy rằng :
-Trong câu lục : Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Chữ thứ nhất đối với chữ thứ tư ( Mai /Tuyết)
Chứ thứ hai, thứ ba đối với chữ thứ năm , thứ sáu (Cốt cách / Tinh thần)
-Trong câu bát : Vó câu khấp khểnh / bánh xe gập ghềnh
Chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ năm, thứ sáu (Vó câu / Bánh xe)
Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ bảy, thứ tám (Khấp khểnh / Gập ghềnh)
***Bây giờ giả sử rằng trong câu bát, nếu chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ bảy, thứ tám. Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ năm, thứ sáu ... thì sao ??? thì có được không ??? Lúc ấy có còn là Tiểu đối nữa hay không ???
Câu trả lời là được, đó vẫn là Tiểu Đối, mà hơn thế nữa, nó còn là một loại tiểu đối đặc biệt có tên là ....Tiểu đối qua gương.
2-Tiểu đối qua gương :
Là loại đối ngẫu cũng thực hiện trên cùng một câu thơ ; trong đó câu thơ được ngắt thành hai nửa, nửa nọ đối chặt chẽ với nửa kia, giống như Tiểu đối thường 3/3 hoặc 4/4 kể trên.
Điểm khác biệt duy nhất là
-Chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ bảy, thứ tám
-Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ năm, thứ sáu
( tưởng tượng giống như một vật đối xứng, phản chiếu qua một tấm gương vậy)
*Một số thí dụ về Tiểu đối qua gương :
Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt / nhạt nhòa mưa xuân
.............................(MTN-Chẳng thương)
Gió xuân / Mưa xuân - Hiu hắt / Nhạt nhòa
Gợn buồn thoảng chút bâng khuâng
Xưa sao nhung gấm / phong trần bấy nay ?
...................................(HSN -Tình cờ)
Nhung gấm / Phong trần ; Xưa / Nay
Long Hồ dinh / tỉnh Vĩnh Long
Có sông Mang Thít xuôi dòng Quới An
Có thầy giáo Ngữ nghệ nhân
Lão thông cung bậc / ngũ âm tinh tường
..........................(HSN - Hoa Cúc Vàng)
Trong đoạn thơ ngắn 4 câu này, ta thấy thủ pháp Tiểu đối qua gương đã 2 lần được vận dụng :
Long Hồ / Vĩnh Long ; Dinh / Tỉnh
Lão thông / Tinh tường ; Cung bậc / Ngũ âm
Bấy giờ mất biến thành còn
Tái hồi nhân thế / quỷ môn giã từ
...............(HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư)
nhân thế / quỷ môn; Giã từ / Quy hồi
Tóm lại :
Cùng là Tiểu đối cả , nhưng :
-Tiểu đối thường : nửa nọ trượt trên nửa kia
-Tiểu đối qua gương : nửa sau là mảnh lật ngược của nửa trước vậy.
3-Tiểu đối mini 2/2 :
Trong thơ lục bát, bất luận là câu lục hay câu bát, ta thường thấy xuất hiện những cụm từ 4 từ , bao gồm 2 nửa, mỗi nửa có 2 từ đối nhau chan chát : Đó chính là tiểu đối mini 2/2
Tiểu đối loại này rất gần với phong cách nói đặc sắc của người Việt ( đặc biệt là người miền Bắc ) : Bay bướm, đối ngẫu, có ca có kệ, như hát như ru ...
Thí dụ :
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu
Áo xiêm trói buộc lấy nhau
[Vào luồn / ra cúi] công hầu mà chi
Sao bằng riêng một biên thùy
[Tài này / sức ấy] làm gì được nhau
…………………..Nguyễn Du - Kiều
Người này [tuổi trẻ / tài cao]
[Con dòng / cháu giống],[vương hầu / danh gia]
Cha là Mã Phục Triệu Xa
[Đánh thành / xung trận] kể đà mấy mươi
Ngày nay đang lúc cần người
Phong cho làm tướng, thải hồi Liêm Pha
……… HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư
Hỏi rằng con suối đi đâu ?
Trăm năm ghềnh đá bạc đầu chờ mong
[Hoa rơi / nước cuốn] theo dòng
Cho ta nhắn gửi nỗi lòng hoa ơi
Suối đi [cuối đất / cùng trời]
Trùng phùng biển cả, đơn côi núi rừng
Nước trôi róc rách mông lung
Miên man sương lạnh, mênh mông câu thề
Suối đi, suối có trở về ?
Đầu ghềnh trơ đá, đáy khe sũng buồn
Đêm qua [chớp giật / mưa tuôn]
Dạt dào con suối xa nguồn về xuôi
Bạc lòng chi lắm suối ơi
An Tây ghềnh đá suốt đời trông theo
………………………. Hàn Sĩ Nguyên
Chẳng thương ...
Chẳng thương cũng gọi rằng chồng
Chẳng tình cũng nghĩa, chẳng mong cũng chờ
Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt, nhạt nhòa mưa xuân
Hỏi người tham bã phù vân
Nhớ chăng [bể ái / nguồn ân] thuở nào
[Lưng dưa / dĩa muối] bên nhau
[Gừng cay / khế ngọt] biết bao nhiêu tình
Ngỡ rằng [phu quý / phụ vinh]
Ngờ đâu [rũ áo / dứt tình] theo ai
Một mai [phấn nhạt / hương phai]
[Bình rơi / trâm gãy], [bèo trôi / hoa tàn]
Trách mình số kiếp gian nan
Trách trời ghen ghét hồng nhan muộn rồi !
Mộng mơ chi lắm người ơi
[Nồi nào / vung nấy] suốt đời thong dong
…………………..Mộ Trung Nhân
Hãy xem Bạch Khởi làm gương
[Công thành / danh toại] sớm phương quy hồi
[Rừng xanh / núi đỏ] rong chơi
[Trăng thanh / gió mát] bên người rừng mai
[Mây ngàn / hạc nội] chơi vơi
Vẫn hơn quyến luyến mãi mùi đỉnh chung
[Trù mưu / tính kế] bận lòng
Cuối cùng không lại hoàn không , ích gì ???
......................………..(HSN-TTUHPT)
-Còn tiếp-
HSN
III-THỦ PHÁP TIỂU ĐỒNG DẠNG và CÂU ĐỒNG DẠNG
Khi thực hiện thủ pháp ngắt mạch, đặc biệt là ngắt mạch 3/3 và 4/4, ngoài các thủ thuật về Tiểu đối nêu trên, thường thì thủ thuật tiểu đồng dạng cũng hay được vận dụng. Vậy thì Tiểu đồng dạng là gì?
Tiểu đồng dạng là thủ pháp thực hiện trong cùng một câu thơ, ngắt làm 2 nửa, 2 nửa này có cấu trúc giống nhau, tương tự với nhau, song song với nhau
Thí dụ :
Khi chén rượu/ khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở/ khi chờ trăng lên [Kiều-Nguyễn Du]
***Giá trị của tiểu đồng dạng so với tiểu đối hơn kém nhau như thế nào ?
Thật khó nói chắc là mèo nào sẽ cắn miu nào vậy. Đặc biệt là khi tiểu đồng dạng lại đi kèm cùng Điệp ngữ thì giá trị của nó không những không thua, mà đôi khi còn hơn hẳn tiểu đối nữa !!!
***Vậy tiểu đồng dạng khác tiểu đối ra sao ?
-Trong thủ pháp tiểu đối : Tất cả các thành phần của chúng đối nhau chặt chẽ
-Trong thủ pháp tiểu đồng dạng : ít nhất là có một thành phần giống nhau, đồng dạng với nhau. Các thành phần còn lại có thể hoặc đối nhau, hoặc đồng dạng với nhau đều được cả
Tóm lại, tiểu đồng dạng và tiểu đối có thể xem như một cặp anh chị em song sinh ... Chúng giống
và gần gũi với nhau đến nỗi có nhiều sách giáo khoa cũng tưởng lầm là một ... Thật ra đó là 2 thủ thuật khác nhau.
1-Phân biệt Tiểu đồng dạng và Tiểu đối :
Khi sương sớm / lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng vang xa tiếng đàn (HSN-UHPT)
.........( tiểu đối 3/3 khi đối thanh với lúc, sương sớm đối với nắng tà )
Khi gió mát / khi trăng thanh
Ai người nhắc kẻ lữ hành đường xa (HSN-Ngàn dâu)
.........(tiểu đồng dạng + điệp ngữ khi ; gió mát đối với trăng thanh)
2-Tiểu đồng dạng phối hợp cùng thủ pháp Ngắt mạch :
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên (ND-Kiều)
.........(Tiểu đồng dạng + điệp ngữ 4 chữ khi)
Ung dung đọc sách ngâm thơ
Vàng cho chẳng cất, bạc cho chẳng màng (HSN-UHPT)
........(Tiểu đồng dạng Vàng cho, bạc cho...)
Trời trong xanh / nước trong xanh
Êm êm tiếng hát, bập bềnh thuyền con
Đàn tơ sáo trúc nỉ non
Hỏi người có nhớ cô thôn nghĩa tình ? ( HSN-Vọng cô thôn)
……(Tiểu đồng dạng + điệp ngữ trong xanh; trời đối với nước)
3-Câu đồng dạng trong một trường đoạn, kết hợp cùng Điệp ngữ :
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
............................(Nguyễn Du - Kiều)
Trong đoạn này có đến 4 lần vận dụng thủ pháp câu đồng dạng kiêm điệp ngữ Buồn trông ...
Cử bôi cũng muốn tiêu sầu
Ngờ đâu càng uống càng đau trong lòng
Nhớ khi xưa, ở Đại Lương
Ngô khoai cơm độn vẫn thường sẻ đôi
Lâm Tri đi sứ mà vui
Đánh xe dắt ngựa mấy người như ta
Nhớ khi lệ đổ máu sa (3161)
Đường quanh lối tắt tránh xa Ngụy Tề
Ba hồn lạc, bảy phách mê
Ai gom lá thuốc đem về cứu ai
Nhớ khi ở cánh rừng mai
Cầm kỳ thi họa tháng ngày rong chơi
Xa quê sang nước non người
Bát cơm tân khách một thời long đong
Nhớ khi chờ đợi mông lung
Nỗi lòng thao thức tỏ cùng trời cao
Mưu hay đánh đổ Nhương hầu
Thu gom chức trọng quyền cao đến giờ
Chạnh lòng nhớ những ngày xưa
Cử bôi uống mãi chưa vừa xót xa
..........................(HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư)
Trong đoạn thơ này đã có 4 lần thủ pháp câu đồng dạng kiêm Điệp ngữ Nhớ khi được vận dụng .
=======================
Khi nói chuyện về cái hay của truyện Kiều trong 2 câu thơ sau :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
..............................................................(ND-Kiều)
Cử tọa thường nhất trí với tôi rằng quả thật là hay ! Hay quá đỗi hay !!!
Thế nhưng khi tôi đặt câu hỏi rằng :
-Đồng ý là hay thật ! Nhưng chủ từ (Subject) của chúng đâu ?, Động từ (Verb) là chữ nào ? Mấy câu ấy được hình thành theo cấu trúc , theo cú pháp (Structure) nào ???
Thì thường là không có mấy người chỉ ra được đâu là S đâu là V
Lại càng có ít người hiểu thấu cấu trúc của những câu ấy !!!
-Còn các bạn thì sao ? How about you ???
Câu hỏi này xin được giải đáp trong bài tới ......
HSN
Trong tiếng Anh, chúng ta thường gặp những câu như :
-So do I !
-Here's my bus
....
Hẳn là chúng ta cũng dễ dàng nhận ra những câu đó chẳng qua chỉ là :
-I do, too
-My bus is here
Các câu ấy đã được viết dưới dạng thức Đảo ngữ nhấn mạnh một điều gì đó mà thôi . Thật là bất ngờ khi nhận ra rằng trong 2 câu thơ lừng danh :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Nguyễn Du đã thực hiện cấu trúc đảo ngữ đến ba lần.
Ý ông muốn nói rằng :
-Trời (Chủ từ S) in (Động từ V) cái bóng của nó (Đối từ O : hiểu ngầm)
xuống đáy nước (Trạng từ chỉ địa điểm) một cách long lanh (Trạng từ chỉ
cách thức)
-Khói biếc (S) xây (V) thành bức tường thành (Trạng từ so sánh)
-Bóng vàng (= ánh trăng) (S) phơi ra (V) nơi đầu non, đầu núi(Trạng từ địa điểm)
Thật là những hình ảnh đẹp tuyệt vời, nhờ cấu trúc Đảo ngữ đã trở thành cô đọng đến mức cùng cực vậy
IV-THỦ PHÁP ĐẢO NGỮ và ẨN NGỮ
***Cấu trúc của một câu xuôi:
Câu phát biểu (Statement) của tiếng Việt cũng như của tiếng Anh thường có cấu trúc xuôi theo dạng :
S - V - IO - DO
I give you a rose
Anh cho em một đoá hồng
Nếu có trạng từ ( adverb ), các trạng từ này thường tuân theo trật tự ( HOW - WHERE -WHEN ), trong đó :
HOW : adverb of manner , trạng từ chỉ cách thức
WHERE : adverb of place, trạng từ chỉ địa điểm
WHEN : adverb of time, trạng từ chỉ thời gian
Trong những câu tắt , hoặc những câu có động từ intransitive ( động từ không cần đối từ O ), cấu trúc câu thường đơn giản là
S - V - Adv (How-Where-When)
Tóm lại, cấu trúc xuôi của một câu phát biểu (hay tường thuật) có thể tóm gọn dưới dạng
S - V - (O) - Adv
Chủ từ - Động từ - (Đối từ) - Trạng từ
*** Ẩn ngữ :
Là thủ pháp bỏ qua (omitted) một từ nào đấy. Từ thường được bỏ qua nhất trong thơ chính là Chủ từ S,
đôi khi các Động từ V cũng hay được bỏ rơi. Một bài thơ có nhiều chủ từ
quá thường là rất “nặng nề”, mất hết cả “tính thơ” vậy
Chính các Tính từ (Adjective) và Trạng từ (Adverb) là thành phần làm
linh động, làm giàu cho câu thơ nên ít khi bị bỏ rơi, mà thường hiện
diện nhiều hơn cả
*** Đảo ngữ :
Là thủ pháp lật ngược các thành phần trong một câu xuôi, thường dùng để nhấn mạnh (emphatic form)
Có 2 hình thức đảo ngữ chính, đó là :
-Đảo ngữ cấp 1 (hay đảo ngữ cục bộ)
-Đảo ngữ cấp 2 (hay đảo ngữ toàn phần)
1-Đảo ngữ cấp một (Đảo ngữ cục bộ) :
Chỉ đảo trạng từ lên đứng trước động từ , các thành phần khác giữ nguyên.
Câu [ S - V - O - Adv ] trở thành [ Adv - S - V – O ]
Một số thí dụ :
*** Tần ngần dạo gót lầu trang
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về
.................................................(ND-Kiều)
Trong câu này cả ẩn ngữ lẫn đảo ngữ cấp một đều được vận dụng :
-Ẩn ngữ : giấu đi chủ từ Kiều
-Ý của câu xuôi là : [Kiều] dạo gót (bước, tản bộ) một cách tần ngần qua chốn lầu trang
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ tần ngần lên đầu câu
*** Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
...........................................(ND-Kiều)
-Ẩn ngữ : Lũ sai nha
-Ý câu xuôi : Lũ sai nha vét sạch sành sanh những đồ tế nhuyễn, của riêng tây cho đầy túi tham [của chúng]
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ sạch sành sanh lên trước động từ vét
*** Nghênh ngang một cõi biên thùy
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương
Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần
...............................................(ND-Kiều)
-Ẩn ngữ : (S) Từ Hải, (V) trấn giữ, chiếm giữ
-Ý câu xuôi : [Từ HảI] [chiếm giữ] nghênh ngang [khắp] một cõi biên thùy
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ nghênh ngang ra trước SV Từ Hải chiếm giữ (ẩn)
-Đảo ngữ Năm năm trong câu cuối : [Từ Hải] hùng cứ một phương hải tần (duyên hải) [suốt trong] năm năm
*** Ngượng ngùng tay lại cầm tay
Rưng rưng mắt biếc, ngây ngây má hồng
........................................(HSN-Tình cờ)
-Ẩn ngữ : người này, người kia
-Ý câu xuôi : Tay [người này] lại cầm lấy tay [người kia] một cách ngượng ngùng
-Đảo ngữ : đảo trạng từ ngượng ngùng lên đầu câu
*** Tướng quân lão nhược họ Liêm
Nhát như thỏ đế, chỉ chuyên bố phòng
Bốn năm chẳng một chút công
Sợ Tần như cọp, một lòng cầu an
........................................(HSN-UHPT)
-Ẩn ngữ : động từ Lập , chủ từ Liêm Pha
-Ý câu xuôi : [Liêm Pha] chẳng [lập] được một chút công lao nào trong suốt bốn năm .
-Đảo ngữ : đảo trạng từ Bốn năm lên đầu câu
*** Trải qua mấy dặm rừng hoang
Âm u khói tỏa, điêu tàn miếu thiêng
Bốn bề không một ánh đèn
Trời vừa sập tối, điện tiền nghỉ chân
........(HSN-Thạch Sanh Lý Thông Tân Biên)
-Ẩn ngữ : (S) Thạch Sanh
-Ý câu xuôi : [Thạch Sanh] nghỉ chân ở tại điện tiền (trạng từ địa điểm), lúc trời vừa sập tối (trạng từ thời gian)
-Đảo ngữ : đảo cả 2 trạng từ Điện tiền, và Trời vừa sập tối lên đầu câu
Nhắc lại, cấu trúc câu xuôi thông thường là : S-V-[O]-Adv
***Nếu đảo trạng từ lên trước SV ta sẽ có Đảo ngữ cấp một (cấu trúc
Adv-S-V) cũng còn được gọi là Đảo ngữ cục bộ (Partially inverted
structure)
***Bây giờ nếu đảo ngược toàn bộ S-V-Adv thành cấu trúc Adv-V-S thì sao ? Lúc ấy ta sẽ được một cấu trúc đặc sắc hơn nữa, có tên là Đảo ngữ cấp hai, cũng còn được gọi là Đảo ngữ toàn phần (Entirely inverted structure).
2-Đảo ngữ cấp hai (Đảo ngữ toàn phần) :
Đảo ngữ cấp hai (hay đảo ngữ toàn phần) là một thủ pháp cao cấp của Mỹ Từ Pháp. Cấu trúc câu xuôi thông thường [ S-V-Adv ] được nghịch đảo toàn bộ thành [Adv-V-S] Trong cấu trúc này chủ từ S là chữ đi sau cùng (!)
Nhận ra được cấu trúc này trong một bài thơ nào đó đã khó... Thực hành viết đảo ngữ toàn phần trong thơ của mình, khi chưa quen, còn khó hơn gấp bội vậy.
Dưới đây là một số thí dụ về cấu trúc đảo ngữ toàn phần [Adv-V-S] này > Chủ từ S đuợc in đậm màu xanh
Tuyết / in / sắc ngựa câu giòn
Cỏ / pha / màu áo nhuộm non da trời
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Long lanh / đáy nước / in / trời
Thành / xây / khói biếc, non / phơi / bóng vàng
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng
Phòng văn hơi giá như đồng
Trúc / se / ngọn thỏ , tơ / chùng / phím loan
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau / treo / rèm nát, trúc / cài / phên thưa
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Rì rào / thoảng / tiếng mưa rơi
Bên tai / vang vọng / những lời yêu thương
.............................(HSN-Người trong mưa)
Từ đây muôn dặm quan san
Câu thơ, chung rượu, cung đàn lãng du
Này ân, này oán, này thù
Mộ sâu / chôn chặt / giấc mơ nửa đời
..........................(HSN-Ngày xưa)
Nửa vầng trăng sáng lung linh
Hoa khuya mới nở rung rinh giọt sầu
Trời đêm / lấp lánh / ánh sao
Ven sông lá rụng , bên cầu hoa rơi
................(HSN-Nửa vầng trăng 03)
Một lần chợt thấy em cười
Bâng khuâng tự hỏi phải người ngày xưa ?
Cũng là suối tóc đong đưa
Long lanh ánh mắt, đợi chờ khoé môi
Từ lâu / đã khuất / bóng người
Dư âm còn chút tiếng cười thơ ngây
...................(HSN-Bâng khuâng)
Kề vai, tựa gối, ấp đầu
Trọn đời bên khách má đào tri âm
Đó đây / văng vẳng / hồ cầm
Ứng Thành nào khác Mai Lâm quê nhà
Khi sương sớm, lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng / vang xa / tiếng đàn
...............(HSN-Thừa Tướng Ứng hầu Phạm Thư)
Hy vọng rằng các thí dụ này có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề. Thật ra, cấu trúc đảo ngữ này là cấu trúc khó , nhưng nếu vận dụng quen rồi thì khó cũng trở thành dễ mà thôi, các bạn ạ ...
Hàn Sĩ Nguyên
|