* Thương Ngô tức sự Thương Ngô mộ vũ Thương Ngô Trúc Chi ca (bài I) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài II) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài III) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài IV) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài V) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài VI) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài VII) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài VIII) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài IX) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài X) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài XI) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài XII) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài XIII-XIV-XV) Ngũ nguyệt quan cạnh độ Dương Phi cố lý Triệu Vũ đế cố cảnh Bất tiến hành Tam liệt miếu Quế Lâm Cù Các Bộ Quế Lâm công quán Quá Thiên Bình Vọng Tương Sơn tự Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch Tương Giang dạ bạc Phản Chiêu hồn Biện giả Trường Sa Giả Thái Phó
***
Thương Ngô tức sự (1)
蒼梧即事 虞帝南巡更不還 二妃洒淚竹成班 悠悠陳跡千年上 歷歷群書一望間 新潦初添三尺水 浮雲不辨九疑山 尋聲遙謝琵琶語 千里青衫不耐旋 Phiên âm: Thương Ngô tức sự (1)
Ngu Ðế (2) nam tuần cánh bất hoàn Nhị phi (3) sái lệ trúc thành ban Du du trần tích thiên niên thượng Lịch lịch quần thư nhất vọng gian Tân lạo sơ thiêm tam xích thủy Phù vân bất biện Cửu Nghi (4) san Tầm thanh dao tạ tì bà ngữ Thiên lí thanh sam (5) bất nại toàn
Nguyễn Du
Dịch thơ: Tức cảnh ở Thương Ngô
Vua Ngu đi mất không về, Trúc xanh đốm lệ hai phi khóc tìm. Nghìn năm cách biệt cổ kim, Lật trang phương cảo nỗi niềm rưng rưng. Lụt về ba thước triều dâng, Mây mờ che phủ mấy tầng Cửu Nghi. Xa nghe réo rắt tiếng tì, Áo xanh từ tạ còn đi nghìn trùng.
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(1) Thương Ngô 蒼梧: Ðất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay.
(2) Ngu Ðế 虞帝: Vua Thuấn 舜 đi tuần ở phương nam, chết ở núi Thương Ngô.
(3) Nhị phi 二妃: Chỉ hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh. Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm chết theo bên dòng sông Tương.
(4) Cửu Nghi 九疑: Núi có chín ngọn cao ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam.
(5) Thanh sam 青衫: Trong "Tì bà hành" 琵琶行 có câu: Giang châu tư mã thanh sam thấp 江州司馬青衫濕 (Quan Tư mã Giang Châu khóc ướt vạt tràng áo xanh), Nguyễn Du dịch là : Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng, Giọt châu tầm tã, đẫm tràng áo xanh.
***
025 Thương Ngô mộ vũ (Mưa chiều ở Thương Ngô)
蒼梧暮雨
雨滯潯江曉發遲 梧城薄暮尙霏霏 一江新潦平三楚 大半浮雲駐九嶷 窄窄小舟難過夏 鬖鬖長髮自知夷 平波日暮湘潭遠 杯酒憑欄吊二妃
Phiên âm: Thương Ngô mộ vũ
Vũ trệ Tầm Giang (1) hiểu phát trì Ngô thành bạc mộ thượng phi phi Nhất giang tân lạo bình Tam Sở (2) Đại bán phù vân trú Cửu Nghi Trách trách tiểu chu nan quá Hạ (3) Tam tam trường phát tự tri Di (4) Bình ba nhật mộ Tương Đàm (5) viễn Bôi tửu bằng lan điếu nhị phi (6)
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Mưa chiều ở Thương Ngô
Mưa làm trì trệ Tầm Giang, sáng lên đường muộn Đến thành Ngô, trời sắp tối, vẫn mưa lâm râm Cả sông lụt tràn đất Tam Sở Quá nửa mây nổi tụ ở núi Cửu Nghi Thuyền nhỏ hẹp khó qua miền đất Hạ Búi tóc để dài, tự biết mình là người Di Sóng yên, trời tối, Tương Đàm còn xa Dựa lan can rót rượu viếng hai bà phi
Dịch thơ: Mưa chiều ở Thương Ngô
Mưa phủ Tầm Giang, sáng đã chầy Thành Ngô chiều đến vẫn mưa bay Cửu Nghi đỉnh núi mây vần vũ Tam Sở lòng sông nước lụt đầy Thuyền bé long đong miền đất Hạ Tóc dài búi tó khác người đây Sóng êm, trời tối, Tương Đàm cách Rượu viếng nhị phi một chén này
Đặng Thế Kiệt dịch
*
Chú thích: (1) Tầm Giang: Tên một con sông thuộc huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, chảy qua Thương Ngô vào Quế Giang.
(2) Tam Sở: Ba miền nước Sở gồm Tây Sở, Nam Sở, và Đông Sở, nay là đất các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc.
(3) Hạ: Chỉ Trung Quốc (Hoa Hạ).
(4) Di: Chỉ chung những dân tộc phía đông Trung Quốc.
(5) Tương Đàm: Tên một huyện của tỉnh Hồ Nam.
(6) Nhị phi: Tức Nga Hoàng và Nữ Anh, hai bà vợ vua Thuấn
***
026 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô) (bài 1)
蒼梧竹枝歌
桂林新潦涌長川 水屋憑高欲上天 午後東風吹更急 往來無數廣東船
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca -
Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên Thủy ốc bằng cao dục thướng thiên Ngọ hậu đông phong xuy cánh cấp Vãng lai vô số Quảng Đông (2) thuyền
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài I)
Quế Lâm mới lụt, nước sông dâng to Nhà bè nổi cao muốn tới trời Sau trưa gió đông thổi càng gấp Bao nhiêu là thuyền Quảng Đông qua lại
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài I)
Quế Lâm lụt mới dâng trào Nhà bè nước nổi muốn cao tận trời Quá trưa, gió thổi tơi bời Quảng Đông vô số ngược xuôi những thuyền
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay.
(2) Quế Lâm: Thị trấn trên sông Quế Giang, ngày nay là thủ phủ tỉnh Quảng Tây.
***
027 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (2) (bài 2)
蒼梧竹枝歌
文昌閣上夜燈明 一片寒光射水晶 來往遊船不知數 滿江齊發棹哥聲
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca
Văn Xương (2) các thượng dạ đăng minh Nhất phiến hàn quang xạ thủy tinh Lai vãng du thuyền bất tri số Mãn giang tề phát trạo ca thanh
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài II)
Trên gác Văn Xương, đêm đèn sáng rực Một mảng sáng lạnh chiếu như thủy tinh Du thuyền qua lại nhiều vô số Đầy sông vang lên tiếng hát chèo thuyền
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài II)
Đêm đèn sáng rực gác Văn Xương Ánh lạnh chiếu lên loáng nước gương Qua lại du thuyền vô số kể Đua chèo ca hát rộn ràng sông
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay.
(2) Văn Xươn g: Đền thờ Văn Xương đế quân, vị thần chủ việc học và văn học.
***
028
Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (3) bài 3
蒼梧竹枝歌
雨自滂沱雲自癡 九疑山色望中疑 虞王葬處無丘墓 水面絃聲似二妃
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca
Vũ tự bàng đà vân tự si Cửu Nghi (2) sơn sắc vọng trung nghi Ngu vương táng xứ vô khâu mộ Thủy diện huyền thanh tự nhị phi (3)
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài III)
Mưa như ràn rụa, mây như thẫn thờ Màu núi Cửu Nghi trông không rõ Chỗ táng vua Ngu không có gò mộ Tiếng đàn trên mặt nước như là của hai phi
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài III)
Tầm tã mưa rơi, mây thẫn thờ Cửu Nghi màu núi cũng lu mờ Vua Ngu Thuấn chết không phần mộ Sóng nước hai phi gởi tiếng tơ
Đặng Thế Kiệt dịch
*
Chú thích:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay.
(2) Cửu Nghi: Núi có chín ngọn cao ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam.
(3) Nhị phi : Tức Nga Hoàng và Nữ Anh, hai bà vợ vua Thuấn.
***
028 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (4) bài 4
蒼梧竹枝歌
青山樓閣一層層 晝見煙霞夜見燈 古寺無名難問訊 白雲深處臥山僧
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca
Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng Trú kiến yên hà dạ kiến đăng Cổ tự vô danh nan vấn tấn Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài IV)
Lầu gác trên núi xanh tầng này nối tầng khác Ngày nhìn thấy khói ráng, đêm nhìn thấy đèn Chùa cổ không tên, khó hỏi thăm Ở nơi đầy mây trắng, nhà sư trên núi nằm
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài IV)
Núi xanh lầu gác lắm tầng Ngày nhìn khói ráng, đêm trông ánh đèn Chùa xưa khó hỏi tìm tên Núi cao mây trắng, sư yên chốn nằm
Đặng Thế Kiệt dịch
* Chú thích:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay.
***
030 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca - (Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (5) (bài 5)
蒼梧竹枝歌
浪花雙棹疾如飛 看罷龍舟抵暮歸 生面相逢無畏避 瓠犀微露笑南夷
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca
Lãng hoa song trạo tật như phi Khán bãi long chu để mộ quy Sinh diện tương phùng vô úy tị Hồ tê vi lộ tiếu Nam di
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài V)
Hai chèo tung sóng hoa, thuyền lướt như bay Xem đua thuyền rồng xong, đến tối mới về Mặt lạ gặp nhau không tránh né Hàm răng hạt bầu hé cười người Nam di
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài V)
Chèo tung hoa sóng lướt như bay Xem hết đua thuyền, tối mới về Mặt lạ gặp nhau không tránh né Hạt bầu răng hé cười Nam di
Đặng Thế Kiệt dịch
***
031 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (6) bài 6
蒼梧竹枝歌
一聲裂竹散硫磺 驚起沙汀鴈數行 天際遙瞻歸去處 蒼梧北上定衡陽
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca
Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng Thiên tế dao chiêm quy khứ xứ Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương (2)
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VI)
Một tiếng pháo trúc nổ tỏa khói lưu hoàng Làm kinh động mấy hàng chim nhạn vút lên từ bãi cát Vời trông chốn đi đến xa tít tắp phía chân trời Từ Thương Ngô đi theo hướng bắc hẳn là đến Hành Dương
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VI)
Tiếng đùng pháo trúc khói lưu hoàng Kinh động hàng chim vút bãi hoang Ngóng vọng phương trời xa diệu vợi Thương Ngô hướng bắc hẳn Hành Dương
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích: (1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南 ngày nay. (2) Hành Dương: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南 ngày nay.
***
032 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (7) bài 7
蒼梧竹枝歌
(VII) 長江破浪渺無涯 三五遊船趁夜開 無月無燈看不見 琵琶聲自水中來
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (VII)
Trường giang phá lãng diểu vô nhai Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai Vô nguyệt vô đăng khán bất kiến Tì bà thanh (2) tự thủy trung lai
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VII)
Sông dài lớn, sóng nổi mông lung không bờ bến Năm ba du thuyền lướt nhanh xé màn đêm Không trăng, không đèn, nhìn chẳng thấy gì cả Nghe tiếng tỳ bà từ dưới nước vọng lên
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VII)
Sông dài khói sóng nước mông mênh Dăm chiếc du thuyền lướt bóng đêm Trăng vắng, đèn không, nhìn chẳng thấy Tiếng tì nghe vẳng đáy sông lên
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南 ngày nay. (2) Tì bà thanh: Tiếng đàn của hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh. Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm chết theo chồng bên dòng sông Tương.
***
033 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (8) bài 8 蒼梧竹枝歌
雞籠山在水中央 萬頃煙波共渺茫 相約東家具舟楫 天妃閣上共焚香
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (VIII)
Kê Lung (2) sơn tại thủy trung ương Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang Tương ước đông gia cụ chu tiếp Thiên phi (3) các thượng cộng phần hương
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VIII)
Núi Kê Lung ở giữa lòng nước Muôn khoảng khói sóng đều mênh mang mờ mịt Hẹn với nhà xóm đông chuẩn bị thuyền chèo Cùng nhau lên gác Thiên phi thắp hương
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VIII)
Giữa lòng sông mọc núi Kê Lung Sóng nước mênh mang khói mịt mùng Hẹn với nhà đông thuyền mái sẵn Gác Thiên phi đến thắp hương cùng
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay. (2) Kê Lung: Tên núi, hình giống lồng gà. (3) Thiên phi: Chỉ hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh.
***
034 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (9) bài 9
蒼梧竹枝歌
城北山榴紅更紅 城南垂柳不禁風 絮飛花落無人管 一夜隨流到廣東
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (IX)
Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng Thành nam thùy liễu bất câm phong Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản Nhất dạ tùy lưu đáo Quảng Đông
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (IX)
Phía bắc thành, hoa sơn lựu đỏ, càng đỏ thêm Phía nam thành, liễu rủ không đương nổi với gió Tơ bay, hoa rụng không ai để ý Một đêm chảy theo dòng nước đến Quảng Ðông
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (IX)
Bắc thành sơn lựu đỏ hoa Nam thành liễu chắn gió qua như thường Tơ bay, hoa rụng ai thương Quảng Ðông một tối theo trường giang đi
Đặng Thế Kiệt dịch
***
035 Thương Ngô Trúc Chi ca (10) bài 10
蒼梧竹枝歌
斑竹煙筒尺二長 茶甌浮動雨前香 一來一往無人問 獨倚船窗正恨郞
Phiên âm: Thương Ngô Trúc Chi ca (X)
Ban trúc (1) yên đồng xích nhị trường Trà âu phù động Vũ Tiền (2) hương Nhất lai nhất vãng vô nhân vấn Độc ỷ thuyền song chính hận lang
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (X)
Ống điếu làm bằng trúc đóm dài thước hai Bình trà tỏa hương trà Vũ Tiền hương Qua lại không ai hỏi han gì Một mình dựa cửa sổ thuyền, đúng là gái đang giận chồng
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (X)
Điếu thước hai, bằng trúc đốm bông, Vũ Tiền trà tỏa đượm hương nồng. Người qua kẻ lại không thèm hỏi, Dựa cửa thuyền đúng gái giận chồng.
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Ban trúc: Vua Thuấn đi tuần phương Nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm.
(2) Vũ Tiền trà: Loại trà xanh rất ngon, hái vào ngày 20 hoặc 21 tháng tư âm lịch, trước tiết Cốc Vũ 穀雨.
***
036 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (11) bài 11
蒼梧竹枝歌
十隻龍舟一字陳 敲鑼撾鼓吊靈均 黃花閨女貪行樂 跳出船頭不避人
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (XI)
Thập chích long chu nhất tự trần Xao la qua cổ điếu Linh quân (2) Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XI)
Mười chiếc thuyền rồng bày hàng chữ "nhất" Khua chiêng đánh trống viếng Linh quân Cô gái cài hoa cúc ham vui Nhảy ra đầu thuyền không tránh né ai
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XI)
Mười chiếc thuyền rồng thẳng một hàng Vang rền chiêng trống điếu Linh quân Ham vui cô gái cài hoa cúc Nhảy vọt đầu thuyền chẳng nể nang
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南 ngày nay. (2) Linh quân: Tức Khuất Nguyên 屈原. Khuất Nguyên trầm mình ở sông Mịch La 汨羅.
*** 037 Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (12) bài 12
蒼梧竹枝歌
棠舟蘭棹日繽紛 往往來來不厭頻 記取畫船三五隻 最風流是布衣人
Phiên âm: Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (XII)
Đường chu lan trạo nhật tân phân Vãng vãng lai lai bất yếm tần Kí thủ họa thuyền tam ngũ chích Tối phong lưu thị bố y nhân
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (1) (XII)
Thuyền bằng gỗ đường, chèo bằng gỗ lan suốt ngày nhộn nhịp Qua qua lại lại biết bao nhiêu lần Nhớ lấy năm ba chiếc thuyền có vẽ hình Bậc phong lưu nhất chính là những người áo vải
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XII)
Thuyền quế chèo lan sóng dập dìu Qua qua lại lại biết bao nhiêu Dăm ba thuyền vẽ còn ghi nhớ Áo vải phong lưu rộn sớm chiều
Đặng Thế Kiệt dịch
*** Thương Ngô Trúc Chi ca (13 - 14 - 15) bài 13 - 14 và 15
蒼梧竹枝歌 [XIII] 沿城楊柳不勝柔 葉葉絲絲未及秋 好向風前看摇曳 最顚狂處最風流 [XIV] 長裙褶褶曳輕綃 雲髻峨峨擁翠翹 贏得鬼頭滿囊口 憑君無福也能消 [XV] 船尾燈籠四尺竿 船頭畫虎黑斑斑 布旂上寫巡河字 只詰花船不詰奸
Phiên âm: Thương Ngô Trúc Chi ca [XIII] Duyên thành dương liễu bất thăng nhu Diệp diệp ti ti vị cập thu Hảo hướng phong tiền khán dao duệ Tối điên cuồng xứ tối phong lưu [XIV] Trường quần tập tập duệ khinh tiêu Vân kế nga nga ủng thúy kiều Doanh đắc quỉ đầu mãn nang khẩu Bằng quân vô phúc dã năng tiêu [XV] Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can Thuyền đầu họa hổ hắc ban ban Bố kỳ thượng tả "Tuần hà" tự Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô [XIII] Ven thành dương liễu mềm mại biết bao Lá lá tơ tơ chưa vào thu Ta thích nhìn chúng lay động trước gió Lúc chúng bay cuồng loạn nhất chính là lúc tuyệt vời hơn cả [XIV] Quần dài lướt thướt, áo chẽn mỏng Búi tóc cao, cài trâm thúy Kiếm được tiền nhét đầy túi Dù biết là vô phúc, cứ vung xài [XV] Đuôi thuyền treo lồng đèn, sào dài bốn thước Đầu thuyền vẽ hổ đen sì Trên cờ vải ghi chữ "Tuần sông" Chỉ hạch hỏi thuyền chơi, chẳng xem xét kẻ gian gì cả
Dịch thơ: Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô
[XIII] Ven thành dương liễu mịn như mơ Chưa đến thu mà lá với tơ Bay loạn tưng bừng xa trước gió Đứng nhìn mê mải quá nên thơ
[XIV] Quần là, áo lượt thướt tha bay Tóc búi đầu cao, trâm thúy cài Tiền bạc kiếm về mang chật túi Dù cho vô phúc cứ vung xài
[XV] Sào bốn thước dài, đuôi gắn đèn Đầu thuyền vẽ cọp đen như than "Tuần sông" chữ viết trên cờ vải Chỉ hỏi thuyền hoa chẳng hạch gian
Đặng Thế Kiệt dịch
***
041 Ngũ nguyệt quan cạnh độ Tháng Năm xem đua thuyền)
五月觀競渡
懷王歸葬張儀死 楚國詞人記佩蘭 千古招呼終不返 滿江爭競太無端 煙波渺渺空悲怨 鑼鼓年年自笑歡 魂若歸來也無托 龍蛇鬼蜮遍人間
Phiên âm: Ngũ nguyệt quan cạnh độ
Hoài Vương (1) quy táng Trương Nghi (2) tử Sở quốc từ nhân (3) kí bội lan Thiên cổ chiêu hô chung bất phản (4) Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan Yên ba diểu diểu không bi oán La cổ niên niên (5) tự tiếu hoan Hồn nhược quy lai dã vô thác Long xà quỷ vực biến nhân gian
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Tháng Năm xem đua thuyền
Xác Hoài Vương được về chôn ở đất Sở, Trương Nghi đã chết Nhớ người thơ nước Sở đeo hoa lan Nghìn thuở gọi hồn nhưng cuối cùng hồn chẳng về Ðầy sông tranh đua, thật chẳng nghĩa lý gì Khói sóng mênh mang, lòng buồn đau Chiêng trống hằng năm chỉ để vui chơi Hồn có về đi nữa thì cũng không nơi nương tựa Rắn rồng quỉ quái tràn ngập cõi người ta
Dịch thơ: Tháng Năm xem đua thuyền
Hoài Vương chôn xác, Trương Nghi chết Tưởng nhớ người thơ giắt ngọc lan Nghìn thuở kêu gào không trở lại Ðầy sông đua vượt lắm lăng xăng Ðau thương khói sóng về đâu bến Nô giỡn trống kèn diễn mỗi năm Hồn có về đây thêm lạc lõng Rắn rồng quỉ quái khắp nhân gian
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Hoài Vương: Vua nước Sở. Hoài Vương không nghe lời can gián của Khuất Nguyên, cứ đi hội với vua Tần, bị Tần bắt, sau chết mới được đem xác về nước chôn.
(2) Trương Nghi: Thuyết khách, dùng mưu dèm pha Khuất Nguyên với vua Sở Hoài Vương. Khuất Nguyên bị đi đày, Trương Nghi thành tướng quốc. Sau Trương Nghi bị lộ mưu, bỏ chạy, cuối cùng chết ở nước Ngụy.
(3) Sở quốc từ nhân: Tức Khuất Nguyên, nhà thơ nước Sở. Khuất Nguyên thường đeo hoa lan, hoa tiêu để tỏ lòng cao khiết.
(4) Chiêu hô chung bất phản: Tống Ngọc, học trò của Khuất Nguyên, làm bài Chiêu hồn để gọi hồn ông.
(5) La cổ niên niên: Hằng năm, vào ngày 5 tháng 5, để kỷ niệm ngày Khuất Nguyên mất, người Trung Hoa có lệ tổ chức đua thuyền tượng trưng sự đi tìm xác nhà thơ đã tự trầm ở sông Mịch La.
***
Dương Phi (1) cố lý
楊妃故里
山雲削略岸花明 見說楊妃此地生 自是舉朝空立仗 枉敎千古罪傾城 蕭蕭南內蓬蒿遍 寞冪西郊丘隴平 狼籍殘紅無覓處 東風城下不勝情
Phiên âm: Dương Phi (1) cố lý
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh Tự thị cử triều không lập trượng (2) Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành Tiêu tiêu Nam Nội (3) bồng hao biến Mịch mịch Tây Giao (4) khâu lũng bình Lang tạ tàn hồng (5) vô mịch xứ Ðông phong thành hạ bất thăng tình
Nguyễn Du Dịch nghĩa: Làng cũ của Dương Quí Phi
Mây núi thưa thớt, hoa bên bờ sáng rõ Nghe nói Dương Quí Phi sinh ở đất này Từ đó cả triều đứng phỗng như hàng gậy Ðể nghìn năm đổ oan cho người đẹp tội nghiêng thành Cung Nam Nội hiu hắt, cỏ bồng hao mọc tràn Ðồng Tây vắng lặng, gò đống san bằng Cánh hồng tàn tơi tả biết tìm đâu Dưới thành gió đông thổi, lòng ngậm ngùi biết bao
Dịch thơ: Làng cũ Dương Quí Phi
Mây ngàn hoa bến nước lung linh, Dương Quí Phi xưa đất ấy sinh. Bởi nỗi cả triều tài phỗng đá, Ðể cho muôn thuở tội nghiêng thành. Cấm cung bỏ phế, bồng hiu hắt, Mồ cũ san bằng, cảnh vắng tanh. Gió lạnh dưới thành ngơ ngẩn bóng, Tìm đâu cho thấy cánh hoa tàn.
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(1) Dương Quí Phi 楊貴妃: Tức Dương Ngọc Hoàn 楊玉環 là Quí Phi của Ðường Minh Hoàng 唐明皇. Quê ở làng Hoàng Nông, huyện Hòa Âm, tỉnh Thiểm Tây ngày nay. An Lộc Sơn 安祿山 nổi loạn. Ðường Minh Hoàng phải chạy vào đất Thục. Ðến đèo Mã Ngôi 馬嵬, quân lính đòi giết Dương Quí Phi và anh họ Dương Quốc Trung 楊國忠, là những người làm Ðường Minh Hoàng mê muội mà mất nước (Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành). Dương Quí Phi bị thắt cổ chết ở đây.
(2) Lập trượng: Ðứng như gậy, chỉ quan bù nhìn. Do lệ thiết triều nhà Ðường, có tám con ngựa phải đứng chầu trong hàng gậy. Con nào kêu hoặc đụng đậy không đúng phép là bị thay thế.
(3) Nam Nội: Tức cung Hưng Khánh, nơi Ðường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thường ra chơi.
(4) Tây Giao: Cánh đồng ở phía tây Tràng An, chỉ cánh đồng Mã Ngôi nơi Dương Quí Phi bị thắt cổ chết.
(5) Tàn hồng: Bùi Giáng dịch: Trông vời hồng rụng ngổn ngang, Tìm đâu chốn cũ muôn vàn dưới kia (Tố Như thi, Quách Tấn dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995, trang bìa 2).
| *
043 Triệu Vũ đế (1) cố cảnh
趙武帝故境
暴楚彊秦相繼誅 雍容揖遜霸南陬 自娛儘可稱皇帝 樂善還能屈豎儒 百尺高臺傾嶺表 千年古墓沒番禺 可憐世代相更迭 不及蠻夷一老夫
Phiên âm: Triệu Vũ đế (1) cố cảnh
Bạo Sở cường Tần tương kế tru Ung dung ấp tốn bá nam tưu Tự ngu tẫn khả xưng hoàng đế Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu (2) Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu (3) Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu (4) Khả liên thế đại tương canh điệt Bất cập Man Di nhất lão phu (5)
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Đất cũ của Triệu Vũ Đế
Sở, Tần hai nước cường bạo theo nhau diệt vong Ông cứ ung dung nhũn nhặn làm bá chủ phương nam Tùy thích có thể xưng hoàng đế Vui điều thiện chịu khuất với chú nhà nho hèn mọn Đài cao trăm thước ở Lĩnh Biểu đã nghiêng đổ Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung đã mất Thương cho đời này theo đời kia thay đổi nhau Nhưng không bằng ông lão Man Di
Dịch thơ: Đất cũ của Triệu Vũ Đế
Sở bạo Tần cường nối diệt vong Phương nam làm chủ cứ ung dung Cho vui tự chiếm ngôi hoàng đế Ưa thiện đành thua chú khách thường Trăm thước đài cao nghiêng Lĩnh Biểu Nghìn năm mộ cổ mất Phiên Ngung Bao nhiêu triều đại thay nhau đổi Với lão Man Di chẳng sánh cùng
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(1) Triệu Vũ đế: Tức Triệu Đà (258-137, trước Công Nguyên). Năm Quý Tị (207) Triệu Đà đánh được An Dương Vương, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung, gần thành Quảng Châu bây giờ.
(2) Thụ nhu: Chỉ Lục Giả. Hán Văn Đế sai Lục Giả sang thuyết phục Triệu Đà nên giao hảo với nhà Hán.
(3) Lĩnh Biểu: Đất ở ngoài Ngũ Lĩnh, ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây và Nam Việt).
(4) Phiên Ngu: Tức Phiên Ngung, nơi Triệu Đà đóng đô.
(5) Lão phu: Triệu Đà đáp thư Hán Văn Đế tự xưng là Man Di đại trưởng lão phu (ông lão Man Di).
***
044 (b>Bất tiến hành - Thuyền không tiến (bài hành)
不進行
羽師涕泣憑夷怒 五指山前水暴注 白波終日走蛇龍 青山兩岸皆豺虎 舟楫紛紛同一流 下灘人喜上灘愁 百丈長繩挽不進 舟中年少皆白頭
Phiên âm: Bất tiến hành
Vũ Sư (1) thế khấp Bằng Di (2) nộ Ngũ Chỉ Sơn (3) tiền thủy bạo chú Bạch ba chung nhật tẩu xà long Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu Há than nhân hỉ thướng than sầu Bách trượng trường thằng vãn bất tiến Chu trung niên thiếu giai bạch đầu
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Thuyền không tiến (bài hành)
Thần mưa khóc ròng, thần nước nổi giận Trước núi Ngũ Chỉ nước như trút Suốt ngày sóng bạc như rồng rắn chạy Hai bờ núi xanh như sói cọp
Thuyền chèo tới tấp cùng trong một dòng Người xuống thác vui mừng, người lên thác lo sợ Dây thừng dài trăm trượng kéo không lên Trai trẻ trong thuyền đều trắng cả mái đầu
Dịch thơ: Thuyền không tiến (bài hành)
Hà Bá giận, thần mưa khóc mướt Trước Ngũ Chỉ sơn: như trút nước Suốt ngày sóng bạc: rắn rồng đua Hai bờ núi xanh: sói hùm chực
Lố nhố thuyền bè chung một nước Người mừng xuống thác, lên lo âu Thừng dài trăm trượng tiến không được Trai trẻ trong thuyền trắng xóa đầu
Đặng Thế Kiệt dịch
*
Chú thích:
(1) Vũ Sư: Thần mưa. (2) Bằng Di: Tức Hà Bá, thần Nước. (3) Ngũ Chỉ Sơn: Núi năm ngọn trông như năm ngón tay (huyện Quỳnh Trung 瓊中, tỉnh Quảng Đông 廣東). Còn gọi là Lê Sơn 黎山.
***
045 Tam liệt miếu (1)
三烈廟
蔡女生雛卓女奔 落花飛絮不勝言 千秋碑碣顯三烈 萬古綱常屬一門 地下相看無愧色 江邊何處吊貞魂 清時多少鬚如戟 說孝談忠各自尊
Phiên âm: Tam liệt miếu (1)
Thái nữ (2) sanh sồ Trác nữ (3) bôn Lạc hoa phi nhứ bất thăng ngôn Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn Địa hạ tương khan vô quý sắc Giang biên hà xứ điếu trinh hồn Thanh thì đa thiểu tu như kích Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Miếu Tam Liệt
Nàng Thái sinh con, nàng Trác theo trai Hoa rụng tơ bay nói sao cho xiết Bia kệ nghìn năm tôn thờ ba người đàn bà tiết liệt Dưới đất nhìn nhau, sắc mặt không hổ thẹn Bên sông, đâu nơi viếng hồn trinh? Thời bình lắm kẻ vểnh râu như ngọn kích Nói hiếu bàn trung đều để suy tôn mình
Dịch thơ: Miếu thờ ba người đàn bà tiết liệt
Nàng Trác theo trai, Thái đổi chồng Tơ bay hoa rụng nói thêm nhàm Bia ghi liệt nữ nghìn năm rạng Danh sáng cương thường một cửa gương Dưới đất nhìn nhau không thẹn mặt Bên sông đâu chốn viếng trinh hồn Thời bình bao kẻ râu như kích Nói hiếu bàn trung chỉ tự tôn
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(1) Tam liệt miếu: Tác giả chú thích như sau: 'Khoảng niên hiệu Chính Đức nhà Minh (1506-1521), Lưu Thời Cử đi nhậm chức. Thuyền tới đây bị bọn cướp giết. Vợ là Trương thị, thiếp là Quách thị, con gái là Lưu thị, không chịu nhục, nhảy xuống sông chết. Khoảng năm Gia Tĩnh (1522-1526) được biểu dương và lập miếu thờ.'
(2) Thái nữ: Tức nàng Thái Diễm, tự là Văn Cơ, con gái của Thái Ung cuối đời Đông Hán, kết duyên với Vệ Trọng Đạo, chưa có con thì chồng chết, trở về nhà. Sau đó quân Hung Nô đến xâm lược nhà Hán, bắt nàng đem gả cho người Hung Nô. Sau mười hai năm sinh được hai con. Tào Tháo là bạn thân của Thái Ung sai sứ đem vàng bạc chuộc về gả cho Đổng Tự.
(3) Trác Nữ: Tức nàng Trác Văn Quân 卓文君 là con gái của Trác Vương Tôn 卓王孫 thời Tây Hán, góa chồng về ở nhà. Tư Mã Tương Như 司馬相如 đến dự tiệc, trông thấy nàng, bèn gẩy khúc Phượng cầu hoàng 鳳求凰. Nàng bỏ trốn đi theo Tương Như.
***
046 b>Quế Lâm Cù Các Bộ (1)-Ông Các Bộ Cù Thúc Tỉ ở Quế Lâm
桂林瞿閣部
中原大勢已頹唐 竭力孤城控一方 終日死中心不動 千秋地下髮猶長 殘明廟社多秋草 全越山河盡夕陽 共道中華尙節義 如何香火太凄涼
Phiên âm: Quế Lâm Cù Các Bộ (1)
Trung Nguyên đại thế dĩ đồi đường Kiệt lực cô thành khống nhất phương Chung nhật tử trung tâm bất động Thiên thu địa hạ phát do trường (2) Tàn Minh miếu xã đa thu thảo Toàn Việt (3) sơn hà tận tịch dương Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa Như hà hương hỏa thái thê lương
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Ông Các Bộ Cù Thúc Tỉ ở Quế Lâm
Thế lớn ở Trung Nguyên đã sụp đổ Vẫn hết sức giữ thành cô lập, khống chế một phương trời Suốt ngày trước cái chết, lòng không nao núng Nghìn thu nằm dưới đất tóc vẫn dài Tông miếu xã tắc nhà Minh suy tàn, đầy cỏ thu Sông núi cả nước Việt nhuộm bóng chiều Mọi người đều nói Trung Hoa trọng tiết nghĩa Sao đây hương khói lạnh tanh như vậy
Dịch thơ: Ông Các Bộ Cù Thúc Tỉ ở Quế Lâm
Trung Nguyên thế lớn sụp tan tành Dốc sức một phương quyết giữ thành Kề chết cả ngày không rúng động Dưới mồ muôn thuở chẳng đuôi sam Nhà Minh tông miếu thu hiu hắt Đất Việt non sông bóng xế tàn Đều bảo Trung Hoa trọng tiết nghĩa Mà đây hương khói để buồn tanh
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích:
(1) Cù Các Bộ: Các Bộ họ Cù, tức Cù Thúc Tỉ 瞿式耜 (1590-1650). Các Bộ là gọi tắt chức Đông Các Đại Học Sĩ. Cù Thúc Tỉ đỗ tiến sĩ đời Minh Vạn Lịch 明萬曆. Sau khi nhà Thanh chiếm đất Trung Nguyên, Cù Thúc Tỉ cố giữ thành Quế Lâm. Thành bị phá, ông tuẫn tiết.
(2) Phát do trường : Nhà Thanh khi chiếm được Trung Quốc, bắt dân cắt tóc kết đuôi sam. Cù Thúc Tỉ chết vẫn để tóc dài, không chịu hàng phục nhà Mãn Thanh.
(3) Toàn Việt: Giống Việt, ngày xưa các vùng Giang, Chiết, Mân, Việt đều là nói của giống Việt ở gọi là Bách Việt 百越. Như giống Âu Việt 甌越 thì ở Chiết Giang 浙江, Mân Việt 閩越 thì ở Phúc Kiến 福建, Dương Việt 陽越 thì ở Giang Tây 江西, Nam Việt 南越 thì ở Quảng Đông 廣東, Lạc Việt 駱越 thì ở nước ta, đều là Bách Việt cả. Có khi viết là 粵. (Theo Hán Việt tự điển, Thiều Chửu).
*** Quế Lâm công quán
桂林公館
荒草惹流螢 閒階夜氣清 寒燈留鬼影 虛帳聚蚊聲 牢落春無分 蹉跎老自驚 城頭聞畫角 自語到天明
Phiên âm: Quế Lâm công quán
Hoang thảo nhạ lưu huỳnh Nhàn giai dạ khí thanh Hàn đăng lưu quỷ ảnh Hư trướng tụ văn thanh Lao lạc xuân vô phận Tha đà lão tự kinh Thành đầu văn họa giác Tự ngữ đáo thiên minh
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Trong công quán ở Quế Lâm
Trong đám cỏ hoang đom đóm bay Ngoài thềm vắng, hơi đêm trong mát Ðèn lạnh giữ lại bóng ma Màn thưa tiếng muỗi vo ve Lo buồn xuân không đến với mình Lần lữa thấy cảnh già giật mình kinh sợ Nghe tiếng tù và vọng từ đầu thành Nói chuyện một mình cho đến sáng
Dịch thơ: Trong công quán ở Quế Lâm
Cỏ hoang đom đóm loạn bay Hơi đêm thanh mát thềm ngoài vắng tanh Bóng ma đèn lạnh lung linh Màn thưa đàn muỗi mặc tình vo ve Buồn lo xuân chẳng muốn về Tháng năm lần lữa mà ghê tuổi già Ðầu thành vẳng tiếng tù và Một mình mình nói sáng mà không hay
Đặng Thế Kiệt dịch
***
Quá Thiên Bình (1)
過天平
分水山前二水分 天平水面自嶙峋 一杯空奠臨江廟 天古誰爲砌石人 半嶺溪泉皆入楚 滿洲碑碣已非秦 舟人爭指家鄉近 惱殺殊方老使臣
Phiên âm: Quá Thiên Bình (1)
Phân Thủy (2) sơn tiền nhị thủy phân Thiên Bình thủy diện tự lân tuân Nhất bôi không điện lâm giang miếu Thiên cổ thùy vi thế thạch nhân Bán lĩnh khê tuyền giai nhập Sở Mãn châu bi kệ dĩ phi Tần Chu nhân tranh chỉ gia hương cận Não sát thù phương lão sứ thần
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Qua Thiên Bình
Trước núi Phân Thủy chia hai dòng nước Mặt sông Thiên Bình gợn như đá lởm chởm Một chén rượu làm lễ suông tại ngôi đền bên sông Nghìn xưa ai là người xếp đá (xây đền) Khe suối của nửa núi đều chảy vào đất Sở Đầy bãi, bia đá hết còn thuộc Tần Nhà thuyền tranh nhau chỉ trỏ quê nhà họ gần đó Làm não lòng muốn chết được ông sứ thần già ở phương khác đến
Dịch thơ: Qua Thiên Bình
Phân Thủy chia hai nước một dòng Thiên Bình sóng tựa đá tràn sông Rượu suông một chén lễ dâng miếu Ðá tảng nghìn xưa ai góp công Núi nửa suối khe vào đất Sở Bãi đầy bia đá hết bên Tần Nhà thuyền tranh chỉ quê hương họ Não ruột phương xa lão sứ thần
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích:
(1) Thiên Bình: Tên sông ở trước núi Phân Thủy.
(2) Phân Thủy: Tên núi, có lẽ ở huyện Nam Chiếu, tỉnh Hồ Nam.
***
050 Vọng Tương Sơn tự (1)
望湘山寺
古佛無量唐世人 湘山寺裡有眞身 眞身一夜燼炎火 古寺千年空暮雲 五嶺峰巒多氣色 全州城郭在風塵 孤舟江上憑欄處 一帶松杉半夕曛
Phiên âm: Vọng Tương Sơn tự (1)
Cổ phật Vô Lường (2) Đường thế nhân Tương Sơn tự lí hữu chân thân Chân thân nhất dạ tẫn viêm hỏa Cổ tự thiên niên không mộ vân Ngũ Lĩnh (3) phong loan đa khí sắc Toàn Châu thành quách tại phong trần Cô chu giang thượng bằng lan xứ Nhất đái tùng sam bán tịch huân
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Trông chùa Tương Sơn
Phật Vô Lượng xưa là người nhà Đường Trong chùa Tương Sơn còn để lại chân thân Một đêm chân thân bị lửa cháy hết Chùa cổ nghìn năm phủ mây chiều Núi đèo Ngũ Lĩnh nhiều khí sắc Thành quách Toàn Châu ngập gió bụi Dựa lan can trên chiếc thuyền lẻ loi trên sông Trong dãy cây tùng cây sam, một nửa đã nhuốm bóng chiều
Dịch thơ: Trông chùa Tương Sơn
Vô Lượng Phật xưa đời họ Đường Chân thân để lại chùa Tương Sơn Một đêm lửa cháy chân thân hết Muôn thuở chùa xưa mây tối vương Ngũ Lĩnh núi non đầy khí sắc Toàn Châu thành quách ngập phong trần Lan can một bóng thuyền trên nước Nửa dãy tùng sam nhuốm tịch dương
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích: (1) Tương Sơn: Núi ở Quảng Tây 廣西. (2) Vô Lường: Chỉ Huyền Trang 玄 奘 cao tăng Trung Quốc, người nhà Đường, sang thỉnh kinh tại Ấn Độ. (3) Ngũ Lĩnh: Chỉ 5 đèo lớn Đại Dữu 大庾, Kị Điền 騎田, Đô Bàng 都龐, Manh Chử 萌渚, Việt Thành 越城. Ở Hồ Nam 湖南, giữa khoảng Giang Tây 江西 và Quảng Đông 廣東.
***
051 Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu (1) cố trạch Hành Lĩnh phù vân Tiêu Thủy ba (Nhà cũ của Liễu Tông Nguyên ở Vĩnh Châu)
永州柳子厚故宅
衡嶺浮雲瀟水波 柳州故宅此非耶 一身斥逐六千里 千古文章八大家 血指汗顏誠苦矣 清溪嘉木奈愚何 壯年我亦爲材者 白髮秋風空自嗟
Phiên âm: Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu (1) cố trạch
Hành Lĩnh phù vân Tiêu Thủy ba Liễu Châu cố trạch thử phi da Nhất thân xích trục lục thiên lí Thiên cổ văn chương bát đại gia (2) Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hĩ (3) Thanh khê gia mộc nại ngu hà (4) Tráng niên ngã diệc vi tài giả Bạch phát thu phong không tự ta
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Nhà cũ của Liễu Tông Nguyên ở Vĩnh Châu
Trên núi Hành Lĩnh mây nổi, sông Tiêu sóng gợn Nơi đây có phải nhà cũ của thứ sử Liễu Châu? Một thân bị đày ải nơi xa sáu ngàn dặm Văn chương nghìn thuở, là một trong tám nhà văn thơ lớn bậc nhất (Thợ vụng) tay bầm, mặt đổ mồ hôi, coi thật là khốn khổ (Người tài như) khe trong, cây tốt, lại chịu tiếng ngu Thời trai trẻ, ta cũng có tài ví như gỗ tốt Nay bạc đầu, tự mình than vãn trước gió thu
Dịch thơ: Nhà cũ của Liễu Tông Nguyên ở Vĩnh Châu
Mây bay Hành Lĩnh, sóng Tiêu Tương Nhà Liễu Tông Nguyên cũ phải không? Nghìn dặm lưu đày thân tủi nhục Muôn đời bội phục áng văn chương Ngón bầm, mặt nhớp đành cơ cực Cây đẹp, khe trong chịu dở ương Gỗ quí tài trai ta cũng thể Bạc đầu than vãn trước thu phong
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích: (1) Vĩnh Châu: Liễu Tông Nguyên 柳宗元 (773-819), tự là Tử Hậu 子厚, người đất Hà Đông 河東 (nay thuộc tỉnh Sơn Tây 山西). Từng làm thứ sử Liễu Châu 柳州 (nay là Quảng Tây 廣西), đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi, nổi tiếng tài hoa. Làm quan, chủ trương cải cách chế độ, chống tham ô nên bị đày đi xa như ở Vĩnh Châu 永州 chẳng hạn (nay thuộc Hồ Nam 湖南).
(2) Bát đại gia: Tám nhà văn chương lỗi lạc: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt.
(3) Thành khổ hĩ: Trong bài Tế Liễu Tử Hậu văn Hàn Dũ viết: "Ví như người thợ vụng, tay bầm máu, mặt đổ mồ hôi, còn ông thợ khéo thì đứng khoanh tay. Văn chương ông Liễu không được dùng, còn bọn nịnh thần được thảo chiếu, chế của nhà vua !"
(4) Thanh khê gia mộc: Trong "Bài tựa tám bài thơ Ngu khê"' Liễu Tông Nguyên viết: "Cây tốt, đá lạ do hóa công bố trí, đều là những kỳ diệu của sơn thủy, chỉ vì tôi mà lụy, mang cái tên Ngu" (Gia mộc, dị thạch bố trí, giai sơn thủy chi kỳ giả, dĩ dư cố, hàm dĩ ngu nhục yên 嘉木異石錯置,皆山水之奇者,以余故,咸以愚辱焉). [Xem Nguyễn Hiến Lê, Cổ văn Trung Quốc, Xuân Thu xuất bản, USA Houston, trang 287-288.]
***
Tương Giang (1) dạ bạc - (Đêm đậu thuyền trên sông Tương)
湘江夜泊 一去六十里 悠悠江水長 浮雲連五嶺 明月會三湘 別浦分新色 遥空失故鄉 鶴來人不見 晚樹鬱滄滄 Phiên âm: Tương Giang (1) dạ bạc
Nhất khứ lục thập lý Du du giang thủy trường Phù vân liên Ngũ Lĩnh (2) Minh nguyệt hội Tam tương Biệt phố phân tân sắc Dao không thất cố hương Hạc lai nhân bất kiến (3) Vãn thụ uất thương thương (4)
Nguyễn Du Dịch nghĩa: Đêm đậu thuyền trên sông Tương
Đi một mạch sáu mươi dặm Nước sông chảy dài dằng dặc Mây nổi nối liền dãy Ngũ Lĩnh Trăng sáng tụ lại vùng Tam Tương Phố xa chia sắc đẹp mới Trời vòi vọi làm mất cố hương Hạc trở lại nhưng không thấy người cưỡi hạc Cây buổi tối chứa lạnh lẽo
Dịch thơ: Đêm đậu thuyền trên sông Tương
Một đi sáu mươi dặm Dòng cuộn nước mênh mang Mây giăng liền Ngũ Lãnh Trăng ngập tràn Tam Tương Bến tiễn chia xuân sắc Trời xa lấp cố hương Hạc về người chẳng thấy Cây biếc lạnh ngàn sương
Quách Tấn dịch (5)
Chú thích:
(1) Tương Giang: Sông Tương phát nguyên từ Quảng Tây chảy theo hướng Đông Bắc vào tỉnh Hồ Nam, chảy qua Trường Sa rồi vào hồ Động Đình.
(2) Ngũ Lĩnh: Dãy núi cao năm ngọn chạy giáp địa phận hai tỉnh Hồ Nam và Quảng Tây.
(3) Hạc lai: Mượn tích Đinh Linh Huy cỡi hạc lên tiên ở lầu Hoàng Hạc. Vì Lầu Hoàng Hạc ở Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, gần vùng Tương Giang.
(4) Thương thương: Lạnh lẽo. Có bản chép là thương xanh.
(5) Quách Tấn: Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995 (trang 226-228).
***
Phản Chiêu hồn (1)-(Chống lại bài Chiêu hồn)
反招魂 魂兮魂兮胡不歸 東西南北無所依 上天下地皆不可 鄢郢城中來何爲 城郭猶是人民非 塵埃滾滾污人衣 出者驅車入踞坐 坐談立議皆皋夔 不露爪牙與角毒 咬嚼人甘如飴 君不見湖南數百州 只有瘦瘠無充肥 魂兮魂兮率此道 三皇之後非其時 早斂精神返太極 愼勿再返令人嗤 後世人人皆上官 大地處處皆汨籮 魚龍不食豺虎食 魂兮魂兮奈魂何
Phiên âm: Phản Chiêu hồn (1)
Hồn hề! hồn hề! hồ bất qui? Ðông tây nam bắc vô sở y Thướng thiên há địa giai bất khả Yên, Dĩnh (2) thành trung lai hà vi? Thành quách do thị, nhân dân phi Trần ai cổn cổn ô nhân y. Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì (3) Bất lộ trảo nha dữ giác độc Giảo tước nhân nhục cam như di! Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo Tam Hoàng (4) chi hậu phi kỳ thì Tảo liễm tinh thần phản Thái cực Thận vật tái phản linh nhân xi Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan (5) Ðại địa xứ xứ giai Mịch La (6) Ngư long bất thực, sài hổ thực Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà?
Nguyễn Du
Dịch nghĩa: Chống lại bài Chiêu hồn
Hồn ơi! hồn ơi! sao chẳng về? Ðông tây nam bắc không chốn nương tựa Lên trời xuống đất đều không được Còn trở về thành Yên thành Sính làm gì? Thành quách còn đây, nhân dân đã khác Bụi bặm mù bay làm dơ bẩn quần áo Ra ngoài thì ruổi xe, vào nhà ngồi chễm chệ Ðứng ngồi bàn bạc như hai bậc hiền thần Cao, Quì Không để lộ ra nanh vuốt nọc độc Mà cắn xé thịt người ngọt xớt Không thấy sao mấy trăm châu ở Hồ Nam Chỉ có người gầy gò, không ai béo tốt Hồn ơi! hồn ơi! nếu cứ noi theo lối đó Thì sau Tam Hoàng không hợp thời nữa Hãy sớm thu góp tinh thần trở lại Thái Cực Ðừng trở lại đây nữa để người ta mai mỉa Ðời sau đều là Thượng Quan Khắp mặt đất đều là sông Mịch La Cá rồng không ăn, sói hùm cũng nuốt Hồn ơi! hồn ơi! hồn làm sao đây?
Dịch thơ: Chống lại bài Chiêu hồn
Hồn ơi! sao chẳng trở về? Ðông tây nam bắc chở che chốn nào? Dù đất thấp trời cao chẳng ổn, Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau. Thành đây, dân cũ còn đâu, Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưa. Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ, Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần. Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm, Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon! Hồ Nam kia thấy không trăm xóm, Toàn những người gầy ốm xanh xao. Hồn ơi! lối ấy theo nhau, Ðời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời. Thu tinh thần về nơi Thái cực, Chớ về đây người chực mỉa mai. Thượng quan thời buổi ai ai, Khắp trên đất rộng sông dài: Mịch La! Cá rồng nuốt, sói hùm tha, Hồn ơi! hồn hỡi! hồn mà làm sao?
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Phản Chiêu hồn: Tên một bài từ của Tống Ngọc 宋玉 để gọi hồn Khuất Nguyên 屈原. (2) Yên, Dĩnh: Tên hai thành nước Sở, thời Chiến Quốc 戰國 (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc 湖北). (3) Cao, Quì: Tên hai bậc hiền thần đời Ngu Thuấn 虞舜. (4) Tam Hoàng: Chỉ Phục Hy 伏羲, Nữ Oa女媧 và Thần Nông, ba vị vua cổ nhất của Trung Quốc. (5) Thượng quan: Tức Thượng quan Ngân Thượng, người dèm pha Khuất Nguyên 屈原 với Sở Hoài Vương 楚懷王.
(6) Mịch La: Khúc sông hợp lưu của hai sông Mịch và La. Nay ở phía bắc huyện Tương Âm 湘陰, tỉnh Hồ Nam 湖南. Sau người ta còn gọi là Khuất Ðàm (Vì Khuất Nguyên tự trầm ở đây).
***
Biện Giả (1)- (Biện luận với họ Giả)
辯賈
不涉湖南道 安知湘水深 不讀懷沙賦 安識屈原心 屈原心湘江水 千秋萬秋清見底 古今安得同心人 賈生一賦徒爲耳 烈女從來不二夫 何得栖栖相九州 未必古人知有我 眼中湘水空悠悠
Phiên âm : Biện Giả (1)
Bất thiệp Hồ Nam đạo An tri Tương thủy thâm Bất độc ‘Hoài sa phú’ (2) An thức Khuất Nguyên tâm Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy Thiên thu vạn thu thanh kiến để Cổ kim an đắc đồng tâm nhân Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ Liệt nữ tòng lai bất nhị phu Hà đắc thê thê ‘tướng cửu châu’ (3) Vị tất cổ nhân tri hữu ngã Nhãn trung Tương thủy không du du
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa : Biện luận với họ Giả
Không đi qua Hồ Nam Sao biết sông Tương sâu Không đọc phú Hoài sa Sao hiểu lòng Khuất Nguyên Lòng Khuất Nguyên, nước sông Tương Nghìn thu vạn thu trong suốt thấy đáy Xưa nay mấy ai có được bạn đồng tâm Bài phú của thư sinh họ Giả chẳng có nghĩa lý gì Liệt nữ xưa nay không lấy hai chồng Cần gì phải tất tả đi khắp chín châu tìm vua khác Chưa chắc người xưa biết có ta Trong mắt sông Tương dằng dặc trôi
Dịch thơ : Bác Giả Nghị
Hồ Nam chưa đi tới Sao biết sông Tương sâu Phú Hoài Sa chưa đọc Lòng Khuất Nguyên biết đâu. Khuất Nguyên đau, sông Tương chảy Trong vắt muôn đời nhìn thấy đáy Mấy ai có được bạn đồng tâm Bài phú Giả sinh vô nghĩa ấy ! Liệt nữ xưa nay chỉ một chồng Chín châu hà tất kiếm long đong Có ta chưa hẳn người xưa biết Lờ lững sông Tương trong mắt trong.
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích : (1) Giả : Tức Giả Nghị (200-168, trước Công Nguyên). Giỏi từ phú nghị luận, làm tới Thái Trung Ðại phu đời Tây Hán, chủ trương cải cách, bị đám quí tộc bài xích, bị biếm làm Thái Phó Trường Sa Vương. Bất đắc chí chết năm 33 tuổi. Khi qua sông Tương, Giả Nghị làm bài phú Viếng Khuất Nguyên để giải bày tâm sự mình.
(2) Hoài sa phú : Tên một thiên trong Cửu chương của Khuất Nguyên nói lên nỗi lòng bi phẫn của mình sinh không gặp thời.
(3) Tướng cửu châu : Thời xưa, Trung Quốc chia làm chín châu. Trong bài phú Viếng Khuất Nguyên, Giả Nghị có câu : Lịch cửu châu nhi tướng kỳ quân hề, hà tất hoài thử đô dã (trải chín châu mà tìm vua, hà tất phải ôm mãi cố đô ấy).
***
057 Giả Thái phó ở Trường Sa
長沙賈太傅
絳灌武人何所知 孝文澹泊憚更爲 立談不展平生學 事職何妨至死悲 天降奇才無用處 日斜異物有來時 湘潭咫尺相鄰近 千古相逢兩不違
Phiên âm: Trường Sa Giả Thái Phó (1)
Giáng Quán (2) vũ nhân hà sở tri Hiếu Văn (3) đạm bạc đạn canh vi Lập đàm bất triển bình sinh học Sự chức hà phương chí tử bi Thiên giáng kì tài vô dụng xứ Nhật tà dị vật (4) hữu lai thì Tương Đàm chỉ xích tương lân cận Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Giả Thái phó ở Trường Sa
Giáng Hầu, Quán Anh là những kẻ võ biền có biết gì Vua Hiếu Văn không tha thiết gì, sợ thay đổi Đứng suông mà bàn luận không thể bày tỏ cái học cả đời mình Làm tròn chức phận có gì mà phải chịu chết đau thương Trời cho tài lạ mà không có chỗ dùng Chiều tà vật quái dị có lúc đến Tương Đàm gần gũi trong gang tấc (Sống cách nhau) nghìn năm, gặp gỡ, cả hai đâu có gì trái nghịch
Dịch thơ: Giả Thái phó ở Trường Sa
Giáng, Quán võ biền có biết chi Hiếu Văn e ngại chẳng làm gì Bàn suông không tỏ bình sinh học Phận trọn cớ gì chết hận bi Tài lạ trời cho không chỗ dụng Vật kỳ điềm báo lúc chiều đi Tương Đàm gần gũi trong gang tấc Xa cách nghìn năm gặp cố tri
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Giả Thái Phó: Tức Giả Nghị 賈誼 (200-168, trước Công Nguyên). Giỏi từ phú nghị luận, làm tới Thái Trung Đại Phu 太中大夫 đời Tây Hán 西漢, chủ trương cải cách, bị đám quý tộc bài xích, bị biếm làm Thái Phó Trường Sa Vương 長沙王. Bất đắc chí chết năm 33 tuổi. Khi qua sông Tương, Giả Nghị làm bài phú Viếng Khuất Nguyên 屈原 để giải bày tâm sự mình.
(2) Giáng, Quán: Tức Giáng Hầu 絳侯 và Quán Anh 灌嬰, hai võ tướng, khai quốc công thần, được Hán Văn Đế 漢文帝 trọng dụng.
(3) Hiếu Văn: Tức Hán Văn Đế 漢文帝 (179-159, trước Công Nguyên).
(4) Dị vật: Giả Nghị 賈誼 ở Trường Sa, một hôm có có chim lạ đến đậu chỗ ông ngồi. Giả Nghị tin là điềm gở.
|