*
Long thành cầm giả ca Lạng thành đạo trung Lưu biệt cựu khế Hoàng Nam Quan đạo trung Minh Giang chu phát Hoàng Sào binh mã Ninh Minh giang chu hành Vọng quan âm miếu Tam Giang khẩu đường dạ bạc Chu hành tức sự Thái Bình mại ca giả Sơn Đường dạ bạc Ðề Ðại Than Mã Phục Ba miếu Vãn há Ðại Than, tân lạo bạo trướng, chư hiểm câu thất Hạ than hỷ phú
Thương Ngô tức sự Thương Ngô mộ vũ Thương Ngô Trúc Chi ca (bài I) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài II) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài III) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài IV) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài V) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài VI) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài VII) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài VIII) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài IX) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài X) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài XI) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài XII) Thương Ngô Trúc Chi ca (bài XIII-XIV-XV) Ngũ nguyệt quan cạnh độ Dương Phi cố lý Triệu Vũ đế cố cảnh Bất tiến hành Tam liệt miếu Quế Lâm Cù Các Bộ Quế Lâm công quán Quá Thiên Bình Vọng Tương Sơn tự Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch Tương Giang dạ bạc Phản Chiêu hồn Biện giả Trường Sa Giả Thái Phó
Sơ thu cảm hứng Sở vọng Lỗi Dương Ðỗ Thiếu Lăng mộ (bài 1) Lỗi Dương Ðỗ Thiếu Lăng mộ (bài 2) Đăng Nhạc Dương lâu Nhiếp Khẩu đạo trung Lí gia trại tảo phát Vũ Thắng quan Tín Dương tức sự Ngẫu hứng Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm Hầu Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa Tướng Hà Nam đạo trung khốc thử Cựu Hứa đô Âu Dương Văn Trung Công mộ Bùi Tấn Công mộ Hoàng Hà Hoàng Hà trở lạo Tỷ can mộ Trở binh hành Kê Thị trung từ Đồng Tước đài Thất thập nhị nghi trủng Lạn Tương Như cố lí Hàm Đan tức sự Hàn Tín giảng binh xứ Liêm Pha bi Tô Tần đình (bài 1) Tô Tần đình (bài 2)
Dự Nhượng kiều chủy thủ hành Dự Nhượng kiều Kinh Kha cố lí Đế Nghiêu miếu Lưu Linh mộ Kỳ lân mộ Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ Ðông lộ Quản Trọng Tam Quy đài Vinh Khải Kì thập tuệ xứ Kê Khang cầm đài Đông A sơn lộ hành Sở Bá Vương mộ (bài 1) Sở Bá Vương mộ (bài 2) Liễu Hạ Huệ mộ Từ Châu đạo trung Nhị Sơ cố lý Từ Châu đê thượng vọng Từ Châu dạ Á Phụ mộ Chu Lang mộ Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài Tổ Sơn đạo trung Nhạc Vũ Mục mộ Tần Cối tượng (bài 1) Tần Cối tượng (bài 2) Vương Thị tượng (bài 1) Vương Thị tượng (bài 2) An Huy đạo trung Đào Hoa dịch đạo trung Tiềm Sơn đạo trung Tây Hà dịch Sở kiến hành Đồ trung ngẫu hứng Hoàng Mai sơn thượng thôn Hoàng Mai đạo trung Chu phát
*** * Long Thành cầm giả ca
001 龍城琴者歌
小引
龍城琴者。不知姓氏。聞其幼年從學撥阮琴於黎宮花嬪部中。 西山兵起。舊樂死散。其人流落市廛。挾技以遨。屬散部。 所彈皆御前供奉曲。非外人所聞。遂稱一時絕技。余少時。 探兄抵京。旅宿鑑湖店。其傍西山諸臣大集女樂。 名姬不下數十。其人獨以阮琴聲擅場。頗能歌。作俳諧語。 一坐盡顚倒。數賞以大白。輒盡。纏頭無算。金帛委積滿地。 余時匿身暗中。不甚明白。後見之兄處。短身闊臉。額凸面凹。 不甚麗。肌白而體豐。善修飾。淡眉濃粉。衣以紅翠綃裳。 綽綽然有餘韻。性善飲。喜浪謔。眼矐矐。眶中無一人。 在兄家每飲輒盡醉。嘔吐狼藉。臥地上。同輩非之。不恤也。 後數載。余從家南歸。不到龍城若十年矣。今春將奉命北使。 道經龍城。諸公辱餞于宣撫衙。畢召在城女樂。少姬數十。 並不識名面。迭起歌舞。繼聞琴聲清越。迥異時曲。心異之。 視其人。顏瘦神枯。面黑。色如鬼。衣服並粗布。敗灰色。 多白補。默坐席末。不言亦不笑。其狀殆不堪者。 不復知爲誰何。惟於琴聲中似曾相識。側然于心。席散。 質之樂人。即其人也。嗟乎。是人何至此耶。俯仰徘徊。 不勝今昔之感。人生百年。榮辱哀樂其可量耶。別後。一路上。 深有感焉。因歌以托興。
龍城佳人 姓氏不記清 獨善阮琴 舉城之人以琴名 學得先朝宮中供奉曲 自是天上人間第一聲 余憶少年曾一見 鑑湖湖邊夜開宴 此時三七正芳年 紅妝奄曖桃花面 酡顏憨態最宜人 歷亂五聲隨手變 緩如疏風渡松林 清如雙鶴鳴在陰 烈如薦福碑頭碎霹靂 哀如莊舃病中爲越吟 聽者靡靡不知倦 便是中和大內音 西山諸臣滿座盡傾倒 徹夜追歡不知飽 左拋右擲爭纏頭 泥土金錢殊草草 豪華意氣凌王侯 五陵少年不足道 幷將三十六宮春 活做長安無價寶 此席回頭二十年 西山敗後余南遷 咫尺龍城不復見 何況城中歌舞筵 宣撫使君爲余重買笑 席中歌妓皆年少 席末一人髮半花 顏瘦神枯形略小 狼藉殘眉不飾妝 誰知就是當時城中第一妙 舊曲聲聲暗淚垂 耳中靜聽心中悲 猛然億起二十年前事 鑑湖席中曾見之 城郭推移人事改 幾處桑田變蒼海 西山基業盡消亡 歌舞空遺一人在 瞬息百年能幾時 傷心往事淚沾衣 南河歸來頭盡白 怪底佳人顏色衰 雙眼瞪瞪 空想像 可憐對面不相知
Phiên âm: Long Thành cầm giả ca
Tiểu dẫn
Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm (1) ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ (3) điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ (9) nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.
Long Thành giai nhân
Tính thị bất kí thanh Độc thiện Nguyễn cầm (1) Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh Dư ức thiểu niên tằng nhất kiến Giám hồ hồ biên dạ khai yến Kì thì tam thất chính phương niên Hồng trang yểm ái đào hoa diện Đà nhan hám thái tối nghi nhân Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến Hoãn như sơ phong độ tùng lâm Thanh như song hạc minh tại âm Liệt như Tiến Phúc bi (4) đầu toái tích lịch Ai như Trang Tịch (5) bệnh trung vi việt ngâm Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện Tiện thị Trung Hòa (6) đại nội âm Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo Triệt dạ truy hoan bất tri bão Tả phao hữu trịch tranh triền đầu Nê thổ kim tiền thù thảo thảo Hào hoa ý khí lăng vương hầu Ngũ lăng (7) niên thiếu bất túc đạo Tịnh tương tam thập lục (8) cung xuân Hoạt tố Trường An vô giá bảo Thử tịch hồi đầu nhị thập niên Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên Chỉ xích Long Thành bất phục kiến Hà huống thành trung ca vũ diên Tuyên Phủ (9) sứ quân vi dư trùng mãi tiếu Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa Nhan sấu thần khô hình lược tiểu Lang tạ tàn mi bất sức trang Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự Giám hồ tịch trung tằng kiến chi Thành quách suy di nhân sự cải Ki xứ tang điền biến thương hải Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong Ca vũ không di nhất nhân tại Thuấn tức bách niên năng kỉ thì Thương tâm vãng sự lệ triêm y Nam Hà quy lai đầu tận bạch Quái để giai nhân nhan sắc suy Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng Khả liên đối diện bất tương tri
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành
Tiểu dẫn Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời. Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộo nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều. Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng:
Người đẹp đất Long Thành
Không nghe tên họ Riêng thạo đàn Nguyễn Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên. Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2) Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất. Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến, Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi, Áo hồng ánh lên mặt hoa đào, Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương, Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu. Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông, Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm, Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc, Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh, Người nghe say sưa không biết mỏi, Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa. Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo, Mải vui suốt đêm không biết chán. Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng, Tiền bạc coi rẻ như đất bùn. Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu, Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể. Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân, Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm, Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam, Long Thành trong gang tấc không được thấy lại, Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành. Quan Tuyên Phủ vì tôi bày cuộc mua cười, Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi. Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm. Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ, Đôi mày phờ phạc không điểm tô, Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời, Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng. Tai lắng nghe mà lòng chua xót! Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám. Thành quách suy dời, việc người đổi, Bao nương dâu đã biến thành biển xanh. Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch, Trong làng múa hát còn sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt Cảm thương việc cũ lệ thấm áo Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng! Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn. Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau! (Quách Tấn dịch xuôi)
Dịch thơ: Người đẹp đất Long Thành
Tên họ chi ta không biết rõ Thạo Nguyễn cầm nên có tên Cầm Khúc kia Cung Phụng nhất trần Ngày thơ được học nhạc thần chầu vua Đã một lần thuở xưa gặp gỡ Bên bờ hồ cuộc dạ yến sang Tuổi hai mươi mốt cô nàng Mặt hoa áo thắm còn tham rượu nồng Theo ngón tay năm cung réo rắt Tiếng khoan như gió mát rừng thông Hạc kêu cao thẳm: tiếng trong Mạnh như sét đánh vỡ tung bia mồ Buồn: Trang Tịch ngâm thơ tiếng Việt Người nghe say chẳng biết mỏi a Khúc đâu đại nội Trung Hòa Tây Sơn quan chức nghe mà đảo điên Mải vui suốt cả đêm không chán Hai bên người tranh cạnh thưởng tài, Tiền như bùn đất vãi rơi. Đào hoa ý khí vượt nơi vương hầu Đám Ngũ Lăng còn đâu đáng kể Băm sáu cung xuân để mà coi Đúc chung vật báu trên đời Của kia vô giá đất trời Trường An Nay đã hai mươi năm tiệc ấy Sau Tây Sơn chiến bại, vào Nam Long Thành chẳng thấy tấc gang Huống chi tiệc múa mơ màng thành xưa Quan Tuyên Phủ vui mua cuộc hát Đám ca cơ tươi mát xuân xanh Mà sao một mái hoa râm Mặt gầy khô héo nhỏ thân hình hài Không điểm tô nét mày phờ phạc Ai biết từng đệ nhất tài danh Khúc xưa réo rắt dây đàn Nghe tuôn nước mắt từng làn âm thanh Tai lắng nghe mà đành chua xót Hai mươi năm chuyện trước là đây Bên hồ chiếu tiệc mê say Đã từng gặp gỡ những ngày thơ ngây Thành quách suy việc thay người đổi Bao nương dâu thành bãi biển xanh Tây Sơn cơ nghiệp tan tành Trong làng múa hát còn đành một ai Một cuộc thế không đầy chớp mắt Cảm việc xưa lệ ướt áo này Từ Nam về tóc trắng mây Trách chi người đẹp tàn phai má đào Trừng trừng hai mắt nhìn nhau Cố nhân chẳng biết khác nào người dưng
Đặng Thế Kiệt dịch thơ
*
Chú thích:
(1) Đàn Nguyễn: Đàn Nguyệt. Gọi như vậy là vì đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế.
(2) Tiền Triều: Triều nhà Lê. Vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
(3) Giám hồ: Hồ Hoàn Kiếm.
(4) Bia Tiến Phúc: Bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời nhà Tống có một người học trò nghèo dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ, Phạm cho phép người học trò rập một nghìn bản chữ bia để bán lấy tiền. Người học trò vừa đến nơi thì bia bị trời đánh vỡ tan.
(5) Trang Tịch: Người nước Việt, làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở, nhưng lúc bệnh năng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt.
(6) Đại nội Trung Hòa: Cung nhà Lê.
(7) Ngũ Lăng: Địa danh, có năm lăng tẩm của các vua nhà Hán. Nơi đây, bọn hào hoa phú quý thường tụ hội.
(8) Tam thập lục cung: Trong đền vua ngày xưa bên Tàu có 36 cung chứa đầy mĩ nữ.
(9) Quan Tuyên Phủ: Quan Trấn thủ.
*** Lạng thành (1) đạo trung
諒城道中
群峰湧浪石鳴濤 蛟有幽宮鵑有巢 泉水合流江水闊 子山不及母山高 團城雲石夕相候 鴻嶺親朋日漸遙 怪得柔情輕割斷 筐中攜有筆如刀
Phiên âm: Lạng thành (1) đạo trung
Quần phong dũng lãng thạch minh đào Giao hữu u cung, quyên hữu sào Tuyền thủy hợp lưu giang thủy khoát Tử sơn bất cập mẫu sơn cao Ðoàn thành vân thạch tịch tương hậu Hồng lĩnh thân bằng nhật tiệm dao Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn Khuông trung huề hữu bút như đao
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Trên đường đi Lạng thành
Núi non trập trùng, gió thổi vào đá, nghe như sóng vỗ. Ở đây, thuồng luồng có hang kín, đỗ quyên cũng có tổ. Nước suối ở đây hợp lại thành sông rộng. Núi con không cao bằng núi mẹ. Mây đá Đoàn thành chiều hôm nay như có ý đợi ta. Thân bằng cố hữu ở núi Hồng Lĩnh càng ngày càng xa cách. Quái lạ, nỗi nhớ nhung lại dễ cắt đứt. Khi tráp có ngọn bút thay đao (để khuây khỏa).
Dịch thơ: Trên đường đi Lạng thành
Núi trập trùng, sóng kêu trên đá Tổ nương chim, hang đã có rồng Suối gom dòng nhỏ thành sông Núi con đọ núi Mẹ không cao bằng Chiều Lạng Sơn, mây giăng đá ngóng Hồng Lĩnh thân sao chóng cách xa Lạ chưa, dứt nhẹ tình nhà Ðoạn sầu ngọn bút theo ta bạn đường ...
Đặng Thế Kiệt dịch
*
Chú thích:
(1) Lạng thành: Lạng sơn.
***
Lưu biệt cựu khế Hoàng
留別舊契黃
卅年故友重逢日 萬里前途一蹴初 道路日來情未竟 雲山別後意何如 悵然分手重關外 老矣全身百戰餘 他日南歸相會訪 六頭江上有樵漁
Phiên âm: Lưu biệt cựu khế Hoàng
Tạp niên cố hữu trùng phùng nhật Vạn lý tiền đồ nhất xúc sơ Đạo lộ nhật lai tình vị cánh Vân sơn biệt hậu ý hà như Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại Lão hỹ toàn thân bách chiến dư Tha nhật nam quy tương hội phỏng Lục Đầu giang thượng hữu tiều ngư.
Nguyễn Du
Dịch nghĩa: Từ biệt bạn cũ họ Hoàng
Ngày gặp lại người bạn cũ ba mươi năm về trước Cũng là ngày tôi lên đường đi vạn dặm Chưa kể hết những nỗi dọc đường những ngày gần đây Ở giữa núi mây, sau khi từ giã, ý bạn ra sao? Buồn biết bao cảnh chia tay ngoài quan ải Già mừng còn được toàn thân dù đã từng trăm trận đánh Mai này trở về Nam, gặp lại muốn hỏi thăm nhau. Chắc bấy giờ trên sông Lục Đầu, bạn sẽ là một bác tiều phu, hay người đánh cá.
Dịch thơ: Từ biệt bạn cũ họ Hoàng
Ba mươi năm cũ gặp đây, Lên đường vạn dặm cũng ngày tôi đi. Tình thâm ơi, biết nói gì, Núi mây ly biệt ý thì ra sao? Muôn trùng quan ải tay chào, Mừng người bách chiến không sao tuổi già. Về Nam mai mốt lân la, Lục Ðầu bến nước hỏi tra ngư tiều.
Đặng Thế Kiệt dịch ***
Nam Quan đạo trung
南關道中
玉書捧下五雲端 萬里單車渡漢關 一路偕來愯白髮 二旬所見但青山 君恩似海毫無報 春雨如膏骨自寒 王道蕩平休問訊 明江北上是長安
Phiên âm: Nam Quan đạo trung
Ngọc thư (1) phủng há ngũ vân đoan (2) Vạn lý đan xa độ Hán quan (3) Nhất lộ giai lai duy bạch phát Nhị tuần sở kiến đãn thanh san Quân ân tự hải hào vô báo Xuân vũ như cao cốt tự hàn Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn Minh Giang (4) bắc thướng thị Trường An (5)
Nguyễn Du
Dịch nghĩa: Trên đường Nam Quan
Chiếu của nhà vua từ tầng mây năm sắc ban xuống Trên đường muôn dặm, chiếc xe lẻ loi vượt cửa ải nhà Hán. Suốt dọc đường cùng ta chỉ có mái tóc bạc Cả hai mươi ngày chỉ thấy núi xanh Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp Mưa xuân như mỡ lạnh buốt xương Ðường của nhà vua rộng rãi bằng phẳng, thôi hỏi thăm chi nữa Theo dòng Minh Giang lên hướng bắc, ấy là Trường An
Dịch thơ: Trên đường Nam Quan
Tầng mây năm sắc chiếu vua ban Muôn dặm xe đơn vượt Hán quan Một mạch đường dài trơ tóc bạc Hai mươi ngày mỏi rặt non xanh Mưa xuân như mỡ, xương thêm buốt Ơn nước bằng trời, nợ nặng mang Rộng phẳng đường vua thôi thắc mắc Minh Giang lên bắc ấy Trường An
Đặng Thế Kiệt dịch * Chú thích:
(Theo Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Nhà xuất bản Văn Học, Việt Nam, 1999)
(1) Ngọc thư: Sắc chiếu nhà vua.
(2) Ngũ vân đoan: Mây năm sắc. Ý nói lệnh đi sứ.
(3) Hán quan: Cửa ải trên đường sang Trung quốc.
(4) Minh Giang: Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao, tỉnh Quảng Ðông. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Hoa.
(5) Trường An: Tức Yên Kinh (Bắc Kinh). Trường An chỉ là tiếng nói kinh đô nói chung.
*** Minh Giang (1) chu phát (
明江舟發 簫鼓鼕鼕初出門 萬山中斷一槎奔 浮雲乍散石容瘦 新潦初生江水渾 別後關山思弟妹 望中岩岫見兒孫 日斜莫向華山過 怕有聲聲腸斷猿
Phiên âm: Minh Giang (1) chu phát
Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn Vạn sơn trung đoạn nhất tra bôn Phù vân sạ tán thạch dung sấu Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn Biệt hậu quan sơn tư đệ muội Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn quá Phạ hữu thanh thanh trường đoạn vôn (viên).
Nguyễn Du
Dịch thơ: Thuyền ra đi trên sông Minh Giang
Chiêng trống thùng thùng ra cửa sông, Một thuyền lướt sóng giữa muôn trùng. Mây tan bất chợt hao gày núi, Nước lụt mới về vẩn đục dòng. Dặm biệt, anh em đà tưởng nhớ, Ðá chồng, con cháu cứ ngờ trông. Hoa Sơn chớ vượt khi chiều xế, Sợ vẳng bên tai vượn não nùng
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Minh Giang: Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao, tỉnh Quảng Ðông. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Hoa. Ðoàn sứ Nguyễn Du đi theo sông này qua núi Hoa Sơn, thuộc tỉnh Quảng Tây, lên phía bắc.
*** Hoàng Sào (1) binh mã
黄巢兵馬
大小花山數里分 黄巢遺蹟在江津 豈知金統秦中帝 乃出孫山榜外人 悞國每因拘限量 窮时自可變風雲 遠來擬問千年事 舡戶搖頭若不聞
阮攸
Phiên âm: Hoàng Sào (1) binh mã
Đại tiểu Hoa Sơn (1) sổ lí phân Hoàng Sào di tích tại giang tân Khởi tri Kim Thống (2) Tần Trung đế Nãi xuất Tôn Sơn (2) bảng ngoại nhân Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng Cùng thời tự khả biến phong vân Viễn lai nghĩ vấn thiên niên sự Hang hộ diêu đầu nhược bất văn
Nguyễn Du Dịch nghĩa: Binh mã của Hoàng Sào
Đại Hoa Sơn và Tiểu Hoa Sơn cách nhau mấy dặm Di tích Hoàng Sào còn để ở bến sông Đâu ngờ vua Kim Thống đất Tần Trung Lại là người lọt bảng Tôn Sơn (thi rớt) Lỡ việc nước vì câu nệ hẹp hòi Lúc cùng người ta có thể biến đổi gió mây Khách xa đến hỏi chuyện nghìn năm trước Nhà thuyền lắc đầu làm như không nghe
Dịch thơ: Binh mã Hoàng Sào
Hai dãy Hoa Sơn mấy dặm trông Hoàng Sào còn để vết bên sông Lên ngôi Kim Thống, làm vua chúa Thua hạng Tôn Sơn, lọt bảng rồng Thói hẹp làm hư nền xã tắc Thế cùng đảo lộn bước thành công Khách xa hỏi chuyện nghìn năm trước Ngơ ngác nhà thuyền ậm ự ... không
Đặng Thế Kiệt dịch
* Chú thích:
(1) Hoàng Sào: Ở dãy núi Hoa Sơn, trên bờ sông Minh Giang, tỉnh Quảng Tây, vẫn còn những vết đỏ hình người và ngựa, tục truyền đó là binh mã của Hoàng Sào. Hoàng Sào, người đời Đường, thi tiến sĩ, có tài, nhưng bị quan trường câu nệ hẹp hòi đánh rớt, vì tướng mạo quá xấu. Hoàng Sào bất mãn, nổi dậy đánh thắng vua Đường Huy Tông, làm Hoàng đế ở Tần Trung (nay là tỉnh Thiểm Tây) 10 năm (875-884), niên hiệu Kim Thống.
(2) Kim Thống: Ông vua Kim Thống đó cũng chính là anh chàng lọt "ngoài bảng Tôn Sơn". Do tích Tôn Sơn, đời Tống, đi thi đậu hạng chót, trả lời thư bạn hỏi tin như sau : Giải danh tận xứ thị Tôn Sơn, Dư nhân cánh tại Tôn Sơn ngoại (Cuối bảng tên là Tôn Sơn, Có người còn ở ngoài Tôn Sơn nữa). | *
014 Ninh Minh giang (1) chu hành
寧明江舟行
粵西山中多澗泉 千年合注成一川 自高而下如潑天 灘上何所聞 應龍激怒雷田田 灘下何所見 弩機劇發矢離絃 一瀉萬里無停堙 高山夾岸如牆垣 中有怪石森森然 有如龍蛇虎豹牛馬羅其前 大者如屋小如拳 高者如立低如眠 直者如走曲如旋 千形萬狀難盡言 蛟螭出沒成重淵 湧濤噴沫日夜爭豗喧 夏潦初漲沸如煎 一行三日心懸懸 心懸懸多所畏 危乎殆哉汩沒無底 共道中華路坦平 中華道中夫如是 窩盤屈曲似人心 危亡傾覆皆天意 高才每被文章妒 人肉最爲魑魅喜 風波那得儘能平 忠信到頭無足恃 不信出門皆畏途 試望滔滔此江水
Phiên âm: 014 Ninh Minh giang (1) chu hành
Việt Tây sơn trung đa giản tuyền Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên Tự cao nhi hạ như bát thiên Than thượng hà sở văn? Ưng long kích nộ lôi điền điền Than hạ hà sở kiến? Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền Nhất tả vạn lý vô đình yên Cao sơn giáp ngạn như tường viên Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền Ðại giả như ốc, tiểu như quyền Cao giả như lập, đê như miên Trực giả như tẩu, khúc như tuyền Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn Giao ly xuất một thành trùng uyên Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyền Hạ lạo sơ trướng phí như tiên Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền Tâm huyền huyền đa sở úy Nguy hồ đãi tai cốt một vô để Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình Trung Hoa đạo trung phù như thị Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý Cao tài mỗi vị văn chương đố Nhân nhục tối vi si mị hỉ Phong ba na đắc tẫn năng bình Trung tín (2) đáo đầu vô túc thị Bất tín "xuất môn giai úy đồ" Thí vọng thao thao thử giang thủy
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Đi thuyền trên sông Ninh Minh
Trong núi miền Việt Tây có nhiều khe suối Nghìn năm hợp lại thành một sông Như nước rót xuống từ trời cao Trên thác nghe thấy gì? Rồng hiện giận dữ, sấm động ầm ầm Máy nỏ bật mạnh, tên vút khỏi dây Một dòng vạn dặm không ngừng Núi cao bên bờ như bức tường Trong có đá hình thù kỳ dị chen chúc Như rồng, rắn, hổ, báo, trâu, ngựa la liệt trước phía trước Lớn như nhà, nhỏ bằng nắm tay Cao như đứng, thấp như ngủ Thẳng như chạy, cong như xoay vòng Muôn hình vạn trạng khó nói hết Thuồng luồng, ly long ra vào thành vực thẳm Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ĩ Lụt mùa hè vừa dâng nước sôi sục Ði một mạch ba ngày, lòng chơi vơi Lòng chơi vơi vì sợ hãi Thiệt là nguy hiểm chìm sâu không đáy Mọi người đều nói đường đi Trung Hoa bằng phẳng Ðường Trung Hoa như thế này ư ! Sâu hiểm quanh co như lòng người Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời Tài cao thường bị văn chương ganh ghét Thịt người là thứ ma quỷ thích nhất Sóng gió làm sao yên cho hết Giữ trung tín rốt cục không đủ cậy nhờ Ai không tin rằng "ra ngoài cửa mọi đường đều đáng sợ" Thì hãy thử nhìn nước sông cuồn cuộn đó
Dịch thơ: Đi thuyền trên sông Ninh Minh
Núi Việt Tây có nhiều khe suối Bao nhiêu năm tụ hội thành sông Trời cao đổ xuống đùng đùng Từ trên thác tựa như rồng nổi cơn Nghe như thể ầm ầm sấm nổ Vuột khỏi dây tên nỏ bật tung Một dòng vạn dặm không ngừng Bên bờ núi dựng như tường chênh vênh Ở trong nước đá hình quái lạ Như rắn, rồng, hổ, báo, trâu, ngựa liệt la Nhỏ tay nắm, lớn như nhà Cao như đứng, thấp như là ngủ say Cong như xoay, thẳng như đuổi chạy Muôn vẻ kỳ nói mấy cho vừa Thuồng luồng vực thẳm ghê chưa Ngày đêm ầm ĩ sóng đùa bọt phun Lụt mùa hè nước dâng sôi sục Ði ba ngày một mạch, chơi vơi Chơi vơi vì sợ ai ơi Nước sâu không đáy đi đời nhà ma Mọi người nói Trung Hoa bằng phẳng Ðường Trung Hoa thật chẳng ai ngờ Như lòng người lắm quanh co Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời Văn chương đời tài cao hay ghét Thịt người ma quỷ thích vô cùng Làm sao yên lặng bão bùng Giữ trung tín mấy cũng không đủ nhờ Không tin "ra cửa, nguy cơ" Nhìn sông cuồn cuộn đó ngờ nữa thôi!
Đặng Thế Kiệt dịch
* Chú thích:
(1) Ninh Minh Giang: Tức Minh Giang, khi chảy qua huyện Ninh Minh thì gọi là Ninh Minh giang.
(2) Trung tín: Lấy tích Đường Giới, người thời Tống, tính tình cương trực, phải biếm đi nơi hẻo lánh. Khi thuyền qua sông Hoài, sóng to gió lớn. Ông ngồi ngay ngắn đọc câu thơ: "Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba!" (Ngày thường giữ lòng trung tín, Bây giờ (thì) mặc sóng gió!).
***
Vọng Quan Âm miếu (trâng miếu Quan Âm
望觀音廟
伊誰絕境構亭臺 伐盡松枝墜鶴胎 石穴何年初鑿破 金身前夜卻飛來 停雲處處僧眠定 落日山山猿叫哀 一炷檀香消慧業 回頭已隔萬重崖
Phiên âm: Vọng Quan Âm miếu
Y thùy tuyệt cảnh cấu đình đài Phạt tận tùng chi trụy hạc thai Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá Kim thân (1) tiền dạ khước phi lai (2) Ðình vân xứ xứ tăng miên định Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai Nhất chú đàn hương (3) tiêu tuệ nghiệp (4) Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai
Dịch nghĩa: Trông miếu Quan Âm
Ai người dựng nên đình đài ở chốn tận cùng này? Chặt hết cành tùng, rớt trứng hạc Hang đá, năm nào bắt đầu đục phá? Tượng Phật (mình vàng) mới bay đến đêm qua Khắp chốn mây ngừng trôi, sư yên giấc Núi núi bóng chiều rơi, vượn kêu thương Ðốt nén hương đàn để tiêu tan nghiệp chướng do trí tuệ gây ra Quay đầu lại đã cách núi muôn trùng
Dịch thơ: Trông miếu Quan Âm
Ðình đài ai dựng tận nơi đây Trứng hạc rơi tùng chặt hết cây Hang đá năm nào vừa đục phá Tượng vàng đêm trước mới qua bay Mây ngưng chốn chốn sư an giấc Chiều rụng non non vượn oán ai Ðốt nén hương đàn tiêu tuệ nghiệp Muôn trùng đã cách thoáng đầu quay
Chú thích : (1) Kim thân: Mình vàng, chỉ tượng Phật.
(2) Phi lai: Do chữ "phi lai thạch". Lấy tích chùa Tương Sơn có hòn đá bay đến thành Phật.
(3) Ðàn hương: Hương làm bằng gỗ chiên đàn.
(4) Tuệ nghiệp: Nghiệp chướng do trí tuệ gây ra.
***
Tam Giang khẩu đường dạ bạc - Ðêm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang
三江口塘夜泊
西粵重山一水分 兩山相對石嶙峋 猿啼樹杪若無路 犬吠林中知有人 四望雲山人獨老 同舟胡越各相親 十年已失還鄉路 那得家鄉入夢頻
Phiên âm: Tam Giang khẩu đường dạ bạc
Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân Viên đề thụ diểu nhược vô lộ Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân Tứ vọng vân sơn nhân độc lão Ðồng chu Hồ Việt các tương thân Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ Nả đắc gia hương nhập mộng tần
Dịch nghĩa: Ðêm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang Nơi núi non trập trùng ở Tây Việt, một dòng nước chia hai Hai ngọn núi đối nhau, đá chồng chất Vượn hú trên ngọn cây, tưởng như không có đường đi Chó sủa trong rừng, biết là có người Nhìn bốn bề đều là mây và núi, chỉ có người thấy già Cùng thuyền, người Hồ kẻ Việt thân thiết với nhau Mười năm đã mất đường về làng cũ Sao được quê nhà đi vào trong mộng
Dịch thơ: Ðêm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang
Một dòng nước xẻ núi muôn trùng Hai dãy nhìn nhau đá chất chồng Vượn hú ngọn cây dường lạc lối Chó kêu rừng thẳm chắc gần thôn Núi mây bốn ngả tình cô quạnh Hồ Việt chung thuyền mối thiết thân Làng cũ mười năm quên mất hướng Quê nhà nẻo mộng nhớ về thăm
Đặng Thế Kiệt dịch ***
Chu hành tức sự (Ði thuyền hứng viết)
舟行即事
西粵山川多險巇 行行從此向天涯 崩崖怪石怒相向 水鳥沙禽狎不飛 天地扁舟浮似葉 文章殘息弱如絲 爲憐上國風光好 關鎖鄉情未放歸
Phiên âm: Chu hành tức sự
Tây Việt (1) sơn xuyên đa hiểm hi Hành hành tòng thử hướng thiên nhi (nhai) Băng nhai quái thạch nộ tương hướng Thủy điểu sa cầm hiệp bất phi Thiên địa thiên chu phù tự diệp (2) Văn chương tàn tức nhược như ti Vị liên thượng quốc phong quang hảo Quan tỏa hương tình vị phóng qui.
Nguyễn Du
Dịch nghĩa: Ði thuyền hứng viết
Núi sông Tây Việt nhiều hiểm trở Từ đây cứ đi về hướng chân trời Bờ núi lở, đá hình quái dị giận dữ nhìn nhau Chim nước chim bãi cát dạn dĩ không bay Chiếc thuyền con như chiếc là nổi giữa đất trời Hơi tàn văn chương yếu ớt như sợi tơ Vì yêu phong cảnh đẹp của thượng quốc Nên khóa tình quê lại, chưa thả cho về
Dịch thơ: Ði thuyền hứng viết
Tây Việt non sông hiểm trở đầy, Chân trời nhắm hướng kể từ đây. Ðá kỳ núi quái nhìn hung tợn, Chim nước cò bờ ngó chẳng bay. Trời đất mênh mông thuyền lá nổi, Văn thơ thoi thóp sợi tơ lay, Bởi yêu phong cảnh xứ người đẹp, Khóa chặt tình quê chửa vút bay.
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Tây Việt: Vùng Quảng Tây 廣西.
(2) Phù tự diệp: Bùi Giáng dịch: Thuyền con chiếc lá giữa trời, 'Thơ văn tiếng thở như lời tơ than. 'Trông vời hồng rụng ngổn ngang, 'Tìm đâu chốn cũ muôn vàn dưới kia. Hai câu đầu rút từ bài ‘Chu hành tức sự ‘, hai câu sau từ bài ‘Dương Phi cố lý'. (Xem Tố Như thi trích dịch, Quách Tấn, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995, trang bìa 2).
***
Thái Bình mại ca giả -(Người hát rong ở thành Thái Bình)
太平賣歌者
太平瞽師粗布衣 小兒牽挽行江湄 云是城外老乞子 賣歌乞錢供晨炊 鄰舟時有好音者 牽手引上船窗下 此時船中暗無燈 棄飯潑水殊狼藉 摸索引身向坐隅 再三舉手稱多謝 手挽弦索口作聲 且彈且歌無暫停 聲音殊異不得辨 但覺嘹喨殊可聽 舟子寫字爲余道 此曲世民與建成 觀者十數並無語 但見江風蕭蕭江月明 口噴白沫手酸縮 卻坐斂弦告終曲 殫盡心力幾一更 所得銅錢僅五六 小兒引待下船來 猶且回顧禱多福 我乍見之悲且辛 凡人愿死不愿貧 只道中華盡溫飽 中華亦有如此人 君不見使船朝來供頓例 一船一船盈肉米 行人飽食便棄餘 殘肴冷飯沉江底 Phiên âm: Thái Bình mại ca giả
Thái Bình cổ sư thô bố y Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi Vân thị thành ngoại lão khất tử Mại ca khất tiền cung thần xuy Lân chu thời hữu hiếu âm giả Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ Thử thời thuyền trung ám vô đăng Khí phạn bát thủy thù lang tạ Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung Tái tam cử thủ xưng đa tạ Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh Thả đàn thả ca vô tạm đình Thanh âm thù dị bất đắc biện Ðãn giác liêu lượng thù khả thinh Chu tử tả tự vị dư đạo Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành (1) Quan giả thập số tịnh vô ngữ Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc Ðàn tận tâm lực cơ nhất canh Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai Do thả hồi cố đảo đa phúc Ngã sạ kiến chi, bi thả tân Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão Trung Hoa diệc hữu như thử nhân Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ Hành nhân bão thực tiện khí dư Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
Nguyễn Du
Dịch thơ: Người hát rong ở thành Thái Bình
Ở phủ Thái Bình có ông lão, Hai mắt mù mặc áo vải thô. Nắm tay trẻ dắt ngoại ô, Ven sông hát dạo lần mò kiếm ăn. Thuyền bên có kẻ ham nghe hát, Dẫn ông già xuống sát cửa thuyền. Lúc này thuyền tối không đèn, Cơm thừa canh cặn đổ tràn tứ tung. Lò dò vô trong cùng, một góc, Hai ba lần lóc ngóc cám ơn. Miệng ca, tay nắn dây đàn, Một hơi đàn hát chẳng lần nghỉ ngơi. Thanh âm lạ, lẽ lời không hiểu, Lắng nghe ra thì điệu cũng hay. Nhà thuyền viết chữ : "Khúc này" "Thế Dân tranh đoạt quyền oai Kiến Thành". Chục người xem mà đành phăng phắc, Gió ru trăng vằng vặc trên sông. Miệng sùi, tay mỏi lão ông, Cất đàn, ngồi lại, thưa rằng đã xong. Gần một canh, hết lòng hết sức, Năm sáu đồng kiếm được thế thôi. Ðứa em dẫn khỏi thuyền rồi, Còn quay đầu lại gửi lời chúc may. Chợt nhìn thấy cảnh này đau xót, Phàm người ta chết tốt hơn nghèo. Trung Hoa no ấm, nghe nhiều, Trung Hoa cũng có người nghèo thế ư? Kìa không thấy sứ từ xa lại, Gạo thịt đầy thuyền cái thuyền con. Người ăn no ứ vẫn còn, Ðáy sông cơm ngọt món ngon đổ chìm.
Đặng Thế Kiệt dịch *
Chú thích:
(1) Kiến Thành và Thế Dân: Con Ðường Cao Tổ 唐高祖. Kiến Thành 建成 là Thái tử. Thế Dân 世民 lập mưu giết Kiến Thành, đoạt ngôi Thái Tử, sau thành vua Ðường Thái Tông 唐太宗 (627-649).
***
Sơn Ðường Dạ Bạc(Ðêm đậu thuyền ở Sơn Ðường)
山塘夜泊
午夢醒來晚 斜日掩窗扉 風勁維船早 山高得月遲 倚篷千里望 合眼隔年思 莫近蒼崖宿 啼猿徹夜悲
Phiên âm: Sơn Đường dạ bạc
Ngọ mộng tỉnh lai vãn Tà nhật yểm song phi Phong kính duy thuyền tảo Sơn cao đắc nguyệt trì Ỷ bồng thiên lý vọng Hợp nhãn cách niên ti (tư) Mạc cận thương nhai túc Ðề viên triệt dạ bi
Nguyễn Du
Dịch thơ: Ðêm đậu thuyền ở Sơn Ðường
Mộng trưa tỉnh giấc muộn Bóng xế ngậm song tây Gió mạnh neo thuyền sớm Non cao ngắm trăng chầy Dựa mui trông dặm trở Chớp mắt nhớ năm đầy Chớ ngủ gần bên núi Thâu đêm vượn oán ai.
Đặng Thế Kiệt dịch ***
Ðề Ðại Than (1) Mã Phục Ba (2) miếu (Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than)
題大灘馬伏波廟
鑿通嶺道定炎墟 蓋世功名在史書 向老大年矜矍鑠 除衣食外盡嬴餘 大灘風浪留前烈 古廟松杉隔故閭 日暮城西荊棘下 淫潭遺悔更何如
Phiên âm: Ðề Ðại Than (1) Mã Phục Ba (2) miếu
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm (3) khư Cái thế công danh tại sử thư Hướng lão đại niên căng quắc thước (4) Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư (5) Ðại Than phong lãng lưu tiền liệt Cổ miếu tùng sam cách cố lư Nhật mộ thành tây (6) kinh cức hạ Dâm Ðàm (7) di hối cánh hà như
Nguyễn Du
Dịch nghĩa: Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than
Ðục xuyên qua đường Ngũ lĩnh, bình định cõi Nam Công danh trùm đời ghi trên sử sách Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa Sóng gió Ðại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà Chiều tà dưới đám gai gọc phía tây thành Nỗi hận ở Dâm Ðàm, sau cùng ra làm sao?
Dịch thơ: Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than
Chiếm Nam đục núi đắp đường, Công danh sử sách lẫy lừng khắc ghi. Tuổi cao quắc thước khoe gì, Ngoài cơm áo có cần chi với đời. Ðại Than sóng gió một thời, Miếu xưa tùng bách xa vời cố hương. Tây thành gai góc tà dương, Dâm Ðàm nỗi hận quay cuồng tới đâu?
Hạt Cát 79 dịch *
Chú thích: (1) Ðại Than: Một ghềnh lớn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện đem quân sang nước ta đã phá thác, ghềnh để dễ đi thuyền. Cho nên những chỗ có ghềnh, thác trên các sông miền Nam Trung quốc đều có miếu thờ Mã Viện.
(2) Mã Phục Ba: Tức Mã Viện, danh tướng nhà Hán, thời vua Quang Vũ được phong là Phục Ba tướng quân
(3) Viêm: Nóng. Viêm bang chỉ những xứ nóng phía Nam Trung Hoa.
(4) Quắc thước: Mã Viện ngoài 60 tuổi còn xin vua đi đánh giặc. Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựa. Vua cười khen : "Ông này quắc thước lắm!" (Quắc thước tại thị ông!).
(5) Tẫn doanh dư: Thiếu Dư, em họ của Mã Viện, nói : "Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, ở quê hương trông nom mồ mả ruộng vườn. Cần gì vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân".
(6) Thành Tây: Mộ Mã Viện chôn ở Tây Thành.
(7) Dâm Ðàm: Tên đầm. Mã Viện đem quân đánh Hai Bà Trưng mãi không được, phải lui quân về Lãng Bạc. Trời nóng bức, hơi độc từ hồ bốc lên, diều hâu bay không được. Viện hối hận đã không nghe lời em mình.
***
Vãn há Ðại Than, tân lạo bạo trướng, chư hiểm câu thất (Chiều xuống Ðại Than, lũ mới trào về, tất cả các quãng nguy hiểm đều ngập nước)
晚下大灘新潦暴漲諸險俱失
銀河昨夜自天傾 江水茫茫江岸平 未信鬼神能相侑 盡敎龍虎失精靈 平居不會講忠信 到處無妨齊死生 更有險巇饒十倍 吾將何以叩神明
Phiên âm: Vãn há Ðại Than, tân lạo bạo trướng, chư hiểm câu thất
Ngân hà tạc dạ tự thiên khuynh Giang thủy mang mang giang ngạn bình Vị tín quỉ thần năng tướng hựu Tẫn giao long hổ thất tinh linh Bình cư bất hội giảng "trung tín" (1) Ðáo xứ vô phương "tề tử sinh" Cánh hữu hiểm hy nhiêu thập bội Ngô tương hà dĩ khấu thần minh?
Nguyễn Du Dịch nghĩa: Chiều xuống Ðại Than, lũ mới trào về, tất cả các quãng nguy hiểm đều ngập nước
Ðêm qua sông Ngân từ trời đổ xuống Nước sông mênh mông, bờ sông ngập bằng Chưa tin quỉ thần có thể giúp được gì Ngay cả rồng cọp cũng hết linh thiêng Ngày thường không thấu hiểu hai chữ "trung tín" Thì đến đâu cũng không giải quyết được vấn đề "sống và chết" Có chỗ hiểm nguy gấp mười Ta sẽ lấy gì để cầu xin với thần minh?
Dịch thơ: Chiều xuống Ðại Than, lũ mới trào về, tất cả các quãng nguy hiểm đều ngập nước
Ngân hà trút xuống đêm qua, Mênh mông sông nước gần xa không bờ. Quỉ thần đâu đó bây giờ, Rồng thiêng, cọp dữ cũng chờ bó tay. "Tín Trung" không nghĩ thường ngày, Thì "Sinh Tử" biết vần xoay đường nào. Chỗ trăm lần hiểm cao sâu, Lấy gì đây để rập đầu khấn xin!
Hạt Cát 79 dịch
*
Chú thích:
(1) Trung tín: Ðường Giới Tống nói : Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba (ngày thường giữ trung tín, hôm nay mặc kệ phong ba).
***
Hạ than (1) hỷ phú (Mừng xuống khỏi thác)
下灘喜賦
心香拜禱將軍祠 一掉中流肆所之 到處江山如識趣 喜人蛇虎不施威 萬株松樹僧人屋 一帶寒煙燕子磯 寂寂船窗無箇事 漁歌江上看斜暉
Phiên âm: Hạ than (1) hỷ phú
Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (từ) Nhất trạo trung lưu tứ sở chi Ðáo xứ giang sơn như thức thú Hỷ nhân xà hổ bất thi uy Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc Nhất đái hàn yên Yến Tử ky (cơ) Tịch tịch thuyền song vô cá sự Ngư ca giang thượng khán tà huy
Nguyễn Du
Dịch nghĩa: Tả nỗi mừng khi xuống thác
Tấm lòng thành dâng hương khấn trước đền tướng quân Một thuyền giữa dòng nước mặc cho trôi đi Ðến đâu cũng thấy sông núi như đã quen biết Mừng cho người, hùm rắn đã không ra oai Muôn cụm tùng kia là nơi nhà sư ở Một dải khói lạnh, đó là Hòn Én Lặng lẽ ngồi bên cửa thuyền, không làm gì cả Nghe thuyền chài hát, ngắm chiều tà
Dịch thơ: Mừng xuống khỏi thác
Thành khẩn dâng hương vái trước đền, Một thuyền theo nước cứ lênh đênh. Mừng người rắn cọp không làm dữ, Thích cảnh non sông như đã quen. Muôn cụm tùng xanh sư trú ngụ, Một Hòn Én lạnh khói dâng lên. Bên song lặng lẽ không gì bận, Nghe khúc chài ca, ngó nắng nghiêng.
Đặng Thế Kiệt dịch
* Chú thích:
(1) Than: Ðại Than, một ghềnh lớn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện đem quân sang nước ta đã phá thác, ghềnh để dễ đi thuyền. Cho nên những chỗ có ghềnh, thác trên các sông miền Nam Trung quốc đều có miếu thờ Mã Viện.
|