*
Thanh Hiên Thi Tập 清軒詩集
Quỳnh Hải nguyên tiêu Xuân nhật ngẫu hứng
Tự thán (bài 1) Sơn cư mạn hứng U cư (bài 1) U cư (bài 2) Mạn hứng (bài 2) Xuân dạ Lưu biệt Nguyễn Đại Lang Thu chí Thu dạ Bát muộn Trệ khách Đại nhân hí bút Kí mộng Kí hữu Đối tửu Điếu La Thành ca giả Ngọa bệnh Tạp ngâm (bài 1) Kí hữu Thanh minh ngẫu hứng Quỷ Môn đạo trung Xuân tiêu lữ thứ Điệp tử thư trung * Quỳnh Hải (1) nguyên tiêu
瓊海元宵 元夜空庭月滿天 依依不改舊嬋娟 一天春興誰家落 萬里瓊州此夜圓 鴻嶺無家兄弟散 白頭多恨歲時遷 窮途憐汝遙相見 海角天涯三十年
Phiên âm: Quỳnh Hải (1) nguyên tiêu
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên Y y bất cải cựu thiền quyên (2) Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán (3) Bạch đầu đa hận tuế thời thiên Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến Hải giác thiên nhai tam thập niên (4).
Nguyễn Du Dịch nghĩa: Đêm rằm tháng giêng ở Quỳnh Hải
Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng đầy trời Vẻ đẹp của thiền quyên y cũ không chút thay đổi Một trời xuân hứng không biết rơi vào nhà ai Muôn dặm Quỳnh Châu đêm nay (trăng) tròn Chốn Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan tác Đầu bạc nhiều giận ngày tháng đổi dời Đường cùng thương mày từ xa thấy nhau Nơi góc biển chân trời (tuổi) đà ba chục năm.
Dịch thơ: Đêm rằm tháng giêng nơi Quỳnh Hải
Rằm tháng giêng trăng vàng lai láng, Nghìn xưa không đổi dạng thuyền quyên. Quỳnh Châu muôn dặm đoàn viên, Một trời xuân hứng xuân riêng nhà nào? Cảnh Hồng Lĩnh biết bao ly tán! Bạc mái đầu ngày tháng đổi thay. Đường cùng mừng thấy nhau đây, Phương trời lận đận tuổi đầy ba mươi.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
Chú thích: (1) Quỳnh Hải, Quỳnh Châu: Huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ của Nguyễn Du. Sau khi Nguyễn Khản thất lộc, Nguyễn Du về lánh nạn ở Quỳnh Côi. (2) Thiền quyên: Dáng đẹp đẽ dễ thương. Nói chung về người lẫn vật, nhưng tục quen dùng để nói riêng về phụ nữ. Ở đây chỉ mặt trăng. (3) Hồng Lĩnh: Núi ở Nghệ Tĩnh. Nguyễn Du chính quán Hà Tĩnh. Người anh khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh âm mưu kết nghĩa chống lại nhà Tây Sơn, bị bắt không chịu phục, nên bị giết. Dinh cơ của họ Nguyễn cùng nhà cửa của đồng bào theo Nguyễn Quýnh đều bị phá hủy. Anh em Nguyễn Du chạy lánh nạn mỗi người mỗi nơi. (4) Tam thập niên: Câu này có người cắt nghĩa là: "Ở nơi góc bể chân trời ba chục năm". Giải nghĩa như thế e sai, vì Nguyễn Du lúc chạy đến Quỳnh Côi lánh nạn, tuổi mới trên đôi mươi (sanh năm 1765, đậu tam trường năm 1784, chạy giặc năm 1786). Và lênh đênh nơi quê vợ chỉ trên dưới mười năm. Như vậy phải giải nghĩa là "tuổi ba mươi" mới đúng.
***
Xuân nhật ngẫu hứng
春日偶興
患氣經時戶不開 逡巡寒暑故相催 他鄉人與去年別 瓊海春從何處來 南浦傷心看綠草 東皇生意漏寒梅 鄰翁奔走村前廟 斗酒雙柑醉不回
Phiên âm: Xuân nhật ngẫu hứng
Hoạn khí kinh thời hộ bất khai Thuân tuần hàn thử cố tương thôi Tha hương nhân dữ khứ niên biệt Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai Nam phố thương tâm khán lục thảo Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu Đấu tửu song cam túy bất hồi
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ngày xuân ngẫu hứng
Lâu nay khí trời xấu không mở cửa Lần lữa mùa lạnh mùa nóng đẩy nhau qua Nơi đất khách người với năm cũ từ biệt nhau Ở Quỳnh Hải xuân từ đâu lại? Tại bến Nam đau lòng nhìn cỏ xanh Cái ý của chúa xuân lộ ra trên hoa mai lạnh Ông hàng xóm rảo bước ra miếu đầu thôn Uống đấu rượu với hai trái cam say không về
Dịch thơ: Ngẫu hứng ngày xuân
Trời xấu lâu ngày không mở cửa, Nóng lạnh mùa lần lữa theo nhau. Quê người năm cũ tiễn mau, Ở nơi Quỳnh Hải xuân đâu lại về. Bến cỏ xanh não nề lòng khách, Ý chúa xuân mai lạnh phô bày. Miếu đầu lão xóm ra ngay, Rượu vò hai quả cam say chưa về.
Đặng Thế Kiệt dịch
*** Tự thán (kỳ nhất) 自嘆 (其一)
生未成名身已衰 蕭蕭白髮暮風吹 性成鶴脛何容斷 命等鴻毛不自知 天地與人屯骨相 春秋還汝老鬚眉 斷蓬一片西風急 畢竟飄零何處歸
Phiên âm: Tự thán (kỳ nhất)
Sinh vị thành danh thân dĩ suy Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn (1) Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi Đoạn bồng nhất phiến tây phong (2) cấp Tất cánh phiêu linh hà xứ quy
Dịch nghĩa: Tự thán
Sinh ra chưa làm nên danh phận gì, thân đã suy yếu Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi Chân hạc tánh vốn dài, cắt ngắn làm sao được Mệnh trời nhẹ như lông hồng mà không tự biết Trời đất phú cho người cái cốt tướng gian truân Xuân thu đưa về cho mày bộ râu già cỗi Một ngọn cỏ bồng lìa gốc trước trận gió tây thổi gấp Cuối cùng, không biết trôi nổi về xứ nào?
Dịch thơ: Tự thán
Sống chửa nên danh đã yếu mòn Phơ phơ tóc bạc gió chiều hôm Vốn như chân hạc dài sao cắt Mệnh tựa lông hồng nhẹ biết không Trời đất phú cho thân lận đận Xuân thu đem lại mặt già hom Gió tây thổi bật thân lìa gốc Phiêu giạt về đâu ngọn cỏ bồng
Chú thích:
(1) Hạc hĩnh: Ống chân hạc. Trang Tử nói: "Chân le dù ngắn, nối thêm thì nó lo, chân hạc dù dài, chặt bớt thì nó xót" (Phù hĩnh tuy đoản, tục chi tắc ưu, hạc hĩnh tuy trường, đoạn chi tắc bi 鳧 脛雖短, 續之則憂, 鶴脛雖長, 斷之則悲, Trang Tử 莊子, Biền mẫu 駢拇). Ý nói không thể làm trái tánh tự nhiên. (2) Tây phong: Gió tây. Trong văn thơ, Nguyễn Du thường nhắc đến gió tây, để ám chỉ nhà Tây Sơn.
***
Sơn cư mạn hứng
山居漫興
南去長安千里餘 群峯深處野人居 柴門晝靜山雲閉 藥圃春寒隴竹疏 一片鄉心蟾影下 經年別淚雁聲初 故鄉弟妹音耗絕 不見平安一紙書
Phiên âm: Sơn cư mạn hứng
Nam khứ Trường An thiên lý dư Quần phong thâm xứ dã nhân cư Sài môn trú tĩnh sơn vân bế Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ Cố hương đệ muội âm hao tuyệt Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Nguyễn Du Dịch nghĩa: Ở núi cảm hứng lan man
Cách Trường An hơn nghìn dặm về phía nam Trong dãy núi sâu, người thôn dã nương náu Ngày yên tĩnh, mây núi che kín cửa sài (cửa bằng củi) Mùa xuân lạnh, hàng trúc quanh vườn thuốc nơi thung lũng trông thưa thớt Một mảnh lòng nhớ quê thẫn thờ dưới ánh trăng Dòng lệ biệt ly đã lâu ngày khơi trào theo tiếng nhạn đầu mùa Em trai em gái nơi quê nhà, tin tức bị dứt hẳn Không có một tờ thư cho biết có bình an hay không.
Dịch thơ: Sơn cư mạn hứng
Ngoảnh lại trời Nam khuất Đế thành, Trập trùng núi thẳm túp lều tranh. Cửa sài vắng vẻ mây giăng trắng, Vườn thuốc đìu hiu trúc rũ xanh. Trăng dõi niềm quê ngơ ngẩn bóng, Nhàn khơi lệ biệt sụt sùi canh. Em xa nhà cách bao năm tháng! Không một hàng thư gởi gắm tình.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
*** U cư
幽居
桃花桃葉落紛紛 門掩斜扉一院貧 住久頓忘身是客 年深更覺老隨身 異鄉養拙初防俗 亂世全生久畏人 流落白頭成底事 西風吹倒小烏巾
Phiên âm: U cư
Đào hoa đào diệp (1) lạc phân phân Môn yểm tà phi nhất viện bần Trú cửu đốn vong thân thị khách Niên thâm cánh giác lão tùy thân Dị hương dưỡng chuyết (2) sơ phòng tục Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân Lưu lạc bạch đầu thành để sự Tây phong xuy đảo tiểu ô cân (3)
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ở nơi u tịch
Hoa đào lá đào rụng tơi bời Cánh cửa xiêu vẹo che một gian nhà nghèo Ở trọ lâu ngày quên lửng mình là khách Năm chầy càng biết là cái già theo bên mình Ở đất khách, nên nuôi cái vụng về để phòng thói đời Sống đời loạn, muốn bảo toàn sinh mệnh từ lâu phải sợ người Lưu lạc đến bạc đầu mà có nên chuyện gì đâu Gió tây thổi rơi cái khăn đen nhỏ
Dịch thơ: U cư
Đào rụng đầy sân lá tiếp hoa, Một gian lều nát khép lơ là. Trọ lâu quên bẵng thân là khách, Tới mãi thành quen tuổi cõng già. Thời loạn nể người mong sống trọn, Thói đời giả vụng chút phòng xa. Nổi chìm tóc bạc chưa nên việc, Thổi bật khăn đầu trận gió qua.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi,An Tiên tái bản, France,1995)
Chú thích: (1) Đào hoa đào diệp: Hoa đào rụng rồi đến lá đào rụng. Hết xuân hoa đào rụng, sang thu lá đào rụng. Ý nói hết xuân đến thu, tháng ngày đi vun vút. (2) Dưỡng chuyết: Nuôi dưỡng sự vụng về. Lão Tử: "Đại xảo nhược chuyết"大巧若拙 (chương XLV) Rất khéo léo dường như vụng về. (3) Tiểu ô cân: Khăn đen nhỏ. Người giàu sang bịt khăn to lớn. Nghèo không sắm nổi khăn lớn, tạm bịt chiếc khăn nho nhỏ để che mái tóc bạc. Thế mà gió Tây cũng thổi cho rơi! Đã khốn khổ đến thế mà con Tạo còn trớ trêu.
***
007-2 U Cư 2
幽居
十載風塵去國賒 蕭蕭白髮寄人家 長途日暮新遊少 一室春寒舊病多 壞壁月明蟠蜥蜴 荒池水涸出蝦蟆 行人莫誦豋樓賦 强半春光在海涯
Phiên âm: U cư
Thập tải phong trần khứ quốc xa Tiêu tiêu bạch phát kí nhân gia Trường đồ nhật mộ tân du thiểu Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch Hoang trì thủy hạc xuất hà ma Hành nhân mạc tụng Đăng lâu phú (1) Cường bán xuân quang (2) tại hải nha (nhai)
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Ở nơi u tịch
Mười năm gió bụi, bỏ quê hương đi xa Phơ phơ đầu bạc ở nhờ vả nhà người Đường dài, ngày tối, bạn mới ít Một nhà xuân lạnh, bệnh cũ lại nhiều Vách hư bóng trăng soi sáng, thằn lằn bò quanh Ao hoang nước khô cạn, ễnh ương nhảy ra Kẻ đi đường chớ đọc phú Đăng Lâu Quá nửa tuổi xuân ở nơi góc biển rồi
Dịch thơ: U cư
Mười năm gió bụi biệt gia hương, Nương cửa người phơ mái tóc sương! Bạn ít ngày chiều đường diệu vợi Bệnh nhiều xuân vắng quán thê lương Trăng soi vách thủng khoanh lằn mối Nước cạn đầm hoang rộn ễnh ương Già nửa xuân quang thân góc bể Qua đường chớ đọc phú lầu Vương
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiên tái bản, France, 1995)
Chú thích:
(1) Đăng Lâu phú: Bài phú "Lên lầu" của Vương Xán 王粲 (177-277). Vương Xán là một trong thất tử lừng danh thời Kiến An 建安 (cuối thời Đông Hán 東漢). Người đất Lạc Dương, lánh nạn đến nhờ Lưu Biểu 劉表 ở đất Kinh Châu 荊州. Một hôm lên lầu thành Giang Lăng, nhớ quê làm bài Đăng Lâu phú để giải tỏa nỗi u hoài. (2) Xuân quang: Ánh sáng mùa xuân. Đời thanh xuân của con người.
***
Mạn hứng
漫興
行腳無根任轉蓬 江南江北一囊空 百年窮死文章裏 六尺浮生天地中 萬里黃冠將暮景 一頭白髮散西風 無窮今古傷心處 依舊青山夕照紅
Phiên âm: Mạn hứng
Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng Giang nam giang bắc nhất nang không Bách niên cùng tử văn chương lí Lục xích (1) phù sinh thiên địa trung Vạn lí hoàng quan (2) tương mộ cảnh Nhất đầu bạch phát tán tây phong Vô cùng kim cổ thương tâm xứ Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng Dịch nghĩa: Mạn hứng
Chân không bén rễ mặc chuyển dời như cỏ bồng Một chiếc túi rỗng đi hết phía nam sông sang phía bắc sông Cuộc đời trăm năm chết rục trong vòng văn chương Tấm thân sáu thước sống lênh đênh giữa vùng trời đất Muôn dặm mũ vàng đối cùng cảnh trời chiều Một đầu tóc bạc bay tung theo ngọn gió tây Nơi chứa đựng bao nhiêu chuyện đau lòng xưa nay (Ấy là) Dãy núi xanh nhuộm bóng chiều hồng như cũ.
Dịch thơ: Mạn hứng
Kiếp cỏ bồng chân không bén rễ, Băc rồi Nam túi nhẹ ven sông. Văn chương thác vẫn đèo bồng, Thân trôi nổi mãi trong vòng kiền khôn. Dặm hoàng quan bồn chồn nắng tắt, Gió lạnh lùng thổi bật mái sương. Xưa nay xiết nỗi đoạn trường, Non xanh dưới ánh tà dương nhuộm hồng.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
Chú thích:
(1) Lục xích: "Lục xích thân" nghĩa là thân sáu thước. Thân tám thước là thân kẻ anh hùng. Thân bảy thước là thân kẻ làm trai. Thân năm thước là thân ngũ đoản của người thấp kém. Nguyễn Du tự cho mình chỉ ở trên đám "ngũ đoản" và ở dưới đám "thất xích", nên dùng chữ "lục xích". Đó là lời nói khiêm. (2) Hoàng quan: Mũ vàng tức mũ người đạo sĩ.
***
Xuân dạ
春夜
黑夜韶光何處尋 小窗開處柳陰陰 江湖病到經時久 風雨春隨一夜深 羈旅多年燈下淚 家鄉千里月中心 南臺村外龍江水 一片寒聲送古今
Phiên âm: Xuân dạ
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm Tiểu song khai xứ liễu âm âm Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm Ki lữ đa niên đăng hạ lệ Gia hương thiên lí nguyệt trung tâm Nam Đài (1) thôn ngoại Long Giang (2) thủy Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim)
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Đêm xuân
Đêm đen, ánh sáng xuân tìm đâu Cửa sổ nhỏ mở ra liễu âm u Chốn giang hồ bệnh đến đã lâu Trời mưa gió xuân theo đêm sâu Khách xa nhà nhiều năm, nước mắt rớt dưới đèn Quê nhà vạn dặm, lòng gởi vầng trăng Nước sông Lam ngoài thôn Nam Đài Một tiếng vang lạnh tiễn cổ kim
Dịch thơ: Đêm xuân
Đêm đen, xuân sắc biết tìm đâu Cửa nhỏ mở ra liễu sẫm màu Lặn lội bệnh theo ngày tháng mỏi Gió mưa xuân vắng bóng đêm thâu Xứ người bao nả, đèn rơi lệ Quê cũ muôn xa, nguyệt gởi sầu Cách xóm Nam Đài sông nước thẳm Lạnh vèo một tiếng biệt xưa sau
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích:
(1) Nam Đài: Tên xóm nhà Nguyễn Du.
(2) Long Giang: Tức Thanh Long giang, từ ngã ba Hưng Nguyên trở xuống.
***
010 Lưu biệt Nguyễn Đại Lang 留別阮大郎
西風歸袖柳高林 傾盡離杯話夜深 亂世男兒羞對劍 他鄉朋友重分襟 高山流水無人識 海角天涯何處尋 留取江南一片月 夜來常照兩人心
Phiên âm: Lưu biệt Nguyễn Đại Lang
Tây phong quy tụ liễu cao lâm Khuynh tận li bôi thoại dạ thâm Loạn thế nam nhi tu đối kiếm Tha hương bằng hữu trọng phân khâm Cao sơn lưu thủy vô nhân thức Hải giác thiên nhai hà xứ tầm Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Bài thơ gửi lại khi chia tay cùng Nguyễn Đại Lang
Gió tây thổi tay áo rừng liễu cao Dốc chén rượu đưa tiễn nói chuyện đêm khuya Thời loạn bậc làm trai thẹn mặt nhìn gươm Ở quê người, bạn bè coi trọng sự chia biệt Tiếng đàn "núi cao nước chảy" không người hiểu Góc bể chân trời biết tìm đâu Xin giữ lấy một mảnh trăng ở phía nam sông Đêm đến thường soi lòng hai người
Dịch thơ: Bài thơ gửi lại khi chia tay cùng Nguyễn Đại Lang
Ống tay áo liễu (1) gió bay Rừng cao dốc chén đêm này hàn huyên Làm trai không vẹn lời nguyền Trông gươm mà thẹn nỗi niềm loạn li Quê người nặng bước chân đi Núi cao nước chảy (2) ai thì tri âm Chân trời góc bể mù tăm Lòng ta soi sáng mảnh trăng dặm trường
Đặng Thế Kiệt dịch
Chú thích:
(1) Liễu: Chỉ sự chia tay. Ngày xưa, ở Trường An 長安, bên sông Bá 灞, người ta đưa tiễn bạn thường bẻ tặng một cành liễu. (2) Núi cao nước chảy: Theo sách "Lã thị xuân thu" 呂氏春秋, Chung Tử Kì 鍾子期 là người sành nghe nhạc. Một hôm nghe Bá Nha 伯牙 gảy đàn, Bá Nha nghĩ đến núi, Tử Kì khen rằng: "Tiếng đàn chót vót như núi cao", khi Bá Nha nghĩ đến sông, Tử Kì nói: "Tiếng đàn cuồn cuộn như nước chảy". Bá Nha coi Tử Kì là người "tri âm" 知音. Khi Tử Kì mất, Bá Nha đập vỡ đàn và không gảy nữa.
***
013 Thu dạ 1 & 2
秋夜
[1] 繁星歷歷露如銀 東壁寒虫悲更辛 萬里秋聲催落葉 一天寒色掃浮雲 老來白髮可憐汝 住久青山未厭人 最是天涯倦遊客 窮年卧病歲江津
[2] 白露爲霜秋氣深 江城草木共蕭森 剪燈獨照初長夜 握髮驚懷末日心 千里江山頻悵望 四時煙景獨沉吟 早寒已覺無衣苦 何處空閨催暮砧
Phiên âm: Thu dạ
[1] Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân Đông bích hàn trùng bi canh tân Vạn lí thu thanh thôi lạc diệp Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân Lão lai bạch phát khả liên nhữ Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân Tối thị thiên nhai quyện du khách Cùng niên ngọa bệnh Tuế Giang (1) tân
[2] Bạch lộ vi sương thu khí thâm Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm Tiễn đăng (2) độc chiếu sơ trường dạ Ác phát (3) kinh hoài mạt nhật tâm Thiên lý giang sơn tần trướng vọng Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm Tảo hàn dĩ giác vô y khổ Hà xứ không khuê thôi mộ châm
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Đêm thu
[1] Sao nhiều và rõ mồn một, sương như bạc Tường đông tiếng hàn trùng buồn lại xót Muôn dặm tiếng thu thúc giục lá rụng Một trời sắc lạnh quét sạch những mây bay Già đến tóc bạc khá thương mày Ở lâu non xanh chưa chán người Nhất là du khách bên trời đã mỏi mệt Mà năm cùng rồi còn nằm bệnh nơi bờ Tuế Giang
[2] Móc trắng thành sương, hơi thu đã già Cây cỏ quanh thành bên sông thảy đều tiêu điều Một mình khêu ngọn đèn soi đêm dài mới bắt đầu Vắt tóc nghĩ mà sợ cho chí nguyện mình trong những ngày cuối Non sông nghìn dặm bao la thường buồn bã trông Mây khói bốn mùa một mình lặng lẽ ngậm ngùi Lạnh sớm mới biết cái khổ vì thiếu áo Nơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ phòng không giục giã buổi chiều hôm?
Dịch thơ: Đêm thu
[1] Sao vàng lấp lánh ánh sương dày, Dế khóc tường đông giọng đắng cay. Muôn dặm tiếng thu dồn lá rụng, Đầy trời sắc lạnh quét mây bay. Già theo tóc bạc riêng thương đó, Lòng gởi non xanh chửa chán đây. Ngán nỗi phương trời thân khách mỏi, Tuế Giang nằm bệnh suốt năm chầy.
[2] Móc bạc thành sương thu hắt hiu, Giang thành cây cỏ thảy tiêu điều. Đèn khêu riêng cảm đêm dài dặc, Tóc vắt thầm lo chuyện ấp yêu. Nghìn dặm nước non sầu vọi vọi, Tư mùa trăng gió vắng thiu thiu. Lạnh sơ đã khổ phần không áo, Đập vải nhà ai rộn bóng chiều.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
Chú thích: (1) Tuế Giang: Tên một khúc sông ở Bắc Việt, chưa rõ ở tỉnh nào. Đào Duy Anh cho là Quế Giang 桂江, vì thơ Nguyễn Du còn có câu "Hồng Sơn sơn hạ Quế Giang thâm" (Mi trung mạn hứng). (2) Tiễn đăng: Cắt hoa đèn để cho ngọn lửa cháy sáng. Có lẽ tác giả liên tưởng đến hai câu thơ của Lý Thương Ẩn: "Hà đương cộng tiễn tây song chúc, "Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì." 何當共剪西窗燭, 卻話巴山夜雨時. (Bao giờ cùng nhau cắt hoa đèn nơi tây song, Kể cho nhau nghe nỗi lòng nơi Ba Sơn lúc đêm mưa lạnh.) (3) Ác phát: Theo điển "ác phát thổ bộ" 握髮吐哺 vắt tóc nhả cơm: Chu Công 周公 là một đại thần của nhà Chu rất chăm lo việc nước. Đương ăn cơm, có khách đến nhả cơm ra tiếp. Đương gội đầu có sĩ phu tới, liền vắt tóc ra đón, hết người này đến người khác, ba lần mới gội đầu xong. Câu thơ của Nguyễn Du ý nói: Chí nguyện được đem ra giúp nước như Chu Công, cuối cùng không biết có toại nguyện hay chăng. Nghĩ đến lòng vô cùng lo ngại.
***
Trệ khách
滯客
滯客淹留南海中 寂寥良夜與誰同 歸鴻悲動天河水 戍鼓寒侵夏夜風 人到窮途無好夢 天回苦海促浮蹤 風塵隊裡留皮骨 客枕蕭蕭兩鬢蓬
Phiên âm: Trệ khách
Trệ khách yêm lưu Nam Hải trung Tịch liêu lương dạ dữ thùy đồng Quy hồng bi động thiên hà thủy Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng Thiên hồi khổ hải xúc phù tung Phong trần đội lí lưu bì cốt Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Khách trọ lâu ngày
Khách trọ trì trệ ở chốn Nam Hải Đêm thanh vắng với ai cùng Chim hồng về kêu thương động nước sông Ngân Trống lính thú lạnh thấm vào gió hè Người tới đường cùng không mộng đẹp Trời đưa lại bể khổ thúc giục bước chân trôi nổi Trong đám phong trần để lại (người)da và xương Gối khách buồn buồn hai mái tóc rối
Dịch thơ: Khách trọ lâu ngày
Vũng biển chần chờ đã bấy lâu Đêm thanh chia sẻ biết ai đâu Sông Ngân rợn tiếng chim hồng khóc Trống ải run lòng gió hạ đau Kẻ bước đường cùng vời mộng đẹp Trời đưa bể khổ giục chân mau Bụi đời vất vưởng bầy xương xẩu Tóc rối buồn dâng khách gối đầu
Đặng Thế Kiệt dịch
*** Đại nhân hí bút 代人戲筆
錯落人家珥水濱 居然別占一城春 東西橋閣兼天起 胡漢衣冠特地分 苜蓿秋驕金勒馬 葡萄春醉玉樓人 年年自得繁華勝 不管南溟幾度塵
Phiên âm: Đại nhân hí bút
Thác lạc nhân gia Nhị thủy tân Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân Đông tây kiều các kiêm thiên khởi Hồ Hán y quan đặc địa phân Mục túc thu kiêu kim lặc mã Bồ đào xuân túy ngọc lâu nhân Niên niên tự đắc phồn hoa thắng Bất quản nam minh kỉ độ trần
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Thay người viết đùa
Nhà người chen chúc trên bến sông Nhị Ngang nhiên chiếm riêng vẻ xuân một thành Bên đông bên tây cầu và gác cao tới trời Áo mũ người Hồ kẻ Hán khác biệt nhau Mùa thu, ngựa mang dàm vàng kiêu hãnh ăn rau đậu Trời xuân, người ở lầu ngọc say sưa rượu bồ đào Năm này sang năm khác hưởng cảnh phồn hoa Không bận lòng biển nam bao lần gió bụi
Dịch thơ: Thay người viết đùa
Chen chúc cửa nhà rộn bến sông Vẻ xuân riêng chiếm một mình ông Phố phường tranh cạnh vươn cao ngất Áo mũ ganh đua diện tứ tung Vênh váo ngựa sang ăn mục túc Say sưa người đẹp uống sâm nhung Phồn hoa tận hưởng dài năm tháng Chi bận biển nam bụi mịt mùng
Đặng Thế Kiệt dịch
| *
Ký mộng (1) 記夢
逝水日夜流 遊子行未歸 經年不相見 何以慰相思 夢中分明見 尋我江之湄 顏色是疇昔 衣飭多參差 始言苦病患 繼言久別離 帶泣不終語 彷彿如隔帷 平生不識路 夢魂還是非 疊山多虎虒 藍水多蛟螭 道路險且惡 弱質將何依 夢來孤燈清 夢去寒風吹 美人不相見 柔情亂如絲 空屋漏斜月 照我單裳衣
Phiên âm: Ký mộng (1)
Thệ thủy nhật dạ lưu Du tử hành vị quy Kinh niên bất tương kiến Hà dĩ úy tương ti (tư) Mộng trung phân minh kiến Tầm ngã giang chi mi Nhan sắc thị trù tích Y sức đa sâm si Thủy ngôn khổ bệnh hoạn Kế ngôn cửu biệt ly Đái khấp bất chung ngữ Phảng phất như cách duy Bình sinh bất thức lộ Mộng hồn hoàn thị phi Điệp sơn đa hổ ty Lam thủy đa giao li Đạo lộ hiểm thả ác Nhược chất tương hà y Mộng lai cô đăng thanh Mộng khứ hàn phong xuy Mỹ nhân bất tương kiến Nhu tình loạn như ti Không ốc lậu tà nguyệt Chiếu ngã đan thường y.
Nguyễn Du Dịch nghĩa: Ghi lại giấc mộng
Dòng nước ngày đêm chảy Du tử đi chưa về Bao năm không gặp nhau Lấy gì an ủy nỗi nhớ nhau Trong mộng thấy rõ ràng Tìm ta ở bến sông Nhan sắc vẫn như xưa Áo quần thì lếch thếch Thoạt đầu nói khổ vì bệnh hoạn Kế đó nói vì xa nhau lâu Nghẹn ngào khóc nói không hết câu Phảng phất như cách nhau bức màn Bình sinh không biết đường Trong hồn mộng là thực hay hư? Núi Tam Điệp nhiều hổ báo Sông Lam nhiều thuồng luồng Đường đi hiểm và dữ Thân thể yếu đuối dựa vào đâu Mông đến, ngọn đèn cô đơn sáng leo lét Mộng tàn, gió lạnh thổi Người đẹp không thấy nữa Tình vấn vương rối như tơ Nhà trống lọt trăng tà Chiếu vào chiếc áo đơn của ta.
Dịch thơ: Ghi lại giấc mộng
Nước ngày đêm chảy mãi Du tử chưa về đâu Bao năm rồi không gặp Lấy gì an ủy nhau Rõ ràng thấy trong mộng Tìm ta nơi bến sâu Nhan sắc vẫn như trước Áo quần lếch thếch sao Trước nói khổ vì bệnh Sau nói xa nhau lâu Nghẹn ngào câu không trọn Phảng phất cách màn sau Bình sinh đường không rõ Hồn thực giả hay đâu Núi non nhiều hổ báo Sông thuồng luồng biết bao Đường đi hiểm và dữ Thân yếu dựa vào đâu Mộng đến, đèn leo lét Mộng tàn, gió lạnh ào Người đẹp không thấy nữa Tình bối rối tơ nhàu Nhà trống trăng tà chiếu Manh áo đơn đêm thâu.
Đặng Thế Kiệt dịch Chú thích:
(1): Theo Lê Thước và Trương Chính, bài này nói về người vợ trước của Nguyễn Du, đã mất.
***
030 Ký hữu
寄友
漠漠塵埃滿太空 閉門高枕臥其中 一天明月交情在 百里鴻山正氣同 眼底浮雲看世事 腰間長劍掛秋風 無言獨對庭前竹 霜雪消時合化龍
Phiên âm: Ký hữu
Mạc mạc trần ai mãn thái không Bế môn cao chẩm ngọa kỳ trung Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại Bách lý Hồng Sơn (1) chính khí đồng Nhãn để phù vân khan thế sự Yêu gian trường kiếm quải thu phong Vô ngôn độc đối đình tiền trúc Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long (2)
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Gởi bạn
Mịt mờ bụi bặm bay đầy bầu trời Đóng cửa gối cao ở bên trong Một trời trăng sáng, tình gia hảo còn đó Trăm dặm non Hồng, đồng chính khí với nhau Trong đáy mắt, xem việc đời như mây nổi Bên thắt lưng, gươm dài quảy gió thu Một mình lặng lẽ ngắm khóm trúc trước sân Đến lúc sương tuyết tan sẽ hóa rồng
Dịch thơ: Ký hữu
Đầy trời lớp lớp dậy trần hiêu, Đóng cửa nằm cao tạnh sớm chiều. Chánh khí muôn thu ngàn Hống vững, Giao tình một mối bóng trăng treo. Chuyện đời ghé mắt mây lơ lửng, Gươm báu cài lưng gió hắt hiu. Lặng lẽ bên sân lòng đối trúc, Hóa rồng chờ thuở tuyết sương tiêu.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
Chú thích:
(1) Hồng Sơn: Dãy núi cao và dài nhất ở quê hương Nguyễn Du. (2) Hóa long: Cây trúc khi già, hình dáng trông giống như con rồng, nhất là trông phần gốc rễ, có mắt có râu. Cho nên tre già, trúc già gọi là Long ông, măng tre gọi là Long tôn.
***
040 Đối tửu
對酒
趺坐閒窗酒眼開 落花無數下蒼苔 生前不盡樽中酒 死後誰澆墓上杯 春色漸遷黃鳥去 年光暗逐白頭來 百期但得終朝醉 世事浮雲眞可哀
Phiên âm: Đối tửu
Phu tọa nhàn song tửu nhãn khai Lạc hoa vô số hạ thương đài Sinh tiền bất tận tôn trung tửu Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ Niên quang ám trục bạch đầu lai Bách kì đãn đắc chung triêu túy Thế sự phù vân chân khả ai
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Ngồi uống rượu
Ngồi xếp bằng bên cửa sổ vắng mắt rượu say mở nhìn Bao nhiêu là hoa rụng trên rêu xanh Khi sống không uống cạn rượu trong bầu Thì chết rồi ai rưới chén rượu trên mồ Sắc xuân dần dần biến đổi, chim hoàng anh bay mất Bóng sáng năm tháng âm thầm đi, tóc trắng lại Hạn kì trăm năm chỉ ước được say suốt ngày Việc đời như mây nổi thật đáng thương
Dịch thơ: Ngồi uống rượu
Ngồi nhìn song vắng rượu say Bao nhiêu hoa rụng trên này cỏ non Bây giờ nốc cạn chén ngon Mồ xanh giọt rượu ai còn rưới cho Mùi hương xuân sắc phai mờ Bóng chim tăm cá bạc phơ mái đầu Ước chi thơ túi rượu bầu Trăm năm mây nổi quên sầu mênh mang
Đặng Thế Kiệt dịch
***
吊羅城歌者
一枝濃艶下蓬瀛 春色嫣然動六城 天下何人憐薄命 塚中應自悔浮生 胭脂不洗生前障 風月空留死後名 想是人間無識趣 九泉去伴柳耆卿
Phiên âm: Điếu La Thành (1) ca giả
Nhất chi nùng diễm há Bồng Doanh (2) Xuân sắc yên nhiên động lục thành Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh Trủng trung ưng tự hối phù sanh Yên chi bất tẩy sanh tiền chướng Phong nguyệt không lưu tử hậu danh Tưởng thị nhân gian vô thức thú Cửu tuyền khứ bạn Liễu Kì Khanh (3)
Nguyễn Du 阮攸 Dịch nghĩa: Điếu người ca nữ đất La Thành
Một cành nồng đượm từ cõi Bồng Doanh xuống Sắc xuân đẹp đẽ làm rung động sáu thành Thiên hạ ai người thương phận bạc mệnh Trong mồ hẳn tự hối hận cho kiếp phù sinh Nghiệp phấn son lúc sống không tẩy sạch Tiếng trăng gió sau khi chết vẫn còn lưu Ý hẳn trên đời không người biết thưởng thức thú vị Nên xuống chín suối làm bạn cùng Liễu Kì Khanh.
Dịch thơ: Điếu ca nữ đất La Thành
Một cành nồng đượm xuống Bồng Doanh Sắc thắm xuân đưa nức sáu thành Trên thế ai thương đời bạc mệnh Trong mồ riêng hối kiếp phù sinh Phấn son trăm trước chưa rồi nợ Trăng gió nghìn sau luống để danh Trần giới hẳn không người thức thú Suối vàng tìm bạn Liễu Kì Khanh
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiên tái bản, France, 1995)
Chú thích: (1) La Thành: Thành Nghệ An. Truyền rằng thành do Trương Phụ đáp tại bến Phù Thạch nơi giao thủy của La Giang và Lam Giang. (2) Bồng Doanh: Bồng Lai và Doanh Châu. Truyền rằng ở trong Bột Hải 渤海 có ba hòn đảo là Bồng Lai 蓬萊, Phương Trượng 方丈 và Doanh Châu 瀛洲. Chung quanh ba hòn này nước biển rất yếu không đỡ nổi một hột cải, nên ghe thuyền tới đó đều chìm. Người ta gọi là Nhược Thủy 弱水. Nơi non Bồng nước Nhược chỉ có tiên đến được thôi. Bồng Doanh chỉ cõi tiên. (3) Liễu Kì Khanh: Tên Liễu Vịnh 柳永, một danh sĩ nổi tiếng về từ, ở đời Tống. Tuổi già mới thi đỗ tấn sĩ, và giữ một chức quan nhỏ ở Tràng An 長安. Buổi thiếu thời thường lui tới xóm ca nhi và soạn nhiều bài từ tả nỗi đau khổ của làng son phấn. Khi Liễu Vịnh chết, chị em ca nữ góp tiền chôn cất và tổ chức những ngày kỉ niệm rất linh đình.
*** 045 Ngọa bệnh
臥病
多病多愁氣不舒 十旬困臥桂江居 厲神入室吞人魄 饑鼠緣床喫我書 未有文章生孼障 不容塵垢雜清虛 三蘭窗下吟聲絕 點點精神遊太初
Phiên âm: Ngọa bệnh
Đa bệnh đa sầu khí bất thư Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư Lệ thần nhập thất thôn nhân phách Cơ thử duyến sàng khiết ngã thư Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng Bất dung trần cấu tạp thanh hư (1) Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt Điểm điểm tinh thần du thái sơ (2)
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Nằm bệnh
Nhiều bệnh nhiều sầu, tâm thần không thư thái Mười tuần nằm liệt trong vùng Quế Giang Thần dịch lệ vào nhà bắt hồn phách người Chuột đói leo quanh giường gặm sách vở ta Chưa từng có chuyện văn chương sanh nghiệt chướng Không để cho bụi bặm lẫn vào cõi thanh hư Dưới cửa sổ tam lan, tiếng ngâm vắng bặt Tinh thần dần dần đi dong chơi ngoài cõi không trung
Dịch thơ: Ngọa bệnh
Sầu lại bệnh lòng không thanh thản, Miền Quế Giang mấy tháng nằm suông. Bắt hồn, dịch rắc tai ương, Chuột leo gặm sách quanh giường làm no. Văn chương nào sanh ra nghiệt chướng, Gìn thanh hư chẳng vướng trần hiêu. Song ngâm ngày vắng thiu thiu, Tinh thần điểm điểm tiêu diêu cõi ngoài.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiên tái bản, France, 1995)
Chú thích:
(1) Thanh hư: Chốn hư không trong sạch. Trời xanh cũng gọi là thanh hư. Lòng không bận thế sự, luôn luôn yên lặng trong trẻo, cũng gọi là thanh hư.
(2) Thái sơ: Liệt Tử 列子: "Thái sơ giả, khí chi thủy dã" 太初者, 氣之始也 (Thiên thụy 天瑞) Thái sơ là thuở bắt đầu có khí. Lúc mới khởi đầu
***
047 Tạp ngâm [I]
雜吟
秋聲一夜渡藍河 無影無形入我家 萬里西風來白髮 一窗秋色在黃花 百年哀樂何時了 四壁圖書不厭多 庭植孤松高百尺 不知青帝奈人何
Phiên âm: Tạp ngâm [I]
Thu thanh nhất dạ độ Lam Hà Vô ảnh vô hình nhập ngã gia Vạn lí tây phong lai bạch phát Nhất song thu sắc tại hoàng hoa Bách niên ai lạc hà thời liễu Tứ bích đồ thư bất yếm đa Đình thực cô tùng cao bách xích Bất tri thanh đế nại nhân hà
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Tạp ngâm [I]
Tiếng thu một đêm qua sông Lam Không bóng không hình vào nhà ta Muôn dặm gió tây đến tóc bạc Sắc thu một cửa sổ nơi hoa cúc vàng Trăm năm buồn vui bao giờ hết Bốn vách sách vở nhiều không chán Sân trồng một cây tùng cao trăm thước Không biết chúa xuân làm sao với người
Dịch thơ: Tạp ngâm [I]
Tiếng thu đêm vắng vượt qua sông Vào chỗ nhà ta bóng ảnh không Muôn dặm gió tây phai bạc tóc Một màu hoa cúc sáng bừng song Trăm năm vui khổ bao giờ hết Bốn vách thơ văn thú vị lòng Trăm thước tùng cao sân quạnh quẽ Chúa xuân chi quấy khách mơ mòng
Đặng Thế Kiệt dịch
寄友
鴻山山月一輪明 千里長安此夜情 太璞不全眞面目 一州何事小功名 有生不帶公侯骨 無死終尋豕鹿盟 羨殺北窗高臥者 平居無事到虛靈
Phiên âm: Kí hữu (1)
Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh Thiên lí Trường An (2) thử dạ tình Thái phác (3) bất toàn chân diện mục Nhất châu (4) hà sự tiểu công danh Hữu sanh bất đái công hầu cốt Vô tử chung tầm thỉ lộc (5) minh Tiện sát bắc song (6) cao ngọa giả Bình cư vô sự đáo hư linh (7)
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Gởi bạn
Vầng trăng trên đỉnh Hồng Sơn, một bóng tròn vằng vặc, Tràng An nghìn dặm một mảnh tình đêm nay. Viên ngọc phác không giữ được trọn bộ mặt mắt thật của mình nữa, Chút công danh ở một châu đáng kể gì Sinh ra vốn không mang sẵn cốt công hầu, Chưa chết thì rốt cuộc sẽ đi tìm lợn hươu làm bạn. Thèm chết được cái thú của người ngồi cao nơi song bắc, Sống yên ổn thường ngày, không một việc gì bận đến tâm hồn trong sáng.
Dịch thơ: Kí hữu
Đêm nay ngàn Hống bóng trăng thanh, Nghìn dặm Tràng An một mảnh tình. Ngọc phác không gìn nguyên diện mục, Thân đời khéo buộc nẻo công danh! Công hầu cốt ấy đâu sanh sẵn, Hươu vượn duyên kia quyết để dành. Thong thả kìa ai song bắc tựa, Chuyện ngoài chẳng chút bợn hư linh.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm tái bản, 1995, France).
Chú thích:
(1) Kí hữu: Bài này tác giả gởi cho bạn ở Hồng Sơn, khi ra Tràng An làm quan cùng nhà Nguyễn. (2) Tràng An: Tức Thăng Long. (3) Thái phác: Viên ngọc còn ở trong đá, chưa mài dũa. Sách Chiến Quốc chép: Vua Tề mời Nhan Xúc vào cung để trọng dụng. Xúc từ chối nói: "Ngọc sinh ở đá trên núi, nếu đem phá ra mà lấy dùng, không phải không quý giá, nhưng bản chất không còn nguyên vẹn. Kẻ sĩ sanh ra nơi đồng nội, nếu được dùng cho bổng lộc, không phải không hiển vinh, nhưng hình thái tinh thần không được trọn vẹn".
(4) Nhất châu: Khi mới ra làm quan cùng nhà Nguyễn, Tố Như nhận chức tri huyện Phù Dung thuộc Khoái Châu, tỉnh Sơn Nam (Hưng Yên) ngày nay.
(5) Thỉ lộc: Thỉ là heo rừng, lộc là hươu nai.
(6) Bắc song: Đào Tiềm, một cao hiền đời Tấn,có câu: "Tiết tháng năm tháng sáu, nằm nơicửa sổ phía bắc, gió mát thoảng đến,tự coi như người đời Hi Hoàng".
(7) Hư linh: Cũng như tâm linh. Cõi lòng trong sạch và trống trơn không chút bận đến thế sự.
*** Thanh minh ngẫu hứng
清明偶興
東風晝夜動江城 人自悲悽草自青 春日有身非少壯 天涯無酒對清明 村歌初學桑麻語 野哭時聞戰伐聲 客舍含愁已無限 莫敎茅草近階生
Phiên âm: Thanh minh ngẫu hứng
Đông phong trú dạ động giang thành Nhân tự bi thê thảo tự thanh Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng Thiên nhai vô tửu đối thanh minh Thôn ca sơ học tang ma ngữ Dã khốc thời văn chiến phạt thanh Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn Mạc giao mao thảo cận giai sinh
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Thanh minh ngẫu hứng
Ngày đêm gió đông (gió xuân) lay động thành bên sông Người tự buồn thương, cỏ tự xanh Ngày xuân, thân không còn trai trẻ Ở chân trời không rượu đón tiết Thanh minh Trong tiếng ca thôn làng, học tiếng người trồng dâu trồng gai Từng lúc nghe tiếng khóc nơi đồng nội, tưởng như tiếng sát phạt chiến tranh Ở quán trọ, đã mang mỗi buồn thương vô hạn Chớ để cỏ tranh mọc gần thềm
Dịch thơ: Thanh Minh Ngẫu Hứng
Giang thành lay ngọn đông phong Cỏ xanh xanh mượt buồn mông mênh buồn Thiếu Niên đã khuất bao xuân Thanh Minh thiếu rượu bâng khuâng góc trời Thôn ca canh cửi học lời Cánh đồng dậy tiếng khóc đời chiến tranh Ngậm sầu quán khách buồn tanh Bên thềm chớ để cỏ tranh lan tràn
Vũ Thị Thiên Thư dịch
***
鬼門道中
鬼門石徑出雲根 征客南歸欲斷魂 樹樹東風吹送馬 山山落月夜啼猿 中旬老態逢人懶 一路寒威仗酒溫 山塢何家大貪睡 日高猶自掩柴門
Phiên âm: Quỷ Môn (1) đạo trung
Quỷ môn thạch kính xuất vân côn (căn) Chinh khách nam quy dục đoạn hồn Thụ thụ đông phong xuy tống mã Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề vôn (viên) Trung tuần lão thái (2) phùng nhân lãn Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn Sơn ổ hà gia đại tham thụy Nhật cao do tự yểm sài môn
Dịch nghĩa: Trên đường qua Quỷ Môn Quan
Đường đá ở Quỷ Môn từ chân mây mà ra Hành khách về nam buồn muốn đứt tâm hồn Gió đông qua những hàng cây, thổi vào ngựa đưa tiễn Trăng lặn xuống sau dãy núi, đêm vượn kêu Tuổi mới trung tuần mà đã có vẻ già, lười gặp người (vì ngại việc thù tiếp) Suốt con đường giá lạnh, nhờ rượu được hơi ấm Trong xóm núi, nhà ai ham ngủ quá Mặt trời đã lên cao mà cửa củi còn đóng kín.
Dịch thơ: Trên đường qua Quỷ Môn Quan
Đường Quỷ Môn Quan mây ngút xông Về nam chinh khách tái tê lòng Gió dồn chân ngựa cây xao xác Trăng rụng đầu non vượn não nùng Lười việc đón đưa già trước tuổi Đỡ cơn giá rét rượu đầy chung Nhà ai góc núi sao ham giấc? Nắng gội hiên chưa mở cánh bồng
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
Chú thích:
(1) Quỷ Môn Quan: Ở phía nam xã Chi Lăng. Đường hẹp, núi dốc, hình thế hiểm trở. Có núi trông như đầu quỷ, ải do đó mà mệnh danh. Người xưa có câu: “Quỷ Môn Quan! Quỷ Môn Quan!, Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn!" (Ải Quỷ Môn! Ải Quỷ Môn! Mười người đi, một người về!”).
(2) Trung tuần: Tiên Điền làm bài này lúc lên trấn Nam Quan nghênh tiếp sứ Tàu sang phong sắc cho vua Gia Long, xong sứ mệnh trở về kinh. Năm ấy là năm Giáp Tí (1804), tác giả mới 40 tuổi nhưng đầu đã bạc trắng (đầu cụ bạc từ lúc lánh nạn ở Quỳnh Côi).
064 春宵旅次
蕭蕭蓬鬢老風塵 暗裡偏驚物候新 池草未闌千里夢 庭梅已換一年春 英雄心事荒馳騁 名利營場累笑顰 人事蕭條春自好 團城城下一沾巾
Phiên âm: Xuân tiêu lữ thứ (1)
Tiêu tiêu bồng mấn (2) lão phong trần Ám lí thiên kinh vật hậu tân Trì thảo (3) vị lan thiên lí mộng Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân (4) Anh hùng tâm sự hoang trì sính (5) Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần (6) Nhân sự tiêu điều xuân tự hảo Đoàn thành (7) thành hạ nhất triêm cân
Nguyễn Du 阮攸
Dịch nghĩa: Đêm xuân quán khách
Bời bời mái tóc bồng già cùng gió bụi Trong thầm lặng riêng sợ khi nhìn thấy cảnh vật đổi mới Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng "cỏ bờ ao" Cây mai ở trước sân đã đổi một năm xuân Tâm sự anh hùng đã nguội, không còn nghĩ đến chuyện dong ruổi Trên trường danh lợi những kẻ lụy về vẻ khóc cười Người buồn bã xuân riêng đẹp Đứng dưới chân thành Đoàn, một mình, lệ thấm khăn
Dịch thơ: Đêm xuân quán khách
Phất phơ mái tóc rối phong trần Lặng lẽ thầm kinh vật biến tân Chằm cỏ chưa tan ngàn dặm mộng Thềm mai đã đổi một năm xuân Anh hùng dạ lấp đường dong ruổi Danh lợi chân ê bước nhọc nhằn Người dẫu đìu hiu xuân vẫn đẹp Thành Đoàn thơ thẩn lệ dầm khăn
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiên tái bản, France, 1995)
Chú thích:
(1) Lữ thứ: Tác giả làm bài này khi lên Lạng Sơn để đón sứ thần nhà Thanh năm Giáp Tí (1805).
(2) Bồng mấn: Mái tóc rối bời như cỏ bồng.
(3) Trì thảo: Chữ lấy trong câu thơ của Tạ Linh Vận đời Tấn: "Trì đường sanh xuân thảo". Nguyên Tạ Linh Vận có người em học tên là Tạ Huệ Liên mới 10 tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường tán thán và nói rằng khi ngồi cùng Huệ Liên thì thế nào cũng nghĩ được thơ hay. Một hôm Linh Vận ngồi nơi bờ ao nghĩ thơ, nhưng không tìm ra tứ. Về nhà nằm ngủ chiêm bao thấy Huệ Liên, thức dậy làm được câu "Trì đường sanh xuân thảo", rất lấy làm đắc ý. Câu chuyện này truyền ra trở thành một giai thoại trong làng thơ.
(4) Đình mai: Dùng mai trong thơ, một là để tả xuân, hai là để ngụ ý ở nơi trạm để đợi sứ, mươn ý câu thơ Đường: "Chiết mai phùng dịch sứ". Nguyễn Du đến Lạng Sơn mùa Đông năm Quý Hợi (1804) và làm bài "Xuân tiêu" năm Giáp Tí (1805), nên mới nói là "Dĩ hoán nhất niên xuân".
(5) Trì sính: Trì là ngựa chạy mau. Sính cũng là ngựa chạy mau. Hai chữ ghép lại thành nghĩa là dong ruổi.
(6) Tiếu tần: "Tiếu" là cười. "Tần" là nhăn mày.
(7) Đoàn thành: Tên riêng của thành Lạng Sơn. Có tên như vậy vì góc Tây Bắc của thành hình vòng tròn.
***
蝶死書中
芸窗曾幾染書香 謝卻風流未是狂 薄命有緣留簡籍 殘魂無淚哭文章 蠹魚易醒繁花夢 螢火難灰錦繡腸 聞道也應甘一死 淫書猶勝爲花忙
Phiên âm: Điệp tử thư trung
Vân song (1) tằng kỷ nhiễm thư hương Tạ khước phong lưu vị thị cuồng Bạc mệnh hữu duyên (2) lưu giản tịch (3) Tàn hồn vô lệ khốc văn chương Đố ngư (4) dị tỉnh phồn hoa mộng (5) Huỳnh hỏa nan hôi cẩm tú trường Văn đạo (6) dã ưng cam nhất tử Dâm thư do thắng vị hoa mang (7)
Dịch nghĩa: Bướm chết trong sách
Nơi cửa sổ trồng cỏ vân đã từng bao lần đượm mùi hương sách vở Từ bỏ phong lưu chưa hẳn là dại Mệnh bạc nhưng có duyên được lưu lại trong sách vở Hồn tàn không nước mắt khoác văn chương Con mọt sách dễ tỉnh giấc mộng phồn hoa Lửa đom đóm khó đốt cháy tấm lòng gấm vóc Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam Say đắm vào sách còn hơn đa mang vì hoa.
Dịch thơ: Bướm chết trong sách
Song vân từng thấm vị thư hương, Bỏ thú phong lưu há phải cuồng. Mệnh bạc còn duyên vương sử sách, Hồn tàn không lệ khóc văn chương. Khó mong lửa đóm thiêu lòng gấm, Dễ khiến thân sâu tỉnh mộng vàng. Đạo lý sớm nghe chiều chết thỏa, Hoa sao bằng chữ dám cưu mang.
Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiêm tái bản, Paris 1995)
Chú thích:
(1) Vân song: Cửa sổ trồng cỏ vân hương. Tức thư phòng. (2) Bạc mệnh hữu duyên: Nghe truyền là: "Khô cốt hữu duyên lưu giản tịch". (3) Giản tịch: Giản là thẻ tre. Ngày xưa chưa có giấy, dùng thẻ tre để ghi chép. Tịch là sổ sách. (4) Đố ngư: Dịch tạm là mọt sách. Nhưng không phải giống mọt như mọt cây gỗ, vì không có vỏ cứng. Đây là một loại gián nhỏ, không cánh, có ba lông đuôi như ba sợi râu. (5) Phồn hoa mộng: Mộng giàu sang. (6) Văn đạo: Nghe được Đạo. Do câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ 論語 : "Triêu văn đạo tịch tử khả hĩ" 朝聞道,夕死可矣! Nghĩa là: "Sáng nghe đuợc đạo lý, chiều tối chết cũng hả lòng".
(7) Vị hoa mang: Câu này nghe truyền là: "Vi hoa vương". Nghĩa là vì hoa mà thác (vong). Chữ "vương" đắc thế hơn chữ "mang". Trên kia chép theo bản Thi Vũ ở Pháp gởi tặng.
|