Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong, thời kỳ: Bắc Tống
別三子
|
Biệt tam tử
|
Xa ba con (Người dịch: Nguyễn Khắc Phi)
|
夫婦死同穴,
父子貧賤離。
天下寧有此,
昔聞今見之。
母前三子後,
熟視不得追。
嗟乎胡不仁,
使我至於斯。
有女初束髮,
已知生離悲。
枕我不肯起,
畏我從此辭。
大兒學語言,
拜揖未勝衣。
喚耶我欲去,
此語那可思。
小兒襁褓間,
抱負有母慈。
汝哭猶在耳,
我懷人得知。
|
,
Phụ tử bần tiện ly.
Thiên hạ ninh hữu thử,
Tích văn kim kiến chi.
Mẫu tiền tam tử hậu,
Thục thị bất đắc truy.
Ta hồ hồ bất nhân,
Sử ngã chí ư tư.
Hữu nữ sơ thúc phát,
Dĩ tri sinh ly bi.
Chẩm ngã bất khẳng khởi,
Uý ngã tòng thử từ.
Đại nhi học ngữ ngôn,
Bái ấp .
Hoán gia: "Ngã dục khứ",
Thử ngữ na khả tư.
Tiểu nhi cưỡng bảo gián,
Bão phụ hữu mẫu từ.
Nhữ khốc do tại nhĩ,
Ngã hoài nhân đắc tri.
|
Vợ chồng, chết chung huyệt
Cha con, nghèo chia ly
Há có chuyện lạ kỳ?
Xưa nghe, nay mới biết
Đứng lặng nhìn ngấu nghiến
Mẹ trước ba con sau
Trời kia bất nhân quá!
Ta đến nỗi này sao?
Bó tóc, con gái thơ
Biết xa nhau là khổ
Gục đầu mãi vào lòng
Sợ ta từ đây bỏ
Thằng lớn mới bị bỏ
Chưa biết chắp tay vái
Cứ gào: "Con đi cơ!"
Lời nói ấy... ai ngờ!
Thằng út cuốn bọc tã
Mẹ hiền ủ trong tay
Tiếng khóc vẳng bên tai
Ta nhớ hoài... ai rõ?
|
dịch nghĩa
Vợ chồng khi chết chung mộ
Nghèo hèn cha con phải xa nhau
Trong thiên hạ sao lại có việc như thế
Trước từng nghe, nay mới thấy
Mẹ trước, ba con sau
Không theo đi được chỉ biết nhìn chăm chăm
Than ôi! Trời sao lại bất nhân
Để ta đến nông nỗi này
...
&&&&&&&&&&&&&&&&&&
Cửu nhật ký Tần Cấu
Thể thơ: Thất ngôn bát cú, thời kỳ: Bắc Tống
九日寄秦覯
|
Cửu nhật ký Tần Cấu
|
Ngày mùng chín, gửi Tần Cấu (Người dịch: Lê Xuân Khải)
|
疾風回雨水明霞,
沙步叢祠欲暮鴉。
九日清樽欺白髮,
十年為客負黃花。
登高懷遠心如在,
向老逢辰意有加。
淮海少年天下士,
可能無地落烏紗。
|
hồi vũ thuỷ minh hà,
dục mộ nha.
Cửu nhật khi bạch phát,
Thập niên vi khách phụ hoàng hoa.
Đăng cao hoài viễn tâm như tại,
Hướng lão phùng thì ý hữu gia.
,
vô địa lạc ô sa.
|
Nước in ráng hắt gió dồn mưa
Sa Bộ cây cao quạ lúc tà
Tóc bạc rượu ngon trùng cửu ế
Cúc vàng đất khách chục mùa xa
Lên cao quê cũ lòng thêm nhớ
Tuổi tác ngày vui hứng này ra
Thiên hạ nhiều trai Hoài Hải nhỉ?
Sao không có đất rớt ô sa
|
dịch nghĩa:
Gió mạnh quét mưa, nước in mầu ráng chiều
Quạ về trên cây ở đền Sa Bộ lúc trời sắp tối
Ngày trùng cửu, rượu ngon xem thường mái đầu bạc
Mười năm ở đất khách phụ hoa cúc
Lên cao lòng luôn nhớ, về nơi xa
Tuổi già gặp ngày tiết lễ lòng càng hăng hái
Tuổi trẻ Hoài Hải nhiều kẻ sĩ trong thiên hạ
Sao lại không có đất để rơi mũ ô sa
Bài này tuyển từ “Hậu Sơn thi chú” quyển 2 bản Tứ bộ tùng sơn. Tần Cấu, em của Tần Quán, tên chữ là Thiếu Chương. Năm Nguyên Hiệu thứ hai, Triết Tôn Trần Sư Đạo được nhóm Tô Thức, Phó Nghiêu Du tiến cử làm giáo thụ Từ Châu, là quê của tác giả, trên đường đi gặp ngày trùng dương, trong lòng tác giả tràn đầy hứng thú, sắp kết thúc cuộc sống lưu ly 10 năm nhưng lại nhớ đến bạn thân là Tần Cấu vẫn chao đảo ở đợ ở kinh sư, trong lòng sao khỏi bùi ngùi. Bèn làm thơ gửi, và khuyến khích bạn gắng công. Trong thơ tác giả đã khéo léo dùng: uống rượu, ngâm thơ, lên cao, ngắm hoa đều là những hoạt động trong ngày tết trùng dương, thực hư xen lẫn, ý sâu, sinh động truyền đạt tâm cảnh của mình lúc bấy giờ
*******************************
Xuân hoài thị lân lý
Thể thơ: Thất ngôn bát cú, thời kỳ: Bắc Tống
春懷示鄰里
|
Xuân hoài thị lân lý
|
Nhớ xuân gửi thơ cho hàng xóm (Người dịch: Nguyễn Khắc Phi)
|
斷牆著雨蝸成字,
老屋無僧燕作家。
剩欲出門追語笑,
卻嫌歸鬢著塵沙。
風翻蛛網開三面,
雷動蜂窠趁兩衙。
屢失南鄰春事約,
只今容有未開花。
|
Đoạn tường trước vũ oa thành tự,
Lão ốc vô tăng yến tác gia.
Thặng dục xuất môn truy ngữ tiếu,
Khước hiềm quy mấn trước trần sa.
Phong phiên chu võng khai tam diện,
Lôi động phong khoà sấn lưỡng nha.
Lũ thất nam lân xuân sự ước,
Chỉ kim dung hữu vị khai hoa.
|
Tường nát ngấm mưa, sên vẽ chữ
Lều tàn vắng sãi, én xây nhà
Muốn ra khỏi ngõ tìm sinh thú
Về ngại râu mày bám bụi sa
Gió lộng nhện còn nơi nhả mạng
Sấm rền ong chụm lại gìn vua
Đương xuân hàng xóm mời, ta khất
Nay muốn sang, còn đâu nữa hoa
|
nguồn: thivien