Thơ song ngữ
Chiêu hồn Thập loại chúng sinh
#1 |
(Appel aux âmes errantes)
Câu 001-020 : Tiết tháng bảy ...
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô.
Não người thay bấy chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Ðường bạch dương bóng chiều man mác,
Dặm đường lê lác đác sương sa.
Lòng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Còn khôn thiêng phảng phất u minh.
Thương thay Thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người.
Hương lửa đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen.
Còn chi ai khá ai hèn,
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi.
Muôn nhờ Ðức Phật từ bi,
Giải oan cứu khổ độ về Tây phương.
Traduction française (vers 001-068) :
Mille ans de littérature vietnamienne, Une anthologie, Edition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc, Editions Philippe Picquier, 1996, France
En cette septième lune, la pluie sans fin, sanglote
Des haleines glaciales pénètrent les ossements désséchés.
O tristesse désolante d'un soir d'automne !
Les roseaux à perte de vue blanchissent,
Une à une tombent les feuilles jaunies des platanes.
Parmi les peupliers s'attarde le jour agonisant,
Et sur les poiriers, la rosée sème ses larmes.
Quel coeur humain ne se sent pas en peine ?
Triste est ce monde de lumière,
Combien plus triste le royaume des ombres !
Dans la nuit éternelle, au sein des ténèbres profonds,
Manisfestez-vous, mânes, par les lueurs tremblotantes.
Pitié pour les dix mille créatures !
Leurs âmes à la dérive, flottent en des terres étrangères.
Pour elles, aucun encens ne brûle,
Esseullées, elles errent nuit après nuit.
Où sont maintenant les nobles et les plébéiens ?
Peut-on encore parler de sagesse et de sottise !
En ce début d'automne, sur l'autel de la Rémission.
La branche de saule est aspergée d'eau lustrale,
Puisse Bouddha miséricordieux leur accorder l'absolution
Les délivrer de la souffrance, les conduire vers l'Ouest promis.
Câu 021-032 : Kẻ tính đường kiểu hãnh
Nào những kẻ tính đường kiểu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông.
Nói chi đang thuở anh hùng,
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau !
Bỗng phút đâu tro bay ngói giở,
Khôn đem mình làm đứa thất phu.
Cả giàu sang nặng oán thù,
Máu tươi lai láng xương khô rã rời.
Ðoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Kẻ không đầu van khóc đêm mưa.
Cho hay thành bại là cơ,
Mà oan hồn biết bao giờ cho tan.
Traduction française (vers 001-068) :
Mille ans de littérature vietnamienne, Une anthologie, Edition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc, Editions Philippe Picquier, 1996, France
Chemin de la gloire
Il y en a qui ambitionne le chemin de la gloire
Ils rêvaient de conquérir fleuves et monts
Pourquoi évoquer les ardentes joutes du pouvoir ?
Le coeur se serre à penser aux affres de l'infortune.
En un instant, la foudre écrasa leur palais.
Contre le sort d'un pauvre, ils n'auraient pu troquer le leur.
Richesse et grandeur appellent haine et vengeance.
Le sang à flot a coulé, les os se résolvent en poussière.
La bandes des délaissés rôde en grelotant
Fantơmes décapités, ils gémissent au long des nuits hantées de pluie
Âmes errantes, connaîtriez-vous jamais la délivrance ?
Câu 033-044 : Kẻ màn lan trướng huệ
Nào những kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga.
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là làm sao !
Lên lầu cao, xuống dòng nước chảy,
Phận đã đành trâm gãy bình rơi.
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương !
Thảm thiết nhé không hương không khói,
Hồn ngẩn ngơ bãi cói ngàn sim.
Thương thay chân yếu tay mềm,
Càng năm càng héo càng đêm càng dàu.
Traduction française (vers 001-068) :
Mille ans de littérature vietnamienne, Une anthologie, Edition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc, Editions Philippe Picquier, 1996, France
Dans les palais aux canneliers
Où sont celles qui pavanaient dans les palais aux canneliers
Derrière les tentures peuplées de phénix et de tubéreuses ?
L'orage a fondu, les trônes changent de mains,
Feuilles aux vents, elles ne savent pas où échouer.
Du haut des palais, elles ont chu dans les flots.
Se brisent la broche et le vase, fragile est leur destin
Où sont la ronde des galants et les rires d'antan ?
Leurs paupières sont closes, nul ne vient ramasser leurs ossements
Hélas ! Aucun encens ne brûle en leur mémoire.
Elles errent le long des ruisseaux, parmi les buissons
Pitié pour leurs frêles mains, leur corps délicat,
Elles se flétrissent avec les années, se fanent avec les nuits
Câu 045-056 : Kẻ mũ cao áo rộng
Nào những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống trong tay.
Kinh luân chất một túi đầy,
Ðã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma xắm nắm chung quanh.
Nghìn vàng khôn chuộc được mình,
Lầu ca viện xướng tan tành còn đâu !
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước,
Biết lấy ai bát nước nén nhang.
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh.
Traduction française (vers 001-068) :
Mille ans de littérature vietnamienne, Une anthologie, Edition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc, Editions Philippe Picquier, 1996, France
Les dignitaires
Voici les dignitaires de brocarts habillés,
D'un pinceau écarlate, ils paraphaient les sentences de mort.
Dignes émules de Quan, Cat, Y et Chu,
Ils possédaient le savoir et l'art de gouverner.
Gloire et pouvoir se paient par haine et vengeance,
Une horde de fantômes assiège leur tombe éparse.
Mille taëls d'or n'auraient pu les racheter.
Leus somptueux pavillons ont volé en éclats
Sur leur passage, pas l'ombre d'un être cher
Pour leur offrir un bol d'eau ou un brin d'encens.
Âmes solitaires qui trébuchez sur les chemins déserts,
Lourd est votre karma et lointaine la voie du salut.
Câu 057-068 : Kẻ bài binh bố trận
Nào những kẻ bài binh bố trận,
Ðem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa thét rống đùng đùng,
Dãi thây trăm họ làm công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu trôi.
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao !
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét,
Khí âm ngưng mờ mịt trước sau.
Năm năm xương trắng dãi dầu,
Nào đâu điếu tế nào đâu chung thường.
Traduction française (vers 001-068) :
Mille ans de littérature vietnamienne, Une anthologie, Edition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc, Editions Philippe Picquier, 1996, France
Les guerriers
Voici les guerriers qui dressaient les plans des batailles.
Ils fonçaient dans le feu, cherchant à ravir le seau du commandement.
L'orage grondait, la foudre tonnait,
Cent familles jonchaient de cadavres le chemin de gloire d'un seul homme.
Mais bientôt, par une balle erratique fauchés,
Ils sont tombés, amas de chair et de sang,
Sur des rivages inconnus, à jamais perdus.
Leur os vermoulus, dans aucune sépulture, ne dorment,
La pluie, aux hurlements du vent, mêlent ses gémissements,
Le ciel et la terre baignent dans les vapeurs de l'au-delà.
Prairies et forêts sont voilées de tristesse ;
Automne et hiver, personne n'évoque leur mémoire.
Câu 069-080 : Kẻ tính đường trí phú
Nào những kẻ tính đường trí phú,
Một mình làm nhịn ngủ quên ăn.
Ruột rà không kẻ chí thân,
Dẫu làm nên để dành phần cho ai.
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù vân dù có như không.
Sống thì tiền chảy bạc dòng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm,
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm.
Ngẩn ngơ nội rộc đồng chiêm,
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu ?
Les personnes fortunées
Il y en a qui cherchent à s'enrichir
Comptant sur eux-mêmes ils travaillaient sans relâche oubliant de manger et de dormir.
N'ayant personne comme proche,
A qui donc sert leur fortune ?
A l'instant de leur mort, qui viennent leur mumurer des mots ultimes ?
Des richesses éphémères sont comme si elles n'existaient pas.
De leur vivant, l'argent coule à flots,
A leur mort, pas une pièce, ils ne pouvaient emporter.
Ces pleureurs loués n'ont pas de vrais sentiments,
Cercueil de bois ordinaire, quelques bougies pour la forme, leur enterrement expédié.
Egarés au milieu des champs inconnus,
Où trouvent-ils un bâton d'encens ou une goutte d'eau dédiés à leur mémoire ?
Câu 081-092 : Kẻ rắp cầu chữ quý
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý,
Dẫn mình vào thành thị lân la.
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng.
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc,
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang.
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng !
Câu 093-116 : Cũng có kẻ ...
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm thưa chạy xế gió đông.
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai.
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao ?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan.
Nước khe cơm vắt gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương !
Cũng có kẻ lỡ làng một tiết,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa.
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Ai chồng con tá biết là cậy ai ?
Sống đã chịu một đời phiền não,
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu ?
Câu 117-136 : Kìa những kẻ ...
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi.
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc,
Gửi thân vào chiếu lác một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi ?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây.
Có người leo giếng thắt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái,
Người thì sa nanh khái ngà voi.
Có người có đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Câu 137-152 : Gặp phải lúc ...
Gặp phải lúc lạc đường lỡ bước,
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau.
Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây.
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ Phật tự,
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông.
Hoặc là mông quạnh đồng không,
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau re.
Sống đã chịu một bề thảm thiết,
Ruột héo khô da rét căm căm.
Dãi dầu trong mấy muôn năm,
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương.
Câu 153-184 : Nhờ đức Phật ...
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra.
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u.
Khắp trong tứ hải quần chu,
Não phiền trút sạch oán thù rửa trong.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương.
Nhơn nhơn Tiêu Diễn đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dõng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao.
Mười loài là những loài nào ?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng : "Vạn cảnh giai không".
Ai ơi lấy Phật làm lòng ,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có khi bát cháo nén nhang.
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đó dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiên biến ít ra nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có chăng chăng.
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng
login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin
ghi danh.