Biên khảo
Thiền Sư Việt Nam - phần 1
THIỀN SƯ VIỆT NAM
HT Thích Thanh Từ
Phần 1
Khương Tăng Hội
Thích Đạo Thiền
Thích Huệ Thắng
Đồ biểu phái Thiền Tông ở Trung Hoa truyền sang Việt Nam
Đồ biểu phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi
Đồ biểu phái thiền Vô Ngôn Thông
Đồ biểu phái thiền Thảo Đường
Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi (? - 594)
Thiền sư Pháp Hiền (? - 626)
Thiền sư Thanh Biện (? - 686)
Thiền sư Định Không (730 - 808)
Thiền sư Vô Ngôn Thông (? - 826)
Thiền sư Cảm Thành (? - 860)
Thiền sư Thiện Hội (? - 900)
Trưởng lão La Quí (852 - 936)
Thiền sư Pháp Thuận (914 - 990)
Thiền sư Vân Phong (? - 956)
Đại sư Khuông Việt (933 - 1011)
Thiền sư Ma-ha
Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979)
Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087)
Thiền sư Định Huệ
Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018)
Thiền sư Đa Bảo (thời Lý Thái Tổ)
Định Hương trưởng lão (? - 1051)
Thiền Lão thiền sư (thời Lý Thái Tông)
Thiền sư Thảo Đường (thời Lý Thánh Tông)
Thiền sư Viên Chiếu (999 - 1090)
Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết
Khương Tăng Hội
(K’ang-Sen-Houci)
Ngài Khương Tăng Hội (K’ang-Sen-Houci) người nước Khương Cư (Sogdiane), cha mẹ sang Giao Châu buôn bán. Ngài mồ côi cha mẹ từ lúc mười tuổi. Sau thời kỳ cư tang, Ngài xuất gia, chăm học kinh điển, trở thành một tăng sĩ nổi danh thời ấy. Ngài tánh tình chân thật hòa nhã rất thông minh. Ngài thông hiểu Tam tạng, Lục kinh còn nghiên cứu toán số, thiên văn, văn chương và chánh trị. Ngài sang Đông Ngô tuyên dương Phật pháp trong thời Ngô Tôn Quyền (229-252).
Ngài đến thành Kiến Nghiệp (Nam Kinh) nhằm năm thứ mười niên hiệu Xích Ô nhà Ngô (247) cất một túp lều ở đó tu trì và mở trường giảng dạy. Ngô Tôn Quyền thấy Ngài thi thố nhiều phép lạ lấy làm tín phục, xây dựng ngôi chùa Kiến Sơ thỉnh Ngài ở. Từ đây Phật giáo thạnh hành miền Giang Tả.
Ngài phiên dịch nhiều kinh chữ Phạn ra chữ Hán và viết tựa trong kinh An Ban Thủ Ý, biên tập chú sớ các kinh khác, Ngài tịch khoảng niên hiệu Thiên Kỷ thứ tư nhà Ngô (280).
Thích Đạo Thiền
Thích Đạo Thiền(1) người Giao Chỉ, sớm xuất gia lập hạnh tinh nghiêm, giới luật trong sạch, chẳng kém các bậc cao đức. Dân chúng tăng tục đều kính quí đức khắc kỷ và sự dốc chí tu hành của Sư. Chùa núi Tiên Châu xưa bị nhiều cọp quấy nhiễu, Sư đến ở đó nạn ấy liền hết. Nghe Cánh Lăng Vương nhà Tề rộng mở Thiền luật, lập nhiều chỗ giảng dạy, người xa gần rong ruổi kéo đến Kim Lăng. Họ là những người tài đức bốn phương trong đạo. Sư giảng dạy kinh điển rất thông, ban đêm ít ngủ tham khảo kinh sách cố tìm chân lý. Đến năm Vĩnh Minh thứ nhất (483), Sư dạo đến kinh đô ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn. Sư vâng lệnh Vua điều khiển Tăng chúng, nổi tiếng vì rộng dùng luật Thập Tụng...
Sư thích diệt giác và quán, luôn ẩn núi xa, nếu cảnh ồn náo liền tìm cách lui bước. Sư thích ăn những thức ăn hoang dã, mặc đồ rách rưới, miệng không bao giờ nói chuyện phù phiếm; nếu có ai cho thức ngon đồ đẹp đều đem cấp phát cho người nghèo ốm. Sư sống một đời thiểu dục tri túc, ít ai sánh kịp. Về già, Sư đến ở nhà của chùa, chôn dấu mình ở núi rừng không giao thiệp với kẻ cao sang, sống trong cảnh khổ hạnh. Người ta cho thế là buồn, song Sư vẫn thấy là an vui của mình. Niên hiệu Đại Thông thứ nhất (527) Sư mất ở chùa núi, thọ bảy mươi tuổi.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Theo Cao Tăng Truyện viết.
Thích Huệ Thắng
Thích Huệ Thắng(1) là người Giao Chỉ, ở chùa núi Tiên Châu, lánh ngụ rừng đầm, thong dong ngoại vật, tụng kinh Pháp Hoa, ngày đến một biến, mỗi năm càng sâu. Sư ăn mặc đơn sơ, tùy thân vui dùng, theo Thiền sư nước ngoài là Đạt-ma-đề-bà (Dharmadeva) học pháp quán hạnh. Mỗi lần Sư nhập định đến ngày mai mới xuất định.
Lưu Tích ở Bành Thành khi làm Thái thú ở Nam Hải, nghe đạo phong của Sư, lúc về nước thỉnh Sư cùng đi. Khi về tới Bành Thành, Sư cư trú tại chùa U Thê. Sư giữ kín chỗ kỳ đặc, thường tỏ ra ngu ngốc. Nhưng người ở lâu với Sư rất kính trọng, những học giả về Thiền rất khâm phục. Ở chùa U Thê, Sư không đòi phần ăn, chỉ sống bằng khất thực, hoàn toàn tuân theo sự thanh liêm.
Năm Vĩnh Minh thứ năm (487), Sư dời về Tinh xá Diên Hiền tại núi Khế Chung. Từ trẻ đến già, Sư giữ gìn một tâm trinh chánh.
Sư mất khoảng niên hiệu Thiên Giám (502-519), tuổi vừa bảy mươi.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Theo Cao Tăng Truyện viết.
Đồ biểu phái Thiền Tông ở Trung Hoa truyền sang Việt Nam
Đồ biểu phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi
Đồ biểu phái thiền Vô Ngôn Thông
Đồ biểu phái thiền Thảo Đường
Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi
(Vinitaruci)
(? - 594)
(Tổ khai sáng dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam)
Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam.
Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy, Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được Tổ. Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính mộ, đến trước vòng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa:
- Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì lòng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài.
Tổ bảo:
- Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu.
Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ trì tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán(1).
Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân(2). Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì(3).
Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo:
- Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế, nhiều đời Tổ sư cũng do như thế mà được, ta cũng do như thế được, ngươi cũng do như thế được, cho đến hữu tình vô tình cũng do như thế được. Tổ Tăng Xán khi ấn chứng tâm này cho ta, bảo ta mau về phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Đã trải qua nhiều nơi, nay đến đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến.
Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, lượm xá-lợi năm sắc, xây tháp cúng dường. Năm ấy nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn nhà Tùy (594).
Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư:
Mở lối nước Nam đến
Nghe Ngài giỏi tập thiền.
Hiện bày các Phật tánh
Xa hiệp một nguồn tâm.
Trăng Lăng-già sáng rỡ
Hoa Bát-nhã ngạt ngào.
Bao giờ được gặp mặt
Cùng nhau bàn đạo huyền.
(Sáng tự Nam lai quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tánh
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng-già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền.)
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Phật thuyết Tượng Đầu Tinh Xá Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng số 466.
(2) Chùa Pháp Vân cũng gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, hiện nay cách Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông. Chùa này thời Lý gọi là chùa Cổ Châu (làng Cổ Châu, huyện Siêu Loại); đời Trần gọi là chùa Thiền Định hay chùa Siêu Loại; đời Hậu Lê gọi là chùa Diên Ứng.
(3) Phật thuyết Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng số 275.
Thiền sư Pháp Hiền
(? - 626)
(Đời thứ 1, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Đỗ quê ở Chu Diên (Sơn Tây), thân hình to lớn cao đến bảy thước ba tấc (2m30). Khi mới xuất gia, Sư theo Đại sư Quán Duyên ở chùa Pháp Vân thọ giới. Đến lúc Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi sang Việt Nam vào chùa Pháp Vân gặp Sư, Tổ nhìn kỹ vào mặt hỏi:
- Ngươi họ gì?
Sư đáp:
- Hòa thượng họ gì?
- Ngươi không có họ sao?
- Họ thì chẳng không, Hòa thượng làm sao biết được?
- Biết để làm gì?
Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp xuống lạy. Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi ấn chứng, từ đây về sau Sư luôn luôn theo hầu Tổ.
Sau khi Tổ tịch, Sư vào núi Từ Sơn tu thiền định, thân như cây gỗ, vật ngã đều quên. Các loài cầm thú thường quấn quít chung quanh Sư. Người đời thấy thế càng thêm kính mộ, đệ tử tìm đến học đạo càng ngày càng đông. Nhân đó, Sư mới lập chùa nhận đồ đệ ở tu, số học chúng hằng ngày trên ba trăm vị. Thiền tông phương Nam từ đây được thạnh hành.
Thích sử Lưu Phương nghe danh của Sư, bèn dâng sớ về Trung Quốc tâu lên vua nhà Tùy:
“... Cõi này người khâm sùng Phật giáo, lại có những vị cao đức danh tăng...”
Vua Tùy sai sứ mang năm hòm xá-lợi Phật và tờ điệp, bảo Sư xây tháp cúng dường. Sư bèn xây tháp ở chùa Pháp Vân và các chùa danh tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái... cũng đều dựng tháp cúng dường.
Về sau, Sư trụ trì tại chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phước huyện Tiên Du.
Niên hiệu Võ Đức năm thứ chín đời Đường (626), Sư an tường thị tịch. Thiền sư Thanh Biện là người kế thừa dòng thiền của Sư.
Thiền sư Thanh Biện
(? - 686)
(Đời thứ 4, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Đỗ quê ở Cổ Giao, năm mười hai tuổi theo ngài Pháp Đăng ở chùa Phổ Quang tu học. Khi ngài Pháp Đăng sắp thị tịch, Sư hỏi:
- Sau khi Hòa thượng đi, con nương tựa vào đâu?
Pháp Đăng bảo:
- Con chỉ Sùng Nghiệp mà thôi.
Sư mờ mịt không hiểu.
Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim Cang lấy đó làm sự nghiệp.
Một hôm có Thiền khách đến viếng, thấy Sư trì kinh, bèn hỏi:
- Kinh này là mẹ chư Phật trong ba đời, thế nào là ý nghĩa mẹ Phật?
Sư thưa:
- Từ trước đến nay trì kinh mà chưa hiểu ý kinh.
Thiền khách hỏi:
- Ông trì kinh đến giờ đã được bao lâu?
- Đã tám năm.
- Trì kinh đã tám năm mà một ý kinh cũng không hiểu, dù trì mãi đến trăm năm nào có công dụng gì?
Sư liền đảnh lễ, thưa hỏi chỗ thâm sâu ấy. Thiền khách bảo đến Thiền sư Huệ Nghiêm ở chùa Sùng Nghiệp giải quyết cho. Sư chợt tỉnh, nói:
- Nay tôi mới biết lời của Hòa thượng Pháp Đăng, quả phù hợp như vậy.
Sư bèn khăn gói hỏi Thiền khách đường đến chùa Sùng Nghiệp. Đến nơi, Sư làm lễ ra mắt.
Thiền sư Huệ Nghiêm thấy liền hỏi:
- Ngươi vì việc gì đến?
Sư thưa:
- Con trong tâm có chỗ chưa ổn.
Huệ Nghiêm hỏi:
- Ngươi chưa ổn cái gì?
Sư liền đem việc trước thuật lại đầy đủ.
Huệ Nghiêm than rằng:
- Ngươi tự quên mất rồi, sao không nhớ trong kinh nói “Chư Phật trong ba đời và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, đều từ kinh này ra”, đâu không phải là nghĩa mẹ chư Phật ư?
Sư thưa:
- Phải. Thế là con tự quên.
Huệ Nghiêm hỏi:
- Kinh này là người nào nói?
- Đâu không phải Như Lai nói sao?
- Trong kinh nói “Nếu nói Như Lai có nói pháp tức là chê bai Phật, người ấy không thể hiểu nghĩa ta nói”, ngươi khéo suy nghĩ đó. Nếu nói kinh này không phải Phật nói là chê bai kinh, nếu nói là Phật nói tức chê bai Phật. Ngươi phải làm sao? Nói mau! Nói mau!
Sư toan mở miệng, Huệ Nghiêm cầm phất tử đánh ngay miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ. Liền sụp xuống lạy tạ. Sư ở lại đây một thời gian.
Sau, Sư đến trụ trì chùa Kiến Dương ở làng Hoa Lâm phủ Thiên Đức.
Hóa duyên đã mãn, Sư thị tịch năm Bính Tuất nhằm niên hiệu Thùy Cung thứ hai đời Đường (686).
Thiền sư Định Không
(730 - 808)
(Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Nguyễn quê ở làng Cổ Pháp, con nhà danh giá, lại thâm hiểu về thế số. Những hành động của Sư đều hợp pháp tắc, người trong làng quí kính gọi là Trưởng lão.
Lúc tuổi đã lớn, Sư đến pháp hội Long Tuyền Nam Dương nghe pháp, liền lãnh hội ý chỉ. Nhân đây Sư phát tâm xuất gia theo Phật.
Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-804), Sư lập ngôi chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Khi đào đất đắp nền chùa gặp được một quả hương đề và mười cái khánh. Sư sai đem xuống nước rửa, một cái khánh lăn đến tận đáy ao mới dừng. Sư giải rằng:
- Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ. Chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp. Thổ là chính chỗ chúng ta ở, tức chỉ đất này.
Nhân đây, Sư đổi tên làng là Cổ Pháp (trước tên Diên Uẩn), lại làm bài tụng:
Đất dâng pháp khí
Một món thuần đồng.
Ấy điềm Phật pháp hưng long
Đặt tên làng là Cổ Pháp.
(Địa trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng.
Trị Phật pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp.)
Sư lại nói:
Pháp khí hiện ra mười cái chung đồng
Họ Lý làm vua ba phẩm thành công.
(Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chung
Lý hưng vương tam phẩm thành công.)
Lại nói:
Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ
Danh hiệu làng Cổ Pháp.
Gà ở sau loan nguyệt
Chính là Tam Bảo thạnh.
(Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ
Cổ Pháp danh hương hiệu.
Kê cư loan nguyệt hậu
Chánh thị hưng Tam Bảo.)
Sau, Sư trụ trì tại chùa Thiền Chúng ở làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức (nay là làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh).
Sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện đến bảo:
- Ta muốn mở rộng làng xã, nhưng giữa chừng e gặp họa nạn, ắt có người khác đến phá hoại đất đai của chúng ta (quả nhiên, sau có Cao Biền đời Đường đến trấn ở đây). Sau khi ta tịch, ngươi khéo gìn giữ pháp của ta. Khi nào gặp người họ Đinh sẽ truyền thì nguyện của ta được mãn vậy.
Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, nhằm đời Đường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba (808) năm Bính Tý.
Thông Thiện xây tháp thờ Sư ở phía tây chùa Lục Tổ và ghi lời phó chúc rành rõ.
Thiền sư Vô Ngôn Thông
(? - 826)
(Tổ khai sáng dòng Thiền Vô Ngôn Thông ở Việt Nam)
Sư họ Trịnh quê ở Quảng Châu, xuất gia tại chùa Song Lâm xứ Vũ Châu. Tánh Sư điềm đạm ít nói mà thông minh, nên thời nhân gọi là Vô Ngôn Thông.
Sư lễ Phật, có một Thiền khách đến hỏi:
- Tọa chủ lễ đó là cái gì?
Sư đáp:
- Là Phật.
Thiền khách bèn chỉ tượng Phật hỏi:
- Cái này là Phật gì?
Sư không đáp được.
Đến tối, Sư y phục chỉnh tề đến lễ Thiền khách, thưa:
- Hôm nay Thầy hỏi, tôi chưa biết ý chỉ thế nào?
Thiền khách hỏi:
- Tọa chủ được mấy hạ?
Sư thưa:
- Mười hạ.
Thiền khách bảo:
- Đã từng xuất gia chưa?
Sư càng thêm mờ mịt.
Thiền khách khuyên Sư đồng đến tham vấn với Mã Tổ. Đi đến Giang Tây nghe tin Mã Tổ đã tịch, bèn đến yết kiến Bá Trượng Hoài Hải.
*
* *
Một hôm trong giờ tham vấn, có vị Tăng hỏi Bá Trượng:
- Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?
Bá Trượng đáp:
- Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu.
Nghe câu này, Sư hoát nhiên đại ngộ.
*
* *
Sau, Sư về Quảng Châu trụ trì tại chùa Hòa An. Có người hỏi:
- Thầy phải Thiền sư chăng?
Sư đáp:
- Bần đạo chẳng từng học thiền.
Sư lặng thinh giây lâu, gọi người kia.
Người kia đáp:
- Dạ!
Sư chỉ cây tòng lư (cây móc).
*
* *
Một hôm, Sư bảo Huệ Tịch đem giường lại. Huệ Tịch đem đến.
Sư bảo:
- Đem lại chỗ cũ.
Huệ Tịch vâng theo.
Sư hỏi:
- Cái giường ở bên này là vật gì?
- Không vật.
Sư gọi:
- Huệ Tịch!
Huệ Tịch đáp:
- Dạ!
Sư bảo:
- Đi!
*
* *
Năm Canh Tý niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười lăm đời Đường (820), Sư sang An Nam ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng, huyện Tiên Du Bắc Ninh. Ở đây trọn ngày, Sư ngồi xây mặt vào vách, suốt mấy năm mà không ai biết, chỉ Thiền sư Cảm Thành (trụ trì chùa này) biết Sư là vị Cao tăng đắc đạo trong nhà thiền. Cảm Thành hết lòng kính trọng tôn thờ Sư làm thầy.
Một hôm, Sư gọi Cảm Thành đến bảo:
- Ngày xưa Tổ sư là Nam Nhạc Hoài Nhượng khi sắp tịch có dặn mấy lời:
Tất cả các pháp đều từ tâm sanh
Tâm không chỗ sanh, pháp không chỗ trụ.
Nếu đạt tâm địa chỗ trụ không ngại
Chẳng gặp thượng căn dè dặt chớ dạy.
(Nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh pháp vô sở trụ.
Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại
Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.)
Nói xong, Sư chấp tay thị tịch, nhằm năm Bảo Lịch thứ hai đời Đường (826). Cảm Thành rước Sư lên hỏa đàn, thu hài cốt xây tháp thờ ở núi Tiên Du.
Thiền sư Cảm Thành
(? - 860)
(Đời thứ 1, dòng Vô Ngôn Thông)
Sư quê ở Tiên Du, không rõ họ gì, chỉ biết mới xuất gia đạo hiệu là Lập Đức, ở tại quận nhà chuyên lấy việc trì tụng làm sự nghiệp. Có Hương hào họ Nguyễn ở làng Phù Đổng mến đức hạnh cao cả của Sư, tình nguyện đem gia trạch cúng cho Sư làm ngôi chùa. Sư một mực từ chối. Ban đêm Sư mộng thấy thần nhân mách: “Nếu theo ý họ Nguyễn, thời gian chẳng lâu sẽ được điều lành lớn.” Nhân đó, Sư mới nhận lời, nay chính là ngôi chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng ấy vậy.
Quả như lời thần nhân mách, Sư về trụ trì chưa bao lâu, Thiền sư Vô Ngôn Thông đến. Biết Thiền sư chẳng phải là hạng thường, Sư hôm sớm hết lòng thờ kính, không hề biếng trễ. Vì thế Thiền sư Vô Ngôn Thông đổi hiệu Sư là Cảm Thành.
Một hôm, Thiền sư Vô Ngôn Thông gọi Sư vào dạy:
- Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên viên mãn Ngài vào Niết-bàn. Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhãn tạng, Thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngài trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp làm Sơ tổ. Đời đời truyền nhau đến Tổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sang Trung Hoa trải bao nguy hiểm, vì truyền pháp này. Cứ thế đến Lục tổ Tào Khê được nơi Ngũ Tổ, vẫn dòng phái Đạt-ma. Tổ Đạt-ma lúc mới đến, vì người chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát để rõ chỗ đắc pháp. Nay niềm tin đã thuần thục, thì y là đầu mối của sự tranh giành. Thế nên, Ngũ Tổ dặn: “Phải dừng ngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đến nay chỉ dùng tâm truyền tâm mà chẳng trao y bát.
Khi ấy, Tổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truyền này, bèn trao cho Mã Tổ Đạo Nhất, Mã Tổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở chỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đã lâu, nghe ở phương này (Việt Nam) có nhiều người hâm mộ Đại thừa, vì thế mà đến phương Nam để tìm thiện tri thức. Nay ta gặp ngươi đây, ấy bởi túc duyên đã sẵn. Nghe ta nói kệ:
Các nơi đồn đại
Dối tự huyên truyền
Rằng thủy tổ ta
Gốc từ Tây Thiên.
Truyền pháp Nhãn tạng
Gọi đó là Thiền
Một hoa năm cánh
Hạt giống liên miên.
Thầm hợp lời mật
Muôn ngàn có duyên
Đều gọi Tâm tông
Thanh tịnh bản nhiên.
Tây Thiên cõi này
Cõi này Tây Thiên
Xưa nay nhật nguyệt
Xưa nay sơn xuyên.
Chạm đến thành trệ
Phật Tổ thành oan
Sai đó hào ly
Mất đó trăm ngàn.
Ngươi khéo quán sát
Chớ lừa cháu con
Ngay như hỏi ta
Ta vốn không lời.
(Chư phương hạo hạo
Vọng tự huyên truyền
Vị ngô thủy tổ
Thân tự Tây Thiên.
Truyền pháp nhãn tạng
Mục vị chi thiền
Nhất hoa ngũ diệp
Chủng tử miên miên.
Tiềm phù mật ngữ
Thiên vạn hữu duyên
Hàm vị Tâm tông
Thanh tịnh bản nhiên.
Tây Thiên thử độ
Thử độ Tây Thiên
Cổ kim nhật nguyệt
Cổ kim sơn xuyên.
Xúc đồ thành trệ
Phật Tổ thành oan
Sai chi hào ly
Thất chi bách thiên.
Nhữ thiện quán sát
Mạc trám nhi tôn
Trực nhiêu vấn ngã
Ngã bổn vô ngôn.)
Nghe xong bài kệ, Sư liền lãnh ngộ.
*
* *
Có vị Tăng đến hỏi:
- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Khắp tất cả chỗ.
- Thế nào là Phật tâm?
- Chẳng từng che dấu.
- Học nhân chẳng hội.
- Đã lầm qua rồi.
*
* *
Về sau, Sư không bệnh mà tịch vào năm Canh Thìn, nhằm năm đầu niên hiệu Hàm Thông (860) nhà Đường.
Thiền sư Thiện Hội
(? - 900)
(Đời thứ 2, dòng Vô Ngôn Thông)
Sư quê ở Điển Lãnh, thuở nhỏ theo thầy Tiệm Nguyên ở chùa Đông Lâm bản hương xuất gia, hiệu là Tổ Phong. Lớn lên, Sư vân du khắp nơi để tìm thầy tham học. Khi đến chùa Kiến Sơ gặp Thiền sư Cảm Thành bèn xin ở lại đây. Phục vụ Thiền sư Cảm Thành hơn mười năm, mà Sư không biết mỏi mệt.
Một hôm, Sư vào thất hỏi:
- Trong kinh có nói: “Đức Thích-ca Như Lai đã từng tu hành trải vô số kiếp mới được thành Phật.” Nay Thầy dạy rằng: “Tâm tức là Phật”, con chưa hiểu lẽ đó, cúi xin Thầy một phen khai ngộ cho.
Thiền sư Cảm Thành bảo:
- Trong kinh là người nào nói?
Sư thưa:
- Đâu không phải là Phật nói ư?
- Nếu là Phật nói, tại sao trong kinh Văn-thù lại nói: “Ta trụ ở đời bốn mươi chín năm, chưa từng nói một chữ dạy người.” Cổ đức nói: “Người tìm nơi văn, chấp nơi chứng càng thêm trệ; khổ hạnh cầu Phật là mê, lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo; chấp tâm cầu Phật là ma.”
- Như thế, tâm ấy cái gì chẳng phải Phật, cái gì là Phật?
- Xưa có người đến hỏi Mã Tổ: “Tâm tức là Phật, tâm nào là Phật?” Mã Tổ bảo: “Ông nghi cái nào chẳng phải Phật chỉ ra xem?” Người kia không đáp được. Tổ dạy: “Đạt thì khắp tất cả cảnh, chẳng ngộ hằng trái xa.” Chỉ câu nói này, ngươi lại hội chăng?
Liền đó, Sư thưa:
- Nay con hội rồi.
- Ngươi hội thế nào?
- Khắp tất cả chỗ không đâu chẳng phải tâm Phật.
Nói xong Sư sụp xuống lạy.
Thiền sư Cảm Thành bảo:
- Thế là ngươi hiểu đúng rồi.
Nhân đó, Thiền sư Cảm Thành cho Sư hiệu là Thiện Hội.
Sau, Sư trụ trì ở chùa Định Thiền làng Siêu Loại để truyền bá Tâm tông. Năm thứ ba niên hiệu Quang Hóa đời Đường (900), Sư tịch tại bản tự.
Trưởng lão La Quí
(852 - 936)
(Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Đinh người An Chân, đi du phương từ thuở nhỏ, tham yết khắp các bậc thầy nổi danh trong nhà Thiền. Trải nhiều năm như thế, mà pháp duyên chưa hợp, Sư sắp thối chí. Sau gặp Thiền sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng nói một câu, tâm Sư liền khai ngộ. Từ đây, Sư ở lại hầu hạ thầy.
Thiền sư Thông Thiện sắp tịch gọi Sư đến bảo:
- Xưa thầy ta là Định Không từng dặn dò rằng: “Con khéo giữ gìn pháp của ta, gặp người họ Đinh sẽ truyền.” Ngươi gắng đảm đương lấy. Nay ta đi vậy.
Sư đã được pháp tùy phương diễn hóa, chọn đất cất chùa. Mỗi khi nói ra lời nào đều phù hợp sấm ngữ. Sư tổ chức đúc tượng Lục Tổ bằng vàng tại chùa Lục Tổ. Sau vì sợ trộm cướp nên đem chôn trước cửa chùa. Sư di chúc rằng:
Gặp vua sáng thì hiện
Thấy chúa tối nên ẩn.
(Trị minh vương tắc xuất
Ngộ ám chúa tắc tàng.)
Sư trụ trì chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức.
Sắp tịch, Sư bảo đệ tử là Thiền Ông rằng:
- Thuở trước Cao Biền xây thành bên sông Tô Lịch, vì biết vùng đất làng Cổ Pháp có khí tượng đế vương, nên cho đào đứt con sông Điềm và những hồ ao liên hệ v.v... đến mười chín chỗ để mà ếm đó. Nay ta đã sai Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại ta có trồng một cây Miên ở chùa Minh Châu để trấn chỗ bị đứt. Biết sau này ắt có vua hiền ra đời, để vun bồi chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, ngươi nên đắp lên một nền đất, xây lên ngọn tháp, lấy pháp để kín trong ấy, chớ cho người thấy.
Nói xong, Sư thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, nhằm niên hiệu Thanh Thái thứ ba nhà Hậu Đường (936).
Lúc trồng cây Miên, Sư có làm bài kệ:
Đại sơn đầu rồng dấy
Đuôi to ẩn Châu Minh
Thập bát tử định thành
Cây gạo hiện hình rồng
Thỏ gà trong tháng chuột
Quyết thấy mặt trời lên.
(Đại sơn long đầu khởi
Cầu vỹ ẩn Chu Minh
Thập bát tử định thành
Miên thọ hiện long hình
Thố kê thử ngoạt nội
Định kiến nhật xuất thanh.)
Thiền sư Pháp Thuận
(914 - 990)
(Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Đỗ, không rõ quê quán ở đâu, xuất gia từ thuở bé, thọ giới với Thiền sư Long Thọ Phù Trì. Sau khi đắc pháp, Sư nói lời nào cũng phù hợp sấm ngữ.
Nhà Tiền Lê mới dựng nghiệp, thường mời Sư vào triều luận bàn việc chánh trị và ngoại giao. Khi quốc thái dân an, Sư không nhận sự phong thưởng. Vì thế, vua Lê Đại Hành rất kính trọng, không dám gọi tên, chỉ gọi là Đỗ pháp sư. Nhà vua nhờ Sư trông coi việc soạn thảo văn kiện, thư từ ngoại giao.
Năm Thiên Phước thứ bảy (986), nhà Tống sai sứ là Lý Giác sang phong tước hiệu cho vua Đại Hành. Vua nhờ Sư cải trang làm lái đò để đón sứ. Trên sông, bất chợt Lý Giác thấy hai con ngỗng bơi, cảm hứng liền ngâm:
Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời.
(Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.)
Sư đang chèo, ứng khẩu ngâm tiếp:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
(TT. Mật Thể)
(Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.)
Lý Giác rất thán phục.
*
* *
Vua Đại Hành hỏi vận nước dài ngắn thế nào, Sư đáp bằng bài kệ:
Vận nước như dây quấn
Trời Nam sống thái bình
Rảnh rang trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh.
(Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh.)
Về sau, Sư trụ trì chùa Cổ Sơn làng Thừ, quận Ải.
Niên hiệu Hưng Thống thứ hai (990), Sư không bệnh mà tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi. Tác phẩm của Sư có:
* Bồ-tát Hiệu Sám Hối Văn
* Thơ tiếp Lý Giác
* Một bài kệ.
Thiền sư Vân Phong
(? - 956)
(Đời thứ 3, dòng Vô Ngôn Thông)
Sư họ Nguyễn, quê ở Từ Liêm quận Vĩnh Khương. Khi mẹ mang thai Sư, thường trai giới tụng kinh, lúc sanh ra có hào quang chiếu sáng cả nhà. Bởi cha mẹ nhận thấy sự linh dị ấy nên cho Sư đi xuất gia.
Đến lớn, Sư theo hầu Thiền sư Thiện Hội ở Siêu Loại. Sư thuộc hàng cao đệ, được thầy truyền dạy thiền yếu. Thiện Hội thường bảo Sư:
- Sống chết là việc lớn, cần phải thấu triệt.
Sư hỏi:
- Khi sống chết đến làm sao tránh được?
- Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh.
- Thế nào là chỗ không sống chết?
- Ngay trong sống chết nhận lấy mới được.
- Làm sao mà hiểu?
- Ngươi hãy đi, chiều sẽ đến.
Chiều Sư lại vào. Thiện Hội bảo:
- Đợi sáng mai, chúng sẽ chứng minh cho ngươi.
Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, liền sụp xuống lạy.
Thiện Hội hỏi:
- Ngươi thấy đạo lý gì?
Sư thưa:
- Con đã lãnh hội.
- Ngươi hội thế nào?
Sư bèn đưa nắm tay lên thưa:
- Chẳng tỉnh ngộ là cái gì?
Thiện Hội liền thôi.
*
* *
Sau, Sư trụ trì chùa Khai Quốc trong kinh đô Thăng Long. Đến năm thứ ba niên hiệu Hiển Đức đời Châu (956), Sư thị tịch.
Đại sư Khuông Việt
(933 - 1011)
(Đời thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông)
Sư tục danh Ngô Chân Lưu, quê làng Cát Lợi quận Thường Lạc, dòng dõi của Ngô Thuận Đế. Sư dáng mạo khôi ngô, ý chí lỗi lạc và tánh tình bình thản. Thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn lên trở về Phật. Sư thọ giáo với Thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu tột thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.
Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang khắp tùng lâm, vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo. Sư ứng đối rành rẽ, Vua rất mến phục, phong chức Tăng thống. Năm sau, niên hiệu Thái Bình thứ hai (971), Vua lại phong Khuông Việt đại sư.
Đến đời vua Lê Đại Hành, Sư càng được kính trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, Vua đều mời Sư vào hỏi.
Năm thứ bảy niên hiệu Thiên Phước (986), nhà Tống sai sứ là Lý Giác sang nước ta, vua Đại Hành sắc Sư ra đón tiếp sứ. Khi Lý Giác về có để lại một bài thơ:
May gặp minh quân giúp việc làm
Một mình hai lượt sứ miền Nam.
Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa nhàm.
Ngựa đạp mây bay qua suối đá
Xe vòng núi chạy tới dòng lam.
Ngoài trời lại có trời soi rạng
Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.
(TT. Mật Thể)
(Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu
Đông đô tái biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.)
Vua Đại Hành đưa bài thơ ấy cho Sư xem, và hỏi có ý gì không.
Sư tâu:
- Câu thứ bảy sứ Tống có ý tôn Bệ hạ ngang hàng với Vua của họ.
Vua Đại Hành nhờ Sư làm một bài tiễn sứ. Sư vâng lệnh làm bài từ theo điệu “Tống vương lang qui”:
Gió hòa phấp phới chiếc buồm hoa
Thần tiên trở lại nhà.
Đường muôn ngàn dặm trải phong ba
Cửa trời nhắm đường xa.
Một chén quan hà dạ thiết tha
Thương nhớ biết bao là.
Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà
Bầy tỏ với Vua ta.
(TT. Mật Thể)
(Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương.
Thiên lý vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên qui lộ trường.
Nhân tình thảm thiết đối ly thương
Phan luyến sứ tình lang.
Nguyện tương thâm ý vị nam cương.
Phân minh tấu ngã hoàng.)
Sau, Sư viện lẽ già yếu xin từ quan, về quê dựng một ngôi chùa hiệu Phật-đà trên núi Du Hí, làng Cát Lợi, quận Thường Lạc, rồi trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tụ họp về học vấn rất đông.
Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi:
- Thế nào là trước sau học đạo?
Sư đáp:
- Trước sau không vật tợ hư không,
Hội đắc chân như thể tự đồng.
(Thủy chung vô vật diệu hư không,
Hội đắc chân như thể tự đồng.)
- Làm sao gìn giữ?
- Không chỗ cho ngươi hạ thủ.
- Hòa thượng nói rõ rồi.
- Ngươi hội thế nào?
Đa Bảo hét một tiếng.
*
* *
Năm thứ hai niên hiệu Thuận Thiên triều Lý (1011) ngày rằm tháng hai, Sư gọi Đa Bảo lại nói kệ:
Trong cây sẵn có lửa,
Có lửa, lửa lại sanh.
Nếu bảo cây không lửa,
Cọ xát làm gì sanh.
(Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh.)
Dạy kệ xong, Sư ngồi kiết-già thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi.
Thiền sư Ma-ha
(Ma-ha Ma-da)
(Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư gốc người Chiêm Thành, sau đổi họ là Dương. Cha tên Bối Đà, tinh thông sách lá bối, làm quan dưới triều Lê là Bối trưởng (xưa gọi Đà phan). Lớn lên Sư có nhận thức thấu đáo, học thông cả hai thứ chữ Phạn và Hán.
Năm hai mươi bốn tuổi, Sư nối nghiệp cho cha kế thế trụ trì ngôi chùa cũ. Một hôm, đang lúc giảng kinh thấy Hộ pháp Thiện thần xuất hiện quở rằng: “Đâu cần cái học bên ngoài ấy làm gì? Ắt không thể thông lý.” Do đây hai mắt Sư bị mù. Sư hết lòng ăn năn hối lỗi, toan gieo mình xuống vực sâu mà chết. Bỗng gặp Đông Lâm Viễn ngăn rằng: “Dừng! Dừng!” Sư nghe lời này liền tỉnh ngộ.
Về sau, Sư đến chùa Cổ Sơn thọ giáo với Thiền sư Đỗ Pháp Thuận. Ở đây Sư chuyên việc sám hối và tụng Đại Bi tâm chú, ròng rã ba năm chưa từng có một phút giây biếng trễ. Cảm Bồ-tát Quan Âm lấy nước cành dương rưới trên đảnh và mặt mắt. Bỗng nhiên mắt Sư sáng lại tâm càng thanh tịnh.
Niên hiệu Thuận Thiên năm thứ năm (1014), Sư dời về ngọn núi Đại Vân ở Trường An ngày ngày chuyên cần tu tập được “Tổng trì tam-muội” và các pháp thuật, người đời không thể lường nổi.
Hoàng đế Lê Đại Hành ba lần triệu Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ chắp tay cúi đầu mà thôi. Đến lần thứ ba, Sư mới đáp: “Cuồng tăng ở chùa Quan Ái.” Vua nổi giận sai cầm Sư ở chùa Vạn Tuế trong Đại nội, cắt người canh gác. Sáng hôm sau thấy Sư ở ngoài phòng tăng, mà cửa vẫn kín như cũ. Vua rất kinh dị, bèn trả tự do cho Sư.
Sư dạo phương Nam châu Ái, đến trấn Sa Đảng. Nhân dân ở đây rất sùng mộ quỉ thần, lấy việc sát sanh làm chủ yếu. Sư khuyên họ ăn chay làm phước, họ đồng đáp: “Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám trái.” Sư bảo: “Các ngươi nếu bỏ ác làm lành, dù có quỉ thần xúc hại Lão tăng sẽ gánh chịu cho.” Dân làng thưa: “Gần đây có người mang bệnh hủi nặng, các thầy thuốc đều bó tay, nếu ông trị lành được bệnh này, chúng tôi sẽ nghe theo lời khuyên.” Sư bảo dẫn người bệnh ấy đến. Họ đến, Sư liền tụng chú, lấy nước phun vào người bệnh, chẳng bao lâu bệnh được lành. Dân làng tuy cảm phục, mà tập nhiễm của họ đã lâu, chưa có thể nhất thời cảm hóa được.
Trong đó, có Hương hào họ Ngô nhân ăn thịt uống rượu bèn đem nài ép Sư: “Hòa thượng có thể thưởng thức cái vui này với chúng tôi, chúng tôi sẽ tuân theo lời Ngài dạy.” Sư đáp: “Đã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ e đau bụng thôi.” Hương hào mừng rỡ thưa: “Có đau thì tôi xin thay cho.” Sư nhận lời, ăn uống được vài tuần rượu, chợt bụng sình to lên, hơi thở hào hển. Sư kêu to: “Ông Hương hào đâu chịu thay cho tôi!” Ông Hương hào và cả bọn mặt xám ngắt, không biết làm sao.
Sư tự chấp tay niệm lên: “Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng cứu con.” Giây lát, Sư mửa ra thịt thì biến thành thú chạy, cá thì hiện cá nhảy, rượu thì hóa thành nước đồng. Mọi người trông thấy đều kinh hãi. Sư bảo: “Thân các ngươi bệnh thì ta chữa được lành, ta đau bụng các ngươi không thay thế được. Vậy từ nay các ngươi có theo lời ta dạy hay không?”
Tất cả dân làng đều bái tạ xin vâng.
Năm Thiên Thành thứ hai (1029), quan Đô úy Nguyễn Quang Lợi mời Sư trụ trì chùa Khai Thiên, phủ Thái Bình. Ở đây được sáu năm, Sư lại rời châu Hoan. Từ đó về sau chẳng biết Sư trụ ở phương nào.
Thiền Ông Đạo Giả
(902 - 979)
(Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Lữ quê làng Cổ Pháp, tuổi nhỏ đã không thích việc đời. Sau theo Đinh trưởng lão xuất gia và đắc pháp.
Sư trụ trì ở chùa Song Lâm làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức. Niên hiệu Thái Bình thứ mười triều Đinh (979) nhằm năm Kỷ Mão, Sư viên tịch, thọ bảy mươi tám tuổi.
Thiền sư Sùng Phạm
(1004 - 1087)
(Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Mâu, dáng vẻ mạnh mẽ to lớn, hai trái tai thòng đến vai. Xuất gia xong, Sư đến tham vấn với ngài Vô Ngại ở Hương Thành. Sau khi được tâm ấn, Sư dạo khắp nước Thiên Trúc để cầu học hỏi sâu rộng. Mãn chín năm Sư trở về nước gồm thông giới định.
Về sau, Sư trụ trì chùa Pháp Vân làng Cổ Châu, Long Biên thuyết pháp giáo hóa, học giả các nơi qui hướng rất đông.
Hoàng đế Lê Đại Hành nhiều phen thỉnh Sư vào cung để thưa hỏi huyền chỉ. Vua lấy lễ đãi Sư rất trọng hậu.
Đến năm Quảng Hựu thứ ba triều Lý (1087) nhằm năm Đinh Mão, Sư viên tịch, thọ tám mươi bốn tuổi.
Vua Lý Nhân Tông có làm bài kệ truy tặng Sư:
Nước Nam ngài Sùng Phạm
Tâm không thi đậu về
Tai dài hiện tướng lạ
Pháp pháp thảy nhiệm mầu.
(Sùng Phạm cư Nam quốc
Tâm không cập đệ qui
Nhĩ trường hồi thụy chất
Pháp pháp tận ly vi.)
Thiền sư Định Huệ
(Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Khúc quê ở Cẩm Điền, Phong Châu. Lúc đầu, Sư cùng Thiền sư Vạn Hạnh thờ Thiền Ông Đạo Giả làm thầy, và được truyền tâm ấn. Sau Sư về trụ trì ở chùa Quang Hưng, làng An Trinh, phủ Thiên Đức.
Khi sắp tịch, Sư trao Pháp ấn lại cho đệ tử Lâm Huệ Sinh.
Thiền sư Vạn Hạnh
(? - 1018)
(Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông minh khác thường, thông suốt Tam học và nghiên cứu Bách luận, mà vẫn xem thường công danh phú quí.
Năm hai mươi mốt tuổi Sư xuất gia, cùng Thiền sư Định Huệ, thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh rỗi, Sư học hỏi quên cả mỏi mệt.
Sau khi Thiền Ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa này và chuyên tập pháp “Tổng trì tam-ma-địa” lấy đó làm sự nghiệp. Bấy giờ Sư có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính Sư.
Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất (980), tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lạng Sơn, vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi:
- Quân ta thắng bại thế nào?
Sư đáp:
- Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui.
Quả đúng như lời Sư đoán.
Có kẻ gian tên Đỗ Ngân âm mưu hại Sư. Biết trước sự việc, Sư đưa cho y một bài thơ:
Thổ mộc sanh nhau Cấn với Kim,
Vì sao ôm ấp lòng hận phiền?
Bấy giờ tôi biết lòng buồn dứt,
Thật đến sau này chẳng bận tâm.
(Thổ mộc tương sanh Cấn bạn Câm (kim)(1)
Vân hà mưu ngã uẩn linh khâm?
Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt
Chân chí vị lai bất hận tâm.)
Được thơ này gã Ngân hoảng sợ không tiến hành mưu hại nữa.
Lúc vua Lê Ngọa Triều ở ngôi quá tàn bạo, mọi người đều oán ghét. Khi ấy Lý Thái Tổ còn làm chức Thân vệ, chưa lên ngôi. Bấy giờ trong nước có những điềm lạ xuất hiện liên miên. Tùy theo chỗ thấy nghe, Sư đều bàn giải phù hợp với triệu chứng nhà Lê sắp mất, nhà Lý lên thay.
Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục Tổ mà vẫn biết trước, báo tin cho chú và bác vua Lý hay: “Thiên tử đã băng hà, Lý thân vệ đã khuất phục trong thành nội, túc trực trong vài ngày Thân vệ ắt được thiên hạ.” Và để chiêu an bá tánh, Sư ra yết thị rằng:
Tật Lê chìm biển Bắc
Cây Lý che trời Nam
Bốn phương binh đao dứt
Tám hướng thảy bình an.
(Tật Lê trầm bắc thủy
Lý tử thọ nam thiên
Tứ phương qua can tịnh
Bát biểu hạ bình an.)
*
* *
Niên hiệu Thuận Thiên thứ chín (1018) ngày rằm tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi chúng nói kệ:
Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ Xuân tươi, Thu đượm hồng,
Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi,
Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô.
Nhậm vận thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.)
Nói xong, Sư lại bảo chúng: “Các ngươi cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.” Ngừng giây lát, Sư tịch.
*
Vua Lý Thái Tổ và đệ tử làm lễ hỏa táng, nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường.
Về sau vua Lý Nhân Tông có làm bài truy tán Sư rằng:
Vạn Hạnh thông ba mé(2)
Thật hợp lời sấm xưa.
Quê nhà tên Cổ Pháp
Dựng gậy vững kinh vua.
(Vạn Hạnh dung tam tế,
Chơn phù cổ sấm cơ (ky).
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.)
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Chữ Thổ chữ Mộc hợp thành chữ Đỗ, chữ Cấn chữ Kim hợp thành chữ Ngân.
(2) Ba mé: quá khứ, hiện tại, vị lai.
Thiền sư Đa Bảo
(Đời thứ 5, dòng Vô Ngôn Thông)
Chẳng rõ Sư người ở đâu và họ gì. Chỉ biết, khi Khuông Việt đại sư mở trường giáo hóa ở chùa Khai Quốc, Sư đến tham học. Được Đại sư khen là bậc gặp cơ lãnh ngộ, xử sự rất đặc cách, riêng cho vào thất.
Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bình bát tiêu dao ngoại vật.
Lúc Lý Thái Tổ còn nhỏ, Sư trông thấy dung nghi dị thường, bèn bảo: “Đứa bé này cốt tướng phi thường, sau này ắt làm chủ nước Nam.” Thái Tổ nghe nói thất kinh thưa: “Nay Thánh thượng anh minh còn tại vị, chốn hải nội đều trị yên, cớ sao Thầy lại nói lời phải tội tru di này?” Sư bảo: “Mệnh trời đã định, người dù muốn tránh cũng chẳng được nào.”
Đến khi Thái Tổ lên ngôi, thường thỉnh Sư vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền và ân lễ Sư rất thâm hậu. Vua xuống chiếu trùng tu ngôi chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng là nơi Sư trụ trì.
Sau không rõ Sư tịch ở đâu và lúc nào.
Trưởng lão Định Hương
(? - 1051 )
(Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)
Sư họ Lữ, quê ở Chu Minh, xuất gia hồi thuở nhỏ, theo học với Thiền sư Đa Bảo. Sư theo hầu thầy ngót hai mươi bốn năm, thâm hiểu Thiền chỉ. Trong nhóm môn đồ của Đa Bảo, Sư là người xuất sắc nhất.
Một hôm Sư hỏi thầy:
- Làm sao thấy được Chân tâm?
Đa Bảo đáp:
- Là ngươi tự nhọc.
Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, thưa:
- Tất cả đều như vậy, đâu phải riêng con.
- Người hội chưa?
- Đệ tử hội rồi lại đồng chưa hội.
- Cần phải gìn giữ cái ấy.
Sư bịt tai, xây lưng đứng.
Đa Bảo liền nạt: Đi!
Sư sụp xuống lạy.
Đa Bảo dạy:
- Về sau ngươi lại giống một kẻ điếc để tiếp người.
Bấy giờ Đô tướng Thành hoàng sứ tên Nguyễn Tuân rất quí mến Sư, thỉnh Sư về trụ trì chùa Cảm Ứng, ở Tiêu Sơn, phủ Thiên Đức. Học chúng các nơi vân tập đông đảo, Sư có công lớn trong việc giáo hóa người.
Đến ngày mồng 3 tháng 3 năm Canh Dần nhằm niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ ba đời Lý Thái Tông (1051), Sư gọi đồ chúng lại từ biệt và để kệ:
Xưa nay không xứ sở
Xứ sở là chân tông.
Chân tông như thế huyễn
Huyễn có là không không.
(Bản lai vô xứ sở
Xứ sở thị chân tông
Chân tông như thị huyễn
Huyễn hữu tức không không.)
Dạy kệ xong, Sư im lặng mà hóa.
Thiền sư Thiền Lão
(Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)
Không rõ tên họ và sanh quán Sư ở đâu. Chỉ biết Sư đến tham học với Thiền sư Đa Bảo ở chùa Kiến Sơ, thầm được tâm yếu. Sau, Sư tìm đến Từ Sơn cắm gậy ở đó, trụ trì chùa Trùng Minh trên núi Thiên Phúc huyện Tiên Du.
Thiền phong của Sư lan khắp, học giả theo học có trên ngàn người, cảnh chùa này trở thành một tùng lâm sung thạnh.
Khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), vua Lý Thái Tông thường đến viếng chùa Sư. Vua hỏi Sư:
- Hòa thượng trụ núi này đã được bao lâu?
Sư đáp:
- Chỉ biết ngày tháng này
Ai rành xuân thu trước.
(Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu.)
Vua hỏi:
- Hằng ngày Hòa thượng làm gì?
Sư đáp:
- Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.
(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.)
Vua lại hỏi:
- Có ý chỉ gì?
Sư đáp:
- Lời nhiều sau vô ích.
Vua hoát nhiên lãnh hội.
*
* *
Sau khi về cung, Vua sai sứ đến chùa rước Sư vào triều làm cố vấn. Khi đến nơi, Sư đã viên tịch. Vua rất đỗi mến tiếc, ngự chế thi và ai vãn, sai Trung sứ đến cúng và tặng lễ, thu linh cốt xây tháp cúng dường. Tháp dựng tại cửa núi, Vua lại cho trùng tu lại ngôi chùa Sư ở và đặt người hôm sớm lo hương hỏa.
Thiền sư Thảo Đường
(Tổ khai sáng dòng thiền Thảo Đường ở Việt Nam)
Sư người Trung Hoa, là đệ tử của Thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu (Tuyết Đậu Trùng Hiển) nhằm đời pháp thứ ba phái Vân Môn. Không rõ lý do gì, Sư sang ở Chiêm Thành.
Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông đem binh sang đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Củ là vua nước ấy cùng một số tù binh. Về triều, Vua ban cho bá quan những tù binh để làm nô bộc. Sư cũng nằm trong số tù binh ấy, và chính Sư lại rơi vào làm nô bộc cho một vị Tăng lục.
Một hôm vị Tăng lục đi khỏi, Sư thấy bản Ngữ lục để trên bàn có mấy chỗ sai, bèn tự ý sửa chữa lại. Vị Tăng lục đi về, xem thấy thế ngạc nhiên, hỏi ra mới biết Sư sửa. Ông đem việc ấy tâu lên vua Lý Thánh Tông. Vua đòi Sư vào triều, đem kinh luận và thiền hỏi Sư. Sư ứng đối rất lanh lẹ và xác đáng. Vua rất kính phục, truy nguyên ra mới biết tông tích của Sư.
Từ đó, vua Thánh Tông thường thưa hỏi Phật pháp nơi Sư và phong Sư chức Quốc sư, mời ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Đồ chúng nghe tiếng tìm đến tham vấn rất đông. Do đây biến thành phái thiền thứ ba ở Việt Nam.
Đến năm mươi tuổi, Sư có chút bệnh ngồi kiết-già thị tịch.
Phái thiền của Sư truyền xuống được năm đời, song ít thấy ghi chép lịch sử đầy đủ.
Thiền sư Viên Chiếu
(999 - 1090)
(Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
Sư họ Mai tên Trực, quê ở Phước Đường, Long Đàm, là con người anh bà Linh Cảm thái hậu vợ vua Lý Thái Tông. Thuở nhỏ Sư rất thông minh và hiếu học, nghe ở chùa Mật Nghiêm trong bản quận có vị Trưởng lão giỏi về tướng số liền đến nhờ xem. Trưởng lão xem xong bảo:
- Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là vị thiện Bồ-tát, bằng không thì việc thọ yểu khó giữ.
Cảm ngộ lời đoán này, Sư từ giã cha mẹ đến ấp Tiêu Sơn thọ giáo với Trưởng lão Định Hương. Ở đây phục dịch nhiều năm để thâm nghiêm thiền học. Sư thường trì kinh Viên Giác tinh thông pháp tam quán. Một đêm, trong thiền định, Sư thấy Bồ-tát Văn-thù cầm dao mổ bụng Sư, rửa ruột và trao cho diệu dược. Từ đây, những sở tập trong tâm rõ ràng khế hợp, sâu được ngôn ngữ tam-muội, giảng kinh thuyết pháp thao thao.
Về sau, Sư tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tìm đến tham vấn rất đông.
Có vị Tăng hỏi:
- Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?
Sư đáp:
- Trùng dương cúc nở dưới rào,
Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.
(Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.)
Tăng thưa:
- Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?
Sư đáp:
- Ngày thì vầng nhật chiếu,
Đêm đến ánh trăng soi.
(Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh.)
Tăng hỏi:
- Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?
Sư đáp:
- Bưng thau nước đầy không chú ý,
Một lúc sẩy chân hối ích gì.
(Bất thận thủy bàn kình mãn khứ,
Nhất tao tha điệt hối hà chi.)
Tăng hỏi:
- Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?
Sư đáp:
- Rùa mù dùi vách đá,
Trạnh què trèo núi cao.
(Manh qui xuyên thạch bích,
Ba miết thướng cao sơn.)
- Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?
Sư đáp:
- Hoa núi mưa sa, thần nữ khóc,
Tre sân gió thổi, Bá Nha đờn.
(Vũ trích nham hoa thần nữ lệ,
Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.)
*
* *
Sư có soạn “Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn”, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ thần sang Trung Hoa dâng vua Triết Tông nhà Tống. Vua Triết Tông trao cho các vị Cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc xem. Xem xong, các ngài tâu vua Tống rằng:
- Đây là nhục thân Bồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.
Vua Tống liền sắc sao lại một bản, bản chánh trả lại cho Vua ta. Sứ thần về kinh tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng Sư.
*
* *
Tháng 9 năm Quảng Hựu thứ sáu (1090) đời Lý Nhân Tông, Sư không bệnh gọi môn đồ vào dạy:
- Trong thân ta đây, xương lóng gân mạch, bốn đại hòa hợp, ắt phải vô thường. Ví như ngôi nhà khi hoại, nóc mái, xà ngang đều rơi rớt. Tạm biệt các ngươi, hãy nghe ta nói kệ:
Thân như tường vách đã lung lay,
Đau đáu người đời luống xót thay.
Nếu đạt tâm không, không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện, mặc vần xoay.
(Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.)
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch, thọ chín mươi hai tuổi, năm mươi sáu tuổi hạ.
Tác phẩm gồm có:
- Tán Viên Giác Kinh.
- Thập Nhị Bồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
- Tham Đồ Hiển Quyết một quyển.
- Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết
Nhất nhật, đường tiền tọa thứ, hốt hữu Tăng vấn:
- Phật chi dữ Thánh, kỳ nghĩa vân hà?
Sư vân:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Tiến vân:
Tạ! Học nhân bất hội, thỉnh tái chỉ thị.
Sư vân:
Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh.
Tăng hựu vấn:
Dĩ hoạch sư chân chỉ
Huyền cơ thị như hà?
Sư vân:
Bất thận thủy bàn kình mãn khứ.
Nhất tao tha điệt hối hà chi!
Tiến vân:
Tạ!
Sư chỉ vân:
Mạc trạc giang ba nịch,
Thân lai khước tự trầm.
Tăng hựu vấn:
Thiếu thất, Ma-kiệt tối huyền, tự cổ vu kim thùy kế tương vi chủ?
Sư vân:
U minh càn tượng nhân ô thố,
Khuất khúc khôn duy vị Nhạc, Hoài.
Hựu vấn:
Như hà thị đại đạo,
Căn nguyên nhất lộ hành?
Sư vân:
Cao ngạn tật phong tri kính thảo,
Bang gia bản đãng thức trung lương.
Hựu vấn:
Nhất thiết chúng sanh tòng hà nhi lai,
Bách niên chi hậu tòng hà nhi khứ?
Sư vân:
Manh qui xuyên thạch bích,
Bả miết thướng cao sơn.
Hựu vấn:
“Thanh thanh thúy trúc tận chân như.”
Như hà thị chân như dụng?
Sư vân:
Tặng quân thiên lý viễn,
Tiếu bả nhất âu trà.
Tiến vân:
Nhậm ma tức “không lai hà ích”?
Sư vân:
Thùy thức Đông A khứ,
Đồ trung tái bạch đầu.
Hựu vấn:
Dã hiên nhất thâm hộ,
Thùy thức đẳng nhàn xao?
Sư vân:
Kim cốc tiêu sơ hoa thảo loạn,
Nhi kim hôn hiểu nhậm ngưu dương.
Tiến vân:
Vi thập ma như thử?
Sư vân:
Phú quí kiêm kiêu thái,
Phiên linh bại thị lâu.
Hựu vấn:
Long nữ hiến châu thành Phật quả,
Đàn-na xả thí phúc như hà?
Sư vân:
Vạn cổ nguyệt trung quế,
Phù sơ tại nhất luân.
Tiến vân:
Nhậm ma tức lao nhi vô công?
Sư vân:
Thiên thượng như huyền kính,
Nhân gian xứ xứ thông.
Hựu vấn:
“Độ hà tu dụng phiệt,
Đáo ngạn bất tu thuyền.”
Bất độ thời như hà?
Sư vân:
Hạc trì ngư tại lục,
Hoạch hoạt vạn niên xuân.
Tiến vân:
Nhậm ma tức “tùy lưu thủy hoạch diệu lý”?
Sư vân:
Kiến thuyết Kinh Kha lữ,
Nhất hành cánh bất hồi.
Hựu vấn:
Kim khoáng hỗn giao nguyên nhất khí,
Thỉnh Sư phương tiện luyện tinh hình.
Sư vân:
Bất thị Tề quân khách,
Na tri hải đại ngư?
Tiến vân:
Quách quân nhược bất nạp
Gián ngữ diệc hề vi?
Sư vân:
Nhược dục tiên đề ẩm,
Hưu vi xảo họa xà.
Hựu vấn:
Xà tử ư lộ thỉnh Sư cứu hoạt.
Sư vân:
Nhữ thị hà phương nhân?
Tăng viết:
Bản lai sơn nhân.
Sư vân:
Tốc hồi cựu nham ẩn,
Mạc kiến Hứa Chân Quân.
Hựu vấn:
Hải tạng thao thao ưng bất vấn,
Tào Khê trích trích thị như hà?
Sư vân:
Phong tiền tùng hạ thê lương vận,
Vũ hậu đồ trung thiển trọc nê.
Tiến vân:
Nhậm ma tức bất dị kim thời dã?
Sư vân:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu noãn nhật oanh.
Hựu vấn:
Chiêu chiêu tâm mục chi gian,
Lãng lãng sắc thân chi nội.
Nhi lý bất khả phân, tướng bất khả đổ, vi thập ma bất đổ?
Sư vân:
Uyển trung hoa lạn mạn,
Ngạn thượng thảo ly phi.
Tiến vân:
Tuế hàn quần miêu lạc,
Hà dĩ khả tuyên dương.
Sư vân:
Hỉ quân lai tự đạt,
Bất diệc thả hoan ngu.
Tiến vân:
Hạnh văn kim nhật quyết
Tòng thử miễn hốt vô.
Sư vân:
Thiển nịch tài đề xuất,
Hồi đầu vạn trượng đàm.
Hựu vấn:
“Niết-bàn thành nội thượng do nguy.”
Như hà thị bất nguy chi xứ?
Sư vân:
Doanh sào liêm mạc thượng,
Mấn phát vi thiều hành.
Tiến vân:
Nhược tao thời bách cận,
Lưỡng xứ thị hà vi?
Sư vân:
Trượng phu tùy phóng đãng,
Phong nguyệt thả tiêu dao.
Hựu vấn:
“Nhất thiết chúng sanh
Giai ngôn thị Phật.”
Thử lý vị minh,
Thỉnh Sư thùy thị.
Sư vân:
Khuyến quân thả vụ nông tang khứ,
Mạc học tha nhân đãi thố lao.
Tiến vân:
Hạnh mông Sư hiển quyết,
Chung bất hướng tha cầu.
Sư vân:
Khả lân tao nhất yết,
Cơ tọa khước vong san.
Hựu vấn:
Kỷ niên đa tích nang trung bảo,
Kim nhật đương trường địch diện tiền.
Sư vân:
Chỉ đãi trung thu nguyệt,
Khước tao vân vũ xâm.
Tiến vân:
Tuy văn Sư ngữ thuyết,
Thử lý vị phân minh.
Sư vân:
Tiếu tha đồ bảo trụ,
Nịch tử hướng trung lưu.
Hựu vấn:
Như hà thị nhất pháp?
Sư vân:
Bất kiến xuân sanh kiêm hạ trưởng,
Hựu phùng thu thục cập đông tàng.
Tiến vân:
Nhậm ma tức thành Phật đa dã?
Sư vân:
Tổ Long khu tự chỉ,
Từ Phúc viễn đồ lao.
Hựu vấn:
“Kiến tánh thành Phật”, kỳ nghĩa như hà?
Sư vân:
Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát,
Phong xuy thiên lý phức thần hương.
Tiến vân:
Học nhân bất hội, nguyện Sư tái chỉ.
Sư vân:
Vạn niên gia tử thụ,
Thương thúy tủng vân đoan.
Hựu vấn:
Ma-ni dữ chúng sắc,
Bất hợp bất phân ly.
Sư vân:
Xuân hoa dữ hồ điệp,
Cơ luyến cơ tương vi.
Tiến vân:
Nhậm ma tức thùy tha hỗn tạp?
Sư vân:
Bất thị Hồ tăng nhãn,
Đồ lao sính biện châu.
Hựu vấn:
Như hà thị xúc mục bồ-đề?
Sư vân:
Kỷ kinh khúc mộc điểu,
Tần xuy lãnh tê nhân.
Tiến vân:
Học nhân bất hội, cánh thỉnh biệt dụ.
Sư vân:
Tủng nhân thính cầm hưởng,
Manh giả vọng thiềm thừ.
Hựu vấn:
Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh,
Hữu thời ảnh dã ly hình phủ?
Sư vân:
Chúng thủy triều Đông hề vạn phái tranh lưu,
Quần tinh củng Bắc hề thiên cổ qui tâm.
Hựu vấn:
Như hà thị “nhất cú liễu nhiên siêu bách ức”?
Sư vân:
Viễn hiệp Thái sơn siêu Bắc hải,
Ngưỡng phao trụ trượng nhập thiềm cung.
Hựu vấn:
“Duy thử nhất sự thật,
Dư nhị tắc phi chân.”
Như hà thị chân?
Sư vân:
Trượng đầu phong dị động,
Lộ thượng vũ thành nê.
Hựu vấn:
“Bất hướng Như Lai thi diệu tạng,
Bất cầu Tổ diệm tục đăng chi.”
Ý chỉ như hà?
Sư vân:
Thu thiên đoàn thử lệ,
Tuyết cảnh mẫu đơn khai.
Hựu vấn:
Như hà thị tối diệu chi cú?
Sư vân:
Nhất nhân hướng ngung lập,
Mãn tọa ẩm vô hoan?
Hựu vấn:
Cổ kim đại sự ưng vô vấn,
Đặc địa Tây lai ý nhược hà?
Sư vân:
Xảo ngôn lệnh sắc giả,
Toản qui đả ngõa nhân.
Hựu vấn:
“Tâm pháp song vong tính tức chân.”
Như hà thị “chân”?
Sư vân:
Vũ trích nham hoa thần nữ lệ,
Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.
Hựu vấn:
Như hà thị tối diệu chi cú?
Sư vân:
Hầu lý do tồn ngạnh,
Thường cư bất khoái nhiên.
Hựu vấn:
Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh,
Xuất đầu hà khả thoát trần lung.
Sư vân:
Sơn cao cánh đại dung trần trữ,
Hải khoát năng thâm nạp tế lưu.
Hựu vấn:
“Duy Phật dữ Phật nãi tri tư sự.”
Như hà thị “tư sự”?
Sư vân:
Giáp kính sâm sâm trúc,
Phong xuy khúc tự thành.
Hựu vấn:
Bất dụng bình thường, bất dụng thiên nhiên, bất dụng tác dụng nhi kim tác thập ma?
Sư vân:
Bồng thảo thê đê yến,
Thương minh ẩn cự lân.
Hựu vấn:
Tứ đại đới lai do khoáng kiếp,
Thỉnh Sư phương tiện xuất luân hồi.
Sư vân:
Cử thế súc đồ tê thị bảo,
Thực ư kinh cức ngọa ư nê.
Hựu vấn:
“Chủng chủng thủ xả, giai thị luân hồi.”
Bất thủ bất xả thời như hà?
Sư vân:
Tòng lai hồng hiện thù thường sắc,
Hữu diệp sâm si bất hữu hoa.
Hựu vấn:
“Ngôn ngữ đạo đoạn” kỳ ý như hà?
Sư vân:
Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo,
Sơn nham đới nguyệt quá tường lai.
Hựu vấn:
“Chư Phật thuyết pháp giai thị hóa vật.
Nhược ngộ bản ý, thị danh xuất thế.”
Như hà thị “bản ý”.
Sư vân:
Xuân chức hoa như cẩm,
Thu lai diệp tợ hoàng.
Hựu vấn:
Như hà thị “trực tiệt nhất lộ”?
Sư vân:
Đông tây xa mã tẩu,
Trần thổ hiểu hôn phi.
Hựu vấn:
Hữu pháp hữu tâm khai vọng thức,
Như hà tâm pháp đãng câu tiêu?
Sư vân:
Khả đoạt tùng sao trường uất uất,
Khởi ưu sương tuyết lạc phân phân.
Hựu vấn:
Tổ ý dữ giáo ý như hà?
Sư vân:
Hứng lai huề trượng du vân kính,
Khốn tức thùy liêm ngọa trúc sàng.
Hựu vấn:
Tổ tổ tương truyền, hợp truyền hà sự?
Sư vân:
Cơ lai tu tầm thực,
Hàn tức hướng cầu y.
Hựu vấn:
Thế nhân giai nhẫm ốc,
Lậu nhân hà sở tại?
Sư vân:
Kim ô kiêm ngọc thố,
Doanh trắc mạn lao phân.
Hựu vấn:
Như hà thị Tào Khê nhất lộ?
Sư vân:
Khả lân khắc chu khách,
Đáo xứ ý thông thông.
Dịch nghĩa:
BÀY RÕ BÍ QUYẾT CHO NGƯỜI THAM VẤN
Một hôm ngồi trước Tăng đường, có vị Tăng hỏi:
- Phật và Thánh khác nhau thế nào?
Sư đáp:
Trùng dương cúc nở dưới rào,
Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.
Tăng thưa:
Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra.
Sư đáp:
Ngày thì vầng nhật chiếu,
Đêm đến ánh trăng soi.
Tăng lại hỏi:
Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?
Sư đáp:
Bưng thau nước đầy không chú ý
Một lúc sẩy chân hối ích gì?
Tăng thưa:
Đa tạ!
Sư bảo:
Chớ rửa sông to sóng,
Chính mình đến chết chìm.
Tăng hỏi:
Thiếu Thất, Ma-kiệt rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kế thừa làm chủ?
Sư đáp:
Trời tối, sáng soi nhờ nhật nguyệt,
Đất hiểm, phân ranh có núi sông.
Tăng hỏi:
Thế nào là đại đạo,
Cội nguồn một lối đi?
Sư đáp:
Gió mạnh bờ cao biết cỏ cứng,
Nước nhà lận đận thấy tôi trung.
Hỏi:
Tất cả chúng sanh từ đâu tới,
Sau khi trăm tuổi sẽ về đâu?
Đáp:
Rùa mù dùi vách đá,
Trạnh què trèo núi cao.
Hỏi:
“Trúc biếc xanh xanh trọn là chân như”, thế nào là “dụng” của chân như?
Đáp:
Tặng anh đi ngàn dặm,
Cười trao một ấm trà.
Lại thưa:
Thế là uổng công đến mà vô ích?
Đáp:
Ai biết được người chủ (Đông A),
Trên đường lại bạc đầu.
Hỏi:
Dã Hiên một nhà kín,
Ai biết gõ dễ dàng.
Đáp:
Kim Cốc tiêu điều hoa cỏ loạn,
Mà nay sớm tối mặc ngựa dê.
Hỏi:
Tại sao như thế?
Đáp:
Giàu sang vẫn kiêu sa,
Khiến thành lầu chợ hoại.
Hỏi:
Long nữ dâng châu thành Phật quả,
Đàn-na bố thí phước thế nào?
Đáp:
Quế trong trăng muôn thuở,
Héo tươi tại một vầng.
Lại thưa:
Thế là nhọc mà không công?
Đáp:
Trên trời như treo gương,
Nhân gian nơi nơi tỏ.
Hỏi:
Qua sông cần dùng bè,
Đến bờ thuyền bỏ lại.
Khi không qua thì thế nào?
Đáp:
Hồ khô cá mắc cạn,
Sống được muôn năm xuân.
Lại thưa:
Thế là theo dòng mới được diệu lý?
Đáp:
Thấy nói bạn Kinh Kha,
Một đi không trở lại.
Hỏi:
Quặng, vàng lẫn lộn nguyên một loại,
Thỉnh Thầy phương tiện luyện cho tinh.
Đáp:
Chẳng phải khách nước Tề,
Đâu biết cá to biển.
Lại thưa:
Ông Quách chẳng chịu nhận,
Can gián cũng làm gì?
Đáp:
Nếu muốn trước uống rượu,
Khéo vẽ rắn làm gì?
Hỏi:
Rắn chết trên đường xin Thầy cứu sống?
Sư bảo:
Ông là người phương nào?
Tăng thưa:
Vốn là người ở núi.
Sư bảo:
Núi xưa về ẩn gấp,
Chớ thấy Hứa Chân Quân.
Hỏi:
Biển cả mênh mông trọn chẳng hỏi,
Tào Khê giọt giọt là thế nào?
Đáp:
Trước gió thông reo tiếng buồn bã,
Mưa tạnh trên đường ít bùn lầy.
Lại thưa:
Thế là chẳng khác thời nay?
Đáp:
Dưới giậu trùng dương cúc,
Đầu cành xuân ấm oanh.
Hỏi:
Rõ ràng trong khoảng tâm mắt,
Sáng chói ở trong sắc thân.
Mà lý không thể phân, tướng không thể thấy, tại sao không thấy?
Đáp:
Trong vườn hoa khoe sắc,
Trên bờ cỏ xanh rì.
Hỏi:
Năm lạnh các mầm thối,
Lấy gì để khoe xinh.
Đáp:
Mừng ông đã thấu suốt,
Cũng chẳng vui hay sao.
Tăng nói:
Hân hạnh nghe Thầy giải,
Từ đây khỏi chợt không.
Sư đáp:
Chìm cạn vừa ra khỏi,
Quay đầu muôn trượng đầm.
Hỏi:
“Trong thành Niết-bàn vẫn còn nguy”, thế nào là chỗ chẳng nguy?
Đáp:
Xây tổ trên rèm cháy,
Râu tóc cọng hoa lau.
Hỏi:
Nếu gặp khi bức bách,
Hai chỗ là làm gì?
Đáp:
Trượng phu tùy thong thả,
Gió trăng mặc tiêu dao.
Hỏi:
“Tất cả chúng sanh đều nói là Phật”, lý này chưa rõ xin Thầy chỉ dạy?
Đáp:
Khuyên ông hãy gắng việc nông tang,
Chớ học theo người đợi thỏ nhọc.
Tăng nói:
Được nhờ Thầy chỉ rõ,
Trọn chẳng đến ai cầu.
Sư nói:
Đáng thương người mắc nghẹn,
Ngồi đói lại quên ăn.
Tăng nói:
Nhiều năm cất giấu báu trong đãy,
Ngày nay trước mắt thấy rõ ràng.
Sư nói:
Chỉ đợi trăng thu sáng,
Đâu ngờ mây mưa che.
Tăng nói:
Tuy nghe Thầy thuyết giảng,
Lý nầy vẫn chưa rành.
Sư đáp:
Cười kẻ luống ôm cột,
Chết đuối nằm giữa dòng.
Hỏi:
Thế nào là một pháp?
Đáp:
Chẳng thấy xuân sanh cùng hạ trưởng,
Lại gặp thu chín và đông thâu.
Lại thưa:
Thế là nhiều người thành Phật?
Đáp:
Tổ Long chợt tự dừng,
Từ Phúc xa luống nhọc.
Hỏi:
“Kiến tánh thành Phật”, nghĩa này thế nào?
Đáp:
Cây khô gặp xuân hoa đua nở,
Gió thổi hương thần thơm rất xa.
Tăng nói:
Đệ tử chưa hiểu, xin Thầy chỉ lại.
Sư đáp:
Muôn năm cây cà ấy,
Xanh tươi thấu từng mây.
Hỏi:
Ma-ni cùng các sắc,
Chẳng hợp cũng chẳng lìa?
Đáp:
Hoa xuân cùng bươm bướm,
Lúc mến lúc chia lìa.
Hỏi:
Thế là theo kia hỗn tạp?
Đáp:
Chẳng phải mắt tăng Ấn,
Luống nhọc trình biện châu.
Hỏi:
Thế nào là chạm mắt bồ-đề?
Đáp:
Chim từng sợ cây cong,
Người thổi mãi rau nguội.
Hỏi:
Đệ tử chẳng hiểu, xin Thầy cho dụ khác.
Đáp:
Kẻ điếc nghe đàn sáo,
Người mù ngắm trăng lên.
Hỏi:
Vốn tự có hình cùng có bóng,
Có khi bóng cũng lìa hình chăng?
Đáp:
Các sông về Đông chừ muôn dòng tranh chảy.
Chúng sao chầu Bắc chừ ngàn xưa về tâm.
Hỏi:
Thế nào là một câu sáng tỏ siêu trăm ức?
Đáp:
Xa ném Thái Sơn qua biển Bắc,
Ngước tung cây gậy đến cung trăng.
Hỏi:
“Chỉ một việc này là thật, còn hai ắt chẳng chân”, thế nào là chân?
Đáp:
Đầu gậy gió dễ động,
Trên đường mưa thành lầy.
Hỏi:
“Chẳng hướng Như Lai cầu diệu tạng,
Không mong đuốc Tổ nối ngọn đèn.”
Ý chỉ câu này thế nào?
Đáp:
Trời thu hoàng oanh hót,
Trong tuyết mẫu đơn xinh.
Hỏi:
Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
Một người xây vách đứng,
Cả nhà uống chẳng vui.
Hỏi:
Cổ kim việc lớn thôi không hỏi,
Chỉ chuyện Tây lai ý thế nào?
Đáp:
Người nói khéo mặt lành,
Kẻ dùi rùa đập ngói.
Hỏi:
“Tâm pháp đều quên, tánh tức chân”, thế nào là chân?
Đáp:
Hoa núi mưa sa, Thần nữ khóc,
Tre sân gió thổi, Bá Nha đàn.
Hỏi:
Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
Trong cổ vẫn còn nghẹn,
Thường ở chỗ bất an.
Hỏi:
Còn tu còn chứng sanh bốn bệnh,
Xuất đầu sao được thoát lồng trần?
Đáp:
Núi cao lại lớn dung chứa bụi,
Bể cả càng sâu nhận các dòng.
Hỏi:
“Chỉ Phật với Phật mới biết việc này”, thế nào là việc này?
Đáp:
Đường hẹp trúc um tùm,
Gió thổi thành khúc nhạc.
Hỏi:
Chẳng dùng bình thường, chẳng dùng thiên nhiên, chẳng dùng tác dụng, thì nay phải làm sao?
Đáp:
Cỏ bồng chim én đậu,
Biển cả náu cá kình.
Hỏi:
Tứ đại đeo mang đã nhiều kiếp,
Thỉnh Thầy phương tiện thoát luân hồi?
Đáp:
Tất cả súc sanh tê giác quí,
Ăn toàn gai góc, ngủ trong bùn.
Hỏi:
“Các thứ thủ xả đều là luân hồi”, khi không thủ không xả thì sao?
Đáp:
Xưa nay sam tía sắc thường khác,
So le cành lá chẳng có hoa.
Hỏi:
“Đường ngôn ngữ dứt” là ý thế nào?
Đáp:
Gió thổi tiếng còi xuyên trúc đến,
Đầu non mang nguyệt vượt tường sang.
Hỏi:
“Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hóa mọi người, nếu ngộ bản ý gọi là xuất thế”, sao gọi là bản ý?
Đáp:
Xuân dệt hoa như gấm,
Thu sang lá tợ vàng.
Hỏi:
Thế nào là một đường thẳng đứt?
Đáp:
Đông Tây xe ngựa chạy,
Sớm tối bụi mù bay.
Hỏi:
Có pháp, có tâm mở vọng thức,
Làm sao tâm pháp thảy tiêu vong?
Đáp:
Vượt được tùng cao che rợp rợp,
Đâu lo sương tuyết rớt bời bời.
Hỏi:
Ý Tổ cùng ý kinh thế nào?
Đáp:
Hứng lên xách gậy chơi đường núi,
Nhọc tức xổ rèm nằm chõng tre.
Hỏi:
Tổ Tổ truyền nhau là truyền việc gì?
Đáp:
Đói đến cần tìm ăn,
Lạnh về phải mặc áo.
Hỏi:
Người đời đều thuê nhà,
Nhà dột ở chỗ nào?
Đáp:
Quạ vàng cùng thỏ bạc,
Đầy vơi chớ bận lòng.
Hỏi:
Thế nào là một con đường Tào Khê?
Đáp:
Đáng thương kẻ khắc thuyền.
Đến chốn ý lăng xăng.
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng
login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin
ghi danh.