Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tào Tháo (chữ Hán: 曹操; 155 – 220); tự là Mạnh Đức (孟德), là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc. Ông được con trai truy tôn là Thái tổ[1] Vũ Hoàng Đế.
Tào Tháo là người đã có công lớn trong việc dẹp loạn khăn vàng và Đổng Trác. Tuy nhiên, hình ảnh về ông không được các nhà nho học ưa thích và thường được mang ra làm biểu tượng cho sự dối trá, vô liêm sỉ.[2]
Ông còn là một nhà thơ xuất sắc. Ông và hai con trai Tào Phi, Tào Thực được đời sau gọi là Tam Tào, cùng với nhóm Kiến An thất tử và nữ sĩ Thái Diễm hình thành nên trào lưu mới trong văn học thời Hán mạt, gọi chung là Kiến An phong cốt.
&&&&&&&&&&&&&&&
Đa nghi, gian hùng... Có rất nhiều lời bình về nhân vật Tào Tháo trong bộ kỳ thư Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung.
Nhưng có lẽ bốn chữ trên là hai từ người ta thường nói đến nhiều nhất. Cùng với Khổng Minh Gia Cát Lượng, Quan Công,... có thể nói, Tào Tháo là một trong những nhân vật được La Quán Trung xây dựng sống động nhất, thành công nhất, có sức hấp dẫn nhất.
Chính vì hình tượng Tào Tháo trong tiểu thuyết được xây dựng quá tuyệt vời, nên Tào Tháo trong "Tam Quốc" đã lấn át hình tượng Tào Tháo nhà quân sự, nhà chính trị lỗi lạc, xuất chúng... trong sự thật lịch sử. Và chắc cũng ít ai có thể ngờ rằng Tào A Man lại là một thi nhân kiệt xuất, lãnh tụ của thi đàn Kiến An, người có cống hiến lớn nhất cho văn hoá Trung Quốc thời ấy, người khai sáng dòng thơ tả cảnh thuần tuý, nhà thi sử đầu tiên, là người thứ nhất mượn nhạc phủ cổ để miêu tả thời sự, người phục sinh cho thơ tứ ngôn, "tổ sư cải tạo văn chương" (Nguỵ Tấn phong độ cập kỳ văn chương dữ dược cập tửu chi quan hệ, Lỗ Tấn), người đặt nền móng cho "Phong cốt Kiến An"... của Trung Quốc, với phong cách đặc thù: "khí vận trầm hùng" (Thi bình, Ngạo Đào Tôn), "khí lực hùng tráng bao trùm tất thảy, chư tử Kiến An chưa ai được như vậy" (Thi khái, Lưu Hi Tải), "cổ trực hùng hồn, nhiều câu bi tráng" (Thi phẩm, Chung Vinh), "lời như búa bạt đỉnh núi" (Thi kính tổng luận, Thời Ung)...
Tào Tháo (155-220), tự Mạnh Đức, tiểu tự A Man, lại còn có tên là Cát Lợi, người ở quận Tiêu, nước Bái (nay là huyện Hào, tỉnh An Huy, Trung Quốc). Cha là Tào Tung, vốn họ Hạ Hầu nhưng sau làm con nuôi của hoạn quan Trung thường thị Tào Đằng thời Hán Hoàn Đế, nên đổi làm họ Tào, về sau làm quan đến thái uý. Tào Tháo xuất thân trong gia đình hoạn quan, từ nhỏ đã thích săn bắn, ca vũ và đa mưu quyền biến. Năm 20 tuổi đỗ hiếu liêm, từng vì tinh thông cổ học mà được Hán Linh Đế phong làm nghị lang.
Khi khởi nghĩa Hoàng Cân bùng nổ, ông nhậm chức kỵ đô uý, đem binh trấn áp. Đầu thời Hán Hiến Đế, Đổng Trác chuyên quyền, muốn phế vua đoạt ngôi, Tào Tháo gia nhập liên quân thảo trừ. Sau khi đánh bại quân Hoàng Cân, thâu được hơn ba vạn quân nông dân khởi nghĩa, từ đó quân lực mạnh dần lên, và trở thành một trong những quần hùng ôm mộng thống nhất Trung Nguyên.
Đến năm thứ nhất niên hiệu Kiến An (196), ông đón Hiến Đế về Hứa Đô (nay là phía đông Hứa Xương, tỉnh Hà Nam), rồi từ đó "hiếp thiên tử dĩ lệnh chư hầu"; lần lượt đánh bại các địch thủ Lữ Bố, Viên Thiệu, Viên Thuật... và trở thành người có thực quyền thống trị ở phương Bắc lúc bấy giờ, cùng Ngô Tôn Quyền ở Giang Đông và Lưu Bị ở Tây Thục tạo thành thế chân vạc tranh hùng. Sử gọi thời kỳ này là Tam Quốc. Năm 208, ông giữ chức thừa tướng, năm 216 làm Nguỵ Vương, năm 220 lâm bệnh và ôm theo xuống tuyền đài mối hận chưa thống nhất được Trung Nguyên. Sau, Tào Phi phế vua Hán, tự xưng đế, truy phong Tào Tháo là Nguỵ Vũ Đế.
Tào Tháo là nhà quân sự, nhà chính trị kỳ tài cuối thời Đông Hán. Đồng thời ông cũng là một tác giả có thành tựu rất lớn, "ngoại định võ công, nội hưng văn học" (Nguỵ chí, truyện Tuân Vực), không những có thể tập hợp được những người có "trị quốc dụng binh chi thuật" về dưới trướng mình mà còn quy tụ được rất nhiều văn sĩ về với Tào môn. Đương thời các văn nhân tập trung ở Nghiệp Hạ (nay là phía bắc An Dương, tỉnh Hà Nam), trong số ấy có rất nhiều người tài hoa, và Tào Tháo chính là người bảo hộ và dẫn đường cho các sáng tác của họ. Thiên "Thời tự" trong "Văn tâm điêu long" viết: "Nguỵ Vũ Đế (tức Tào Tháo) ở địa vị tôn quý mà rất yêu thích văn chương".
Tào Tháo, Tào Phi, Tào Thực cùng với Khổng Dung, Vương Xán, Lưu Trinh, Trần Lâm, Nguyễn Vũ, Từ Cán, Ứng Sướng chính là linh hồn của văn học Kiến An. Người sau thường gọi họ là Tam Tào và Thất Tử.
Quyền lực chính trị và tài năng thơ ca, hai yếu tố này đã đưa Tào Tháo lên địa vị lãnh tụ thi đàn Kiến An.
Hiện tại, còn lưu giữ được 26 bài thơ của Tào Tháo và tất cả đều là nhạc phủ ca từ. "Nguỵ thư" viết ông "đăng cao tất phú, cập tạo tân thi phi chi quản huyền, giai thành nhạc chương". Qua đó có thể thấy, Tào Tháo không những là một nhà thơ, mà còn là người say mê âm nhạc. Và điều đặc biệt trong sáng tác của ông là sự kế thừa truyền thống hiện thực chủ nghĩa "cảm ư ai lạc, duyên sự nhi phát" (cảm động ở những nỗi vui buồn, theo đó mà phát ra) của dân ca nhạc phủ (theo Hán thư - Nghệ văn chí), dùng hình thức nhạc phủ cựu đề để chuyển tải những nội dung mới mẻ. Cũng như chủ trương dùng người tài không kể thân phận sang hèn, trong sáng tác, Tào Tháo dùng những thể thơ ca dân gian (mà thời đó bị các thi sĩ quý tộc khinh thường) làm hình thức sáng tác và phương tiện bộc lộ tình cảm. Trong số đó có rất nhiều danh tác như: Giới lộ hành, Cảo lý hành, Khổ hàn hành, Khước đông tây môn hành, Đoản ca hành, Quy tuy thọ, Đối tửu, Độ quan sơn, Quan thương hải và Mạch thượng tang với hình thức đa dạng, nội dung phong phú.
Những động loạn của hiện thực xã hội và nỗi thống khổ của nhân dân đương thời được phản ánh một cách sâu sắc vào trong thơ ca Tào Mạnh Đức. Vì vậy người ta gọi ông là bộ "Hán mạt thực lục" và "thi sử" (theo Chung Tinh trong "Cổ thi quy") trước Đỗ Phủ đến 500 năm. Chẳng hạn như các tác phẩm "Giới lộ hành" và "Cảo lý hành" nguyên là những bài vãn ca (bài ca phúng điếu) được Tào Tháo mượn "xác" để tả thời sự. Thông qua việc miêu tả một cách mới mẻ và chân thực sự tao loạn của thời đại, những tác phẩm này cũng đồng thời bộc lộ tình cảm ưu thời mẫn thế của nhà thơ:
Đời hăm hai nhà Hán,
Dùng những kẻ bất tài.
Một lũ khỉ đội mũ,
Trí mọn đòi múa may
Chần chừ không dám quyết,
Để hoạn quan ra tay.
...
Gian thần cướp quyền bính,
Giết vua diệt đế kinh.
Cơ nghiệp tiên vương mất,
Tông miếu bị tan tành...
Năm Trung Bình thứ 6 (189), Hà Nam doãn đại tướng quân Hà Tiến mưu tính diệt hoạn quan, bèn mật triệu Đổng Trác vào kinh thành Lạc Dương để ra tay. Nhưng cơ mưu bại lộ, Hà Tiến bị bọn hoạn quan Trương Nhượng giết chết. Trương Nhượng đem Thiếu Đế và Trần Lưu Vương chạy khỏi cung. Sau khi đến kinh, Đổng Trác đưa Thiếu Đế trở về, không lâu sau đó phế Thiếu Đế làm Hoằng Nông Vương, cuối cùng đem giết luôn, rồi đưa Trần Lưu Vương lên ngôi, tức Hán Hiến Đế. Khi các châu quận khởi binh ở Quan Đông thảo phạt Đổng Trác, Đổng bèn đốt cung Lạc Dương bức Hiến Đế thiên đô về Trường An. Tào Tháo tận mắt chứng kiến cuộc biến loạn này, đặc biệt là khi nhìn thấy cảnh hoang tàn thảm thương của Lạc Dương đã sinh niềm cảm thương vô hạn. Và "Giới lộ hành" ra đời. Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", hồi thứ 3 cũng có mấy câu thơ tả việc này như sau:
Vận nhà Hán đến ngày tàn,
Hà Tiến vô trí dự hàng tam công.
Mấy phen chẳng kể lời trung,
Tránh sao mũi kiếm
trong cung liễu đời.
"Cảo lý hành" là bài thơ ngũ ngôn 18 câu kể việc bọn Viên Thiệu, Viên Thuật mượn cớ thảo trừ Đổng Trác gây bao cảnh tang tóc, điêu linh cho dân lành. Nổi tiếng nhất là những vần thơ cuối cùng, những câu được xem là "danh cú cổ kim":
Bạch cốt lô vu dã
Thiên lý vô kê minh
Sinh dân bách di nhất
Niệm chi đoạn nhân trường
(Đồng hoang xương phơi trắng
Ngàn dặm tiếng gà không
Trăm người sống sót một
Càng nghĩ càng quặn lòng).
Mấy câu thơ tả thực vô cùng sắc sảo, đọc lên nghe lạnh gáy. Cảnh chiến trường như hiện lên trước mắt đầy vẻ hoang tàn, mịt mù tử khí, ai nghe cũng rùng mình kinh sợ. Câu chữ rất tự nhiên, giản dị nhưng nội lực hùng hậu, có sức rung chuyển kinh người.
Hay như ở các bài "Khổ hàn hành" và "Khước đông tây môn hành", tác giả đã phản ánh sự khốn khổ trong sinh hoạt hành quân chinh chiến cuối thời Hán từ những góc độ khác nhau; một tả sự gian khổ của cuộc hành quân, đường núi non hiểm trở, một tả tình hoài vọng cố hương của những người chinh phu. Do bản thân từng chinh chiến trận mạc, nếm trải cuộc sống trong chiến tranh cộng với tài năng thơ ca xuất chúng nên những cảnh miêu tả ở đây hết sức chân thực khiến người đọc như thấy hiện ra trước mắt, thân thiết cảm động.
Trong cuộc đời ngang dọc chiến chinh của mình, Tào Tháo cùng tướng sĩ trải qua muôn ngàn gian lao, nguy hiểm; tính mệnh mong manh không chỉ khi đối diện mũi giáo đường gươm quân thù, mà cả khi vượt suối băng ngàn trên đường hành quân:
có sức hấp dẫn nhất.
Đường lên núi Thái Hàng
Vời vợi khó khăn thay
Núi non lối khuất khúc
Xe ngựa muốn lung lay
Cỏ cây xơ hiu quạnh
Gió lạnh rít ù tai
Beo gấu luôn rình rập
Hổ báo lượn đó đây
Núi khe bóng người vắng
Đầy trời tuyết bay bay...
Cảnh thiên nhiên thật hùng vĩ, hoành tráng và đẹp đẽ nhưng cũng chất chứa bao hiểm nguy, khắc nghiệt. Trích đoạn trên là mười câu đầu trong kiệt tác "Khổ hàn hành" - tả một trong những cuộc hành quân của Tào Tháo cùng ba quân.
"Khước đông tây môn hành" thể hiện tình cảm thương nhớ cố hương của người chinh phu đi chinh chiến lâu chưa được trở về, cũng là lời thổ lộ chân tình tự thương của tác giả trong cảnh ly loạn chiến tranh:
Hồng nhạn nơi ải bắc,
Chốn quạnh quẽ sơ hoang.
Tung cánh hơn vạn dặm,
Dừng, bay tự thành hàng.
Đông, sang Nam ăn thóc,
Xuân, lại về Bắc phương.
Giữa đồng cỏ bồng chuyển,
Theo gió muôn nẻo đường.
Lớn lên nào biết gốc,
Nghìn năm tuyệt hội tương.
Hỏi chàng chinh phu trẻ,
Sao đi mãi không dừng?
Yên cương không lơi lỏng,
Áo giáp mặc thường thường.
Cái già lừ đừ đến,
Bao giờ qui cố hương?
Rồng thần ẩn vực thẳm,
Mãnh thú lượn non cao.
Cáo chết quay về núi,
Cố hương quên được sao?
"Đoản ca hành" và "Quy tuy thọ" là những tác phẩm thể hiện tinh thần và hùng tâm thống nhất thiên hạ của Tào Tháo, đây cũng là hai danh tác trong thơ tứ ngôn của ông. Đó là tâm chí thống nhất Trung Nguyên, là tình cảm mãnh liệt của bản thân và tâm tình bi thương khẳng khái, nỗi ưu tư vì đại nghiệp chưa thành của khách anh hùng trước bóng hoàng hôn cuộc đời.
Trên bước đường tung hoành mây gió, vào sinh ra tử, thành bại muôn lần của mình, không phải lúc nào Tào Tháo cũng chỉ nghĩ đến chiến chinh, chém giết. Cũng có rất nhiều khi, mộng xưng hùng tranh bá trong ông chợt lắng xuống để cho niềm cảm khái nhân sinh dâng trào.
Xông pha, lăn lộn qua vô số trận mạc sa trường, khi tóc anh hùng đã nhuộm màu sương tuyết, Tào Tháo giật mình hoảng hốt thấy thời tráng niên sắp qua và biết mình đang bước những bước cuối cùng của cuộc đời. Đời người như giấc mộng, cũng như một khúc ca, hào hùng nhưng quá ngắn ngủi. Và đây là những vần thơ chứa chan tâm sự:
Nâng chén hát ca
Đời người bao là
Nhẹ như sương sớm
Khổ nhiều ngày qua
Thở than buồn giận
Ưu phiền nào tha...
Đây là sáu dòng đầu trong danh tác "Đoản ca hành". Cả bài thơ là một nỗi lòng ngập tràn tâm sự và niềm cảm khái về kiếp người mong manh, khổ đau.
Ở đây người ta lại thấy một Tào Tháo khác, không phải hiên ngang lồng lộng giữa đất trời với thanh kiếm xung thiên nộ khí mà là một Tào Tháo ngất ngây trong bầu rượu ưu tư. Tiếng hát vẫn có vẻ hào hùng khí thế song âm điệu lại trĩu nặng phiền não, bi hùng.
Đời người lắt lay như khói sương, tháng năm khổ não chất chồng, hết thở than lại buồn giận, làm sao có thể xoá đi những phiền muộn? Đây rõ ràng là khúc bi ca về cuộc đời, cuộc đời của một chiến binh, hết sức tài ba nhưng cũng vô cùng sâu sắc. Cái bi trong thơ ca Tào Tháo luôn gắn với cái hùng. Kiệt tác này cũng được La Quán Trung đưa vào "Tam Quốc", hồi thứ 48: "Yến trường giang Tào Tháo phú thi, Toả chiến thuyền Bắc quân dụng võ."
Niềm cảm khái về nhân sinh thoáng chốc ấy càng được biểu lộ sâu sắc hơn trong bài "Quy tuy thọ" - khúc ca thứ tư trong "Bộ xuất hạ môn hành":
Thọ như rùa thiêng
Cũng có lúc chết
Rồng cưỡi mây mù
Cũng ra tro hết
Ngựa già nằm chuồng
Chí ở bốn phương
Anh hùng về cuối
Hăng hái như thường...
Rùa thiêng, rồng thần, ngựa thiên lý, anh hùng,... tất cả cuối cùng cũng trở về cát bụi, cũng hoá hư vô. Có lẽ sự trải nghiệm đã khiến cho Tào Tháo có cái nhìn thẳm sâu về cuộc sống.
Tào Tháo thấy được sự vô thường của kiếp người cũng như của vạn hữu, tuy vậy ông không chán nản, não luỵ. Ngựa thiên lý tuy già yếu nằm chuồng nhưng chí của nó vẫn tung hoành ngoài nghìn dặm; kẻ anh hùng bạc đầu nhưng hùng tâm vẫn mênh mang bốn phương. Ông tự hào về những tháng năm oai hùng đã qua và ngậm ngùi tiếc nuối, nhưng vẫn hát ca đón chào hoàng hôn đời mình.
Trong danh tác "Đối tửu", tác giả miêu tả một xã hội lý tưởng trong tưởng tượng. Đó là một xã hội vua sáng tôi hiền, ai nấy đều kính nhường nhau, không có kiện tụng tranh chấp, không có những cảnh thúc thuế bắt nợ, người chấp chính thưởng phạt nghiêm minh, yêu thương trăm họ như anh em; nhân dân yên tâm vui vẻ làm ăn, không có cảnh chạy tứ phương để trốn bắt lính, mọi người đều ấm no sung sướng, người già được sống trọn tuổi trời.
Nâng chén ca
Buổi thái hoà
Quan không thúc thuế
Vua chúa sáng hiền
Trung lương tướng tá tài ba.
Cùng nhau nhường kính
Tranh chấp không xảy ra
Ba năm cày cấy
Chín năm vẫn ấm no
Lúa gạo đầy kho
Việc nặng không đến người già.
Mưa thuận gió hoà
Ngũ cốc được mùa
Bắt ngựa hoang
Giúp canh tác mùa màng.
Các vị công, hầu, bá, tử, nam
Đều yêu thương dân chúng
Thưởng phạt phân minh
Coi dân như con em mình
Kẻ phạm lễ pháp
Tuỳ nặng nhẹ xử hình.
Ngoài đường của rơi không ai nhặt
Trong lao tù vắng tanh
Mùa đông không có án
Người già cả
Sống trọn tuổi trời
Cả thảo mộc côn trùng,
ân đức đều đến nơi.
Ở bài "Độ quan sơn", ngoài việc mơ tưởng một xã hội lý tưởng với thánh quân minh chúa hết lòng với nhân dân, Tào Tháo còn khẳng định: thứ đáng quý nhất trong trời đất là con người. Sống trong loạn đao binh khốc liệt, mạng người như cỏ rác, sống chết trong đường tơ kẽ tóc mà ông nhận ra và khẳng định được giá trị con người như vậy, kể cũng rất đáng ngạc nhiên đối với người từng có câu nói chấn động lịch sử: Ta thà phụ người chứ không để người phụ ta. Nhưng quan sát toàn bộ thơ ca của Tào Tháo, thì dường như còn có một Tào Tháo khác vậy. Qua gần 2000 năm, thơ ca còn lại không thể là giả dối, nhất là đối Tào Mạnh Đức:
Giữa trời đất,
Người là nhất.
Lập vua chăn dân,
Làm ra phép tắc.
Bánh xe chân ngựa,
Ngự tuần khắp chốn.
Thưởng phạt rõ ràng,
Thứ dân đều biết...
Đặc biệt được ca ngợi là thơ tứ ngôn trữ tình, người đời sau gọi ông là tác gia phục hưng tứ ngôn thi. Thẩm Đức Tiềm nói: "Tào công tứ ngôn, ư tam bách thiên ngoại, tự khai kỳ hưởng". Bởi vì từ sau "Kinh thi" (tam bách thiên), thơ tứ ngôn ngày càng uỷ mị suy yếu, dần dần bị thơ ngũ ngôn thay thế, rất hiếm có giai tác xuất hiện. Thế mà đến giai đoạn này, Tào Tháo lại liền một lúc cho ra đến mấy kiệt tác như vậy, khiến thơ tứ ngôn được một phen tái sinh với vẻ đẹp đến kỳ lạ.
Cao rộng, kỳ vĩ là đặc trưng cho thơ ca Tào Tháo, nhất là khi ông tả cảnh. Ông không đi sâu vào những chi tiết nhỏ vụn mà tập trung vào những nét lớn, gân guốc, mạnh mẽ. Bài thơ tả cảnh đặc sắc nhất của Tào Tháo là "Quan thương hải" (Ngắm biển khơi). Đây cũng là bài thơ tứ ngôn hoàn chỉnh sớm nhất với đề tài tả cảnh trong lịch sử thơ ca Trung Hoa:
Trên mỏm núi cao
Phóng trông biển rộng
Cuồn cuộn nước reo
Gò đảo sừng sững
Cây cối tầng tầng
Cỏ hoa nghìn sắc
Gió thu hiu hắt
Sóng vọt tưng bừng
Mặt trăng mặt trời
Từ đó sáng ngời
Ngân hà rực rỡ
Từ đó ra đời.
Bài thơ rất ngắn và là chương thứ nhất trong "Bộ xuất hạ môn hành". Tuy nhỏ bé, nhưng bài thơ lại vẽ ra một khung cảnh thiên nhiên vô cùng khoáng đạt, kỳ vĩ, tuyệt đẹp.
Nhà thơ đứng trên đỉnh núi Kiệt Thạch, phóng tầm mắt quan sát muôn trùng biển khơi. Tầm mắt quét một vòng bao quát toàn cảnh; từ làn nước cuồn cuộn mênh mông, gò đảo nhấp nhô sừng sững, cây cối chen chúc, hoa cỏ muôn màu, gió thu hiu hắt, sóng vọt trùng trùng... đến cả vầng nhật nguyệt, dải Ngân hà. Thật là một cái nhìn sắc sảo, tinh tế, liên tưởng cực kỳ; sự bát ngát ngút mắt của biển khơi là nơi khởi sinh của mọi sự sống và vẻ đẹp. Đây thực sự là những câu thơ đẹp lạ lùng, đồng thời cũng cho thấy tư thế, khí chất hùng dũng của một anh hùng cái thế.
Loại thơ tả cảnh thuần tuý như thế này trước Tào Tháo chưa từng xuất hiện, và như vậy có nghĩa rằng, chính ông là người sáng khởi ra thơ tả cảnh của Trung Quốc. Những nhà thơ đời sau sáng tác thơ tứ ngôn có thành tựu cao như Kê Khang, Đào Uyên Minh đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Tào Tháo.
"Mạch thượng tang" lại là một kiệt tác thuộc loại "Du tiên thi" nói chuyện lên trời gặp tiên. Tào Tháo không chỉ có những vần thơ thực đến rùng mình kinh hãi, mà còn có những vần thơ bay bổng tuyệt vời. Ông kế thừa được cả tinh tuý của văn hoá phương Bắc với Kinh thi và văn hoá phương Nam với Sở từ. Nghĩa là tâm hồn ông được bồi đắp bằng phù sa của hai dòng đại xuyên trường giang: hiện thực và lãng mạn. Và sự lãng mạn trong thơ ca Tào Tháo không phải được tô điểm bằng sự trang sức, phù hoa của ngôn từ, mà bằng trí tưởng tượng kỳ vĩ:
Cưỡi cầu vồng,
Đạp mây đỏ,
Lên đỉnh Cửu Nghi nhập Thiên cung.
Qua Thiên Hán,
Đến Côn Luân,
Gặp Tây Vương Mẫu
cùng Đông Quân.
Bạn Xích Tùng,
Với Tu Môn,
Cầu đạo bí phương di dưỡng tinh thần.
Ăn linh chi,
Uống cam tuyền,
Cầm trượng quế và đeo hoa lan.
Dứt chuyện đời,
Du đất trời,
Như gió lốc (soát) bay nhảy muôn nơi.
Bóng chưa đổi,
Băng ngàn dặm,
Thọ như Nam Sơn,
không quên lỗi lầm.
Tóm lại, thơ Tào Tháo biểu hiện phong cách đặc trưng với sự hào sảng tung hoành và bi tráng hào hùng, biểu hiện một cách tập trung tinh thần của thời đại. Thơ ông không chỉ mở ra một thi phong mới cho thời đại Kiến An, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển văn học sau này của văn học Trung Quốc, và việc ông dùng nhạc phủ cựu đề để miêu tả thời sự cũng tạo ra nhiều gợi ý cho các thi nhân đời sau. Chẳng hạn như bài tân đề nhạc phủ thi "Tức sự danh thiên" của Đỗ Phủ, hay cuộc vận động tân nhạc phủ của nhóm Bạch Cư Dị... đều có thể truy nguyên đến nhạc phủ ca từ của Tào Tháo.