Bức thư thứ hai mươi bốn
Các bạn thân mến,
Còn một lối thơ nữa cũng rất được thông dụng trong các thi xã thi đàn. Ðó là thơ CANH HỌA thường gọi là thơ HỌA VẬN .
CANH HỌA hay HỌA VẬN là đáp họa lại những vận ngữ (hay vận cước) được dùng trong một bài thơ khác, tức bài xướng. Vì vậy người họa trước hết phải xem bài xướng diễn tả sự gì, vật gì, ý cảnh như thế nào, thì mới đáp họa lại được .
Thơ CANH HỌA cũng là một lối thơ mà đề mục bị hạn chế như thơ Phú Ðắc .
Thơ CANH HỌA:
Về mặt hình thức thì có 3 thể là Thứ Vận, dụng vận và y vận.
Thứ Vận là dùng những vần mà theo đúng thứ tự của vần bài xướng . Ðây là lối phổ thông nhất xưa nay . Như thơ Ðông Hồ họa bài CÂY MAI của Tôn Thọ Tường đã dẫn trước đây, chẳng hạn.
Dụng Vận là dùng những vần bài xướng mà không cần theo thứ tự, có thể đem lên đem xuống tùy nghi. Như bài THƠ XUÂN của chủ nhân Diễm Diễm Thư Trang xướng .
Da ngọc ngà phô giấy nõn nường
Tóc huyền mun gợn mực yêu đương
Dịu thon lưng uốn đường sông núi
Trinh bạch lòng pha chút tuyết sương .
Xiêm áo phong phanh tờ lụa ngỏ
Phấn hồng thoang thoảng bụi hương vương
Nàng thơ kiều diễm Xuân kiều diễm
Chữ gấm lời hoa gửi bốn phương.
Vũ Hoàng Chương thứ vận :
Xuân mới ba mươi sáu nõn nường
Riêng cành mai cũ chiếm yêu đương
Dài sông nghĩa ấy tình cao núi
Pha tuyết thân này mặt nhuốm sương
Chẳng đợi đông quân làm đạo chủ
Vốn là hoa hậu sánh thi vương
Giang Nam mộng lẫn vào Giang Bắc
Trời bốn phương lòng chỉ một phương
Ðông Hồ dụng vận :
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương
Tơ tình xưa để mối nay vương
Thơ lai láng khắp hồn kim cổ
Mực đậm đà thêm ý cỏ sương
Nhà ngọc mong treo vần diễm tuyệt
Lạng vàng dám đổi giá tương đương
Ơn nhờ son phấn duyên tri kỷ
Cho một lần Xuân một nõn nường
Bài họa này, Lộc Ðình Nguyễn Hiến Lê gọi là “gấm vóc đảo canh tơ” tức đảo lộn ngược 5 vần, dưới lên trên, trên xuống dưới . Tuy đảo ngược song vẫn theo thứ tự trước sau, trước sau theo chiều ngược. Ðó là theo ý thích của họa giả, chớ phép không buộc . Muốn để vần nào vào câu nào cũng được miễn là dùng những vần của nguyên xướng thì thôi .
Y Vận là dùng những vần cùng một vận bộ với nguyên tác chớ không theo những vần nguyên tác đã dùng . Ví dụ nguyên tác dùng những vần “phương, vương, sương, đương, nường” thì họa giả dùng những vần “tường, thương, hương, chương, dương” chẳng hạn. Những vần họa và những vần xướng nằm trong một vận bộ, bộ ương.
Lối Y vận không bó buộc, nhưng trong làng thơ quốc âm ít ai dùng ! Có lẽ thi nhân thấm lẽ ý nghĩa câu “nghệ thuật sanh nhờ nhờ bó buộc, chết vì tự do” (lárt nait de contrainte et meurt de liberté), nên mới đi tìm cái khó vậy !
Về nội dung thì có 6 phép : SONG HÀNH, SONG LẬP, TƯƠNG ỨNG, TƯƠNG PHẢN, KHAI TRIỂN, BỒ KHUYẾT .
Song Hành là đi song song với nhau, nghĩa là người xướng và người họa đứng trên một lập trường, cùng diễn tả một ý tưởng . Ví dụ bài của Phan Văn Trị họa vận bài TÔN PHU NHÂN QUI THỤC của Tôn Thọ Tường :
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Ðông
Lìa Ngô bịn rịn vầng mây bạc
Về Thục trau tria phận má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Ðá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
Tôn Thọ Tường
Bài họa
Cài trâm sửa trắp vẹn câu tòng
Mặt giả trời chiều biệt cõi Ðông
Khói tỏa trời Ngô un sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Phan Văn Trị
Song lập là đứng song song với nhau. Khác với Song Hành là xong hành ý đồng. Song Lập là ý không đồng nhưng không phản . Nghĩa là Xướng cùng Họa đứng chung một địa phận, nhưng mỗi bên diễn mỗi ý khác nhau. Song hành giống như hai con sông chảy song song, nước bên sông này, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc khi ẩn khi hiện, giao tiếp với nước sông bên kia. Còn Song Lập thì giống như hai ngọn núi đứng song song và ngó
mặt về một hướng, trên mặt đất không thấy mối liên lạc với nhau. Tuy khác ý, song ý không ra ngoài đề bài, cũng như trên mặt đất không thấy có mối liên lạc với nhau nhưng dưới đất vẫn cùng một sơn mạch . Ví dụ bài NGÀY XUÂN TƯƠNG TƯ của Tản Ðà xướng rồi tự họa ngược vần (dụng vận):
Trách cái tằm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tương tư
Sương mù mặt đất người theo mộng
Nhạn lảng lưng trời kẻ đợi thơ
Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa
Tương tư một mối hai người biết
Ai độc thơ này đã biết chưa ?
Hỡi giống đa tình đã biết chưa
Tơ tằm vương maĩ tự ngàn xưa
Gió mưa bốn bể hồn theo bạn
Vàng ngọc trăm năm túi nặng thơ
Lửa đốt lòng son câu thế sự
Gương soi tóc trắng nỗi sầu tư
Thuyền nan sóng đánh tàu than hết
Giương cột giăng buồm một sợi tơ (*)
(*) hai bài Ðông Hồ và Vũ Hoàng Chương họa THƠ XUÂN của Diễm Diễm thư trang trước đây, cũng thuộc về Song Lập.
Tương Ứng tức là xướng hô họa đáp; hoặc hưởng ứng từng câu, từng đoạn, hoặc dồn ý cả toàn thiên đáp ứng lại.
Phép trước như bài Nguyễn Khuyến hỏi thăm bạn mất cướp và ông bạn họa lại .
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ
Xương gà da cóc có đau không
Bây giờ mới thấy trầy da trán
Ngày trước đi đâu mất mảy lông
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông
Nguyễn Khuyến
Ông thăm tôi, tôi trả ơn ông
Nó có lôi tôi đến giữa đồng
Những tưởng vun thu phòng lúc thiếu
Nào ngờ ky cóp lại như không
Chém cha thằng quỉ đen tai mắt
Chẳng nể ông già bạc tóc lông
Ông nhắn khuyên tôi tôi biết vậy
Thương ông tuổi tác cháu thì ngông
Ông bạn
Phép sau như bài Xướng họa của Ngân Giang và Vũ Hoàng Chương
VÔ ÐỀ
Mây trắng lang thang mãi cuối trời
Gió chiều heo hút khắp nơi nơi
Cung đàn đã mấy dây chùng hẳn
Mái tóc bao nhiêu sợi lạnh rồi
Chốn ấy tờ hoa đành lẻ ý
Mùa này chim nhạn có chung đôi
Thương thay trên quãng đường chia ngả
Thì ngả nào không có lá rơi
Ngân Giang
Lửa khóa mây then bốn vách trời
Về đâu mộng cũng chẳng đành nơi
Vẫn chưa ý gởi vào thơ được
Mà đã dâu toan hóa biển rồi
Ngọn gió nghe chừng xoay mãi hướng
Vầng trăng ai nỡ xẻ làm đôi
Tin xuân lạnh lắm rồng ao cạn
Há chỉ phòng thu lệ nến rơi
Vũ Hoàng Chương
Tương Phản là Xướng và Họa đứng trên hai trận tuyến đối lập. Như bài của Ðông Hồ mượn lời Nhị Kiều họa vận bài TÔN PHU NHÂN QUI THỤC của Tôn Thọ Tường và 10 bài liên hoàn Phan van Trị họa 10 của Tôn Thọ Tường :
I
Giang sơn ba tỉnh hãy còn đây
Trời đất xui chi đến nỗi này
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo
Mây tuôn đen nghịt khói tàu bay
Xăng văng chậm tính thương đòi chỗ
Thấp thỏm riêng lo tiếc những ngày
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay
II
Thày lay lại chác lấy danh nhơ
Ai mượn mình lo việc bá vơ
Trẻ dại giếng sâu lòng chẳng nỡ
Ðường xa ngày tối tuổi không chờ
Áo xiêm chán thấy xăn tay thợ
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ
Rủi rủi may may đâu đã chắc
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ
BÀI HỌA
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây
Chẳng đã nên ta phải thế này
Bến Nghé quản bao cơn lửa đỏ
Cồn Rồng đâu mặc bụi tro bay
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn nai cũng có ngày
Ðừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay
II
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ
Người trí mảng lo danh chẳng chói
Ðứa ngu luống sợ tuổi không chờ
Bài hòa đã sẵn in tay thợ
Cuộc đánh hơn thua giống cuộc cờ
Chưa trả thù nhà đền nợ nước
Dám đâu mặt lấp lại tai ngơ
Phan Văn Trị
Khai Triển là nói thêm, bàn thêm những gì nguyên xướng đã nói đã bàn rồi nhưng chưa đủ, chưa trọn. Hoặc dựa vào nguyên xướng mà diễn thêm những ý mới làm cho ý nghĩa bài nguyên xướng thêm rộng rãi, rõ ràng .
Bổ Khuyết là bổ sung vào nguyên xướng những điều đáng nói mà nguyên xướng không nói vì quên hay không tiện nói ra .
Tức là Khai Triển là mở rộng ý nguyên xướng. Bổ khuyết là thêm ý vào cho nguyên xướng . Hai bên đều thêm, nhưng một bên thêm vốn vào (bổ khuyết), một bên lấy vốn cũ gây thêm lời mới (khai triển).
Xin lấy những bài xướng họa trong bữa lễ mừng thọ “Thất Tuần” của ông bạn La Dung cách đây chừng mười năm. Bài xướng của La Dung :
Non Hành sông Cấm hộ trì ta
Ngất nghểu trời Nam trẻ đến già
Bảy chục xuân rồi không lận bận
Bao nhiêu thu nữa chẳng bôn ba
Trăng lồng chén cúc hương say mộng
Mây trải đình lan bút trổ hoa
Lọ phải lên non tìm thuốc lạ
Linh chi sẵn cỏ mọc quanh nhà .
La Dung là một nhà giáo hưu trí, sính thơ, háo khách, cùng gia đình sống trong cảnh phú túc phong lưu. Bài thơ, văn chương tao nhã. Song đọc lên độc giả chỉ thấy là ông bảy mươi sung sướng từ nhỏ đến lớn, chớ không biết rõ thân phận hung hoài tác giả như sao. Thơ họa có trên 50 bài, song phần nhiều hoặc “cùng tác giả nắm tay nhau mà đi” (song hành), hoặc “đem mình ra đặt song song cùng tác giả để đọ thấp cao” (song lập). Cho nên thơ họa tuy nhiều mà không làm cho nguyên xướng sanh thêm hương sắc. Riêng lấy làm thích được hai bài, một của Hiểu Lam, một của Ðịnh Phong :
Rượu bảy tuần nâng chúc bạn ta
Bao nhiêu tuần nữa cũng chưa già
Song Nam dẫu gác roi Trình Tử
Trận bút còn hăng tiết Phục Ba
Chẳng bến Ðồng Giang phò chín đảnh
Cũng vườn Kim Cốc nhóm trăm hoa
Hỡi ai xa xứ tìm danh lợi
Chớ thấy phong quang đến lộn nhà
Hiểu Lam
Tiệc thọ Trung tuần mừng bạn ta
Vườn hưu cây kiểng thắm duyên già
Trăng treo viện bút hài tiên nữ
Hương rớt đàn xuân gió hạnh ba
Lầu phụng thanh thanh tiêu trổi ngọc
Tờ mây dợn dợn ráng in hoa
Diệu Trì nhón bước lên cao hái
Quả phước đem chia khắp mọi nhà
Ðịnh Phong
Bài của Hiểu Lam vừa khai triển vừa bổ túc . Bài của Ðịnh Phong vừa bổ túc vừa khai triển nghĩa là Hiểu Lam lấy việc khai triển làm chính . Ðịnh Phong lấy việc bổ túc làm chính .
Tác giả La Dung bảo từ trước tới giờ và từ nay về sau, mình không bị danh lợi làm bận rộn, nên trong đời mới hưởng được thú phong lưu . Hiểu Lam nói rộng ra : Nói là không bận rộn là không bận rộn về danh lợi, chớ trước kia bạn đã lo trọn đạo làn thầy được học trò quý mến chẳng khác thầy Trình ngày xưa . Bây giờ về vườn bạn lại hăng say trong nghề ngâm vịnh, hăng say chẳng kém Mã Viện đối việc chiến chinh . Ðó là không bận rộn trong chốn bận rộn một cách sinh động . Thú vui của bạn, thú vui nên thơ nên mộng kia, tuy không có ảnh hưởng đến nhân tâm thế đạo bằng thú đi câu của Nghiêm Tử Lăng đời Hán tại Ðồng Giang, song vẫn cho những hạng người say đắm vào nẻo lợi đường danh cam thấy rằng không phải chỉ có kim ngân và địa vị là quí . Bạn lại không ích kỷ hưởng thú một mình . Hoa viên của bạn là Tiểu Kim Cốc của Thạch Sùng còn để lại . Bạn thường nhóm thân hữu thân bằng lại để cùng bạn chung vui ... Vì vậy cho nên những người buôn danh bán lợi chớ thấy cảnh giàu sang của bạn mà tưởng lầm là “một hội một thuyền với mình”.
Bài của La Dung chỉ nói riêng về cá nhân tác giả, đọc lên chúng ta cảm thấy tác giả chỉ nghĩ đến mình, chỉ chăm hưởng thú một mình, không chút chú ý đến người chung quanh, cả đến những người thân cận nhất là vợ con ... Sợ người ta hiểu lầm bạn mình, Hiểu Lam mở rộng những ý “đã diễn tả chưa trọn” của bạn ra để thuyết minh với những bằng chứng cụ thể là việc làm quá khứ cùng hiện tại của bạn, hầu mong duyệt giả đừng hiểu lầm rằng bạn mình là một con người ích kỷ .
Hiểu Lam vừa khai triển vừa bổ túc là vậy đó .
Còn Ðịnh Phong thấy La Dung chỉ nói đến cái thú mình hưởng chớ không nói đến cái cảnh mình đã sống và đường sống, nên mới đem cảnh trước mắt và chảnh đã qua, bổ sung vào chỗ khiếm khuyết; Cảnh đẹp của đình hưu , danh thơm còn sót lại của bậc thầy học gương mẫu, cảnh hạnh phúc trong gia đình, tài văn chương của bạn. Và nhân bạn tự đắc về “cỏ tiên sẵn có” Ðình Phong lại khuyên nên bước thêm một bước nữa ... đừng nghĩ riêng một mình mình mà nên nghĩ đến “mọi nhà trong xã hội”, như thế mới là hoàn hảo .
Ðó là bổ túc và khai triển .
Những bài thơ thượng dẫn là những bài đã được nhiều người tán thưởng. Nhưng có phải là những bài theo đúng qui tắc thơ canh họa hay chăng ?
Muốn biết đúng hay sai, xin nói thêm về qui luật .
Họa vận phải theo 3 qui luật, ngoài những phép tắc đã nói trên , là :
1- Bài họa phải cùng một thể luật như bài xướng, nghĩa là hễ bài xướng thất ngôn luật bằng thì bài họa cũng vậy .
2 - Những vần của bài họa phải cùng một nghĩa với những vần bài xướng . Ví dụ vần bài xướng là đường là con đường thì bài họa cũng vẫn phải dùng vần đường với nghĩa con đường chớ không được dùng đường là đường mía, hay đường là nhà ... Vần bài xướng là vần châu là hạt châu thì không được dùng trong bài họa chữ châu là châu quận hay châu là thuyền
3 - Những chữ đứng trước vận ngữ bài họa, tức chữ thứ 6 trong câu bỏ vần, đều không được trùng với chữ đứng trước vận ngữ, tức chữ thứ 6 trong câu bỏ vần, bài xướng ...
Ba qui luật này được triệt để tuân thủ trong thơ chữ Hán. Nhưng trong thơ Quốc Âm, nhất là từ khi chữ Hán cáo chung, thì không còn được áp dụng một cách chặt chẽ nữa. Qui luật thứ 3 về chữ đứng trước vận cước, còn được phần đông thi nhân tuân theo. Hai qui luật trên, về thể luật và nghĩa của vần, không còn được mấy ai để ý. Chúng ta chỉ xem những bài thượng dẫn thì đủ thấy . Không mấy bài giữ đúng qui luật , bài thì phạm qui luật này bài thì phạm qui luật kia, có bài phạm đến hai qui luật, như bài Ðịnh Phong họa vận bài Thất Thập Tự Thọ của La Dung: bài xướng theo luật bằng (Non Hành: bằng bằng), bài họa theo luật trắc (Tiệc rượu: trắc trắc). Bài xướng hạ vần ba (trong bôn ba) chữ Việt, bài họa dùng vần ba (hạnh ba) là chữ Hán. (*) Bài của Hiểu Lam cũng bị lỗi ở vần ba. Bài Vũ Hoàng Chương và Ðông Hồ họa lại Thơ Xuân của Diễm Diễm thư trang, vừa lỗi ở vần (xướng: yêu đương ố họa: tương đương: xướng: hưng vương ố họa: thi vương) Vừa lỗi ở chữ đứng trước vần (xướng : nõn nường ố họa : nõn nường). Bài phan văn Trị họa bài TÔN PHU NHÂN QUI THỤC của Tôn Thọ Tường, bị phạm lỗi về thể luật (bài xướng : luật trắc - cật ngựa : trắc trắc; bài họa : luật bằng - cài trâm : bằng bằng), v.v...
Phạm luật nhưng sự vi phạm ấy không làm giảm giá trị bài thơ . Cho nên thi nhân không bận tâm là phải. Phạm luật mà hay còn hơn đúng luật mà dở . Nhưng vừa không phạm luật vừa hay thì mới thật là diệu thủ !
Thơ xướng họa là một lối thơ thù tạc, một lối thơ tiêu khiển.
Ðể mua vui với nhau, làng thơ còn bày ra nhiều lối thơ khác nữa . Thông dụng ngang ngang với thơ Canh Họa là thơ Phân Ðề .
PHÂN ÐỀ cũng gọi là thám đề, là chia ra để làm với nhau : người ta viết ra nhiều đề mục vào những mảnh giấy nhỏ gấp lại, mỗi người rút mỗi mảnh, ai trúng đề mục về sự gì, vật gì thì theo đó mà giải thích.
Vận thì hoặc để cho tự do lựa chọn, hoặc hạn một vần nào đó, hoặc dùng cách Phân Vận .
PHÂN VẬN:
Cách phân vận cũng như cách Phân Ðề. Người ta đưa ra một số chữ, mọi người rút lấy một chữ, ai rút trúng chữ nào thì dùng chữ ấy làm vần. Không phải chỉ riêng thơ Phân đề mới dùng cách phân vận. Cách này dùng chung cho mọi loại thơ tiêu khiển. Thơ khi ấy gọi là “phân vận đặc mổ tự” (mỗ là một chữ nào đó. Ví dụ rút được trong chữ hương thì nói “đắc Hương tự” chẳng hạn).
Nói tóm lại những loại thơ phân đề, họa vận cũng như thí thiếp, nghĩ tác, là những loại thơ mà đề mục bị hạn chế. Còn thơ làm ra do hứng, theo thích, thì đề tài được tự do lựa chọn, đề mục được tự do mệnh danh; tự do chọn đề, tự do đặt tên đề, song thân bài vẫn phải sát đề cũng không được lậu đề, phạm đề .
Nói về thơ mà đề bị hạn định, bấy nhiêu tưởng cũng đã tạm đủ. Hễ loại thơ này thông thạo, thì loại kia không còn khó khăn .
(*)Vần Ba(hạnh ba) ở đây, nếu nghiêm khắc thì bị đánh hỏng, vì ba tức là hoa mà vần họa lại dùng ở luận, bị lỗi điệp vận. nhưng vì theo vần quốc ngữ, ba là hoa khác âm khác mặt chữ, thêm văn chương bài thơ khả ái nên được duyệt giả thông qua .
QUÁCH TẤN