賣炭翁
賣炭翁,
伐薪燒炭南山中。
滿面塵灰煙火色,
兩鬢蒼蒼十指黑。
賣炭得錢何所營,
身上衣裳口中食。
可憐身上衣正單,
心憂炭賤願天寒。
夜來城上一尺雪,
曉駕炭車輾冰轍。
牛困人飢日已高,
市南門外泥中歇。
翩翩兩騎來是誰,
黃衣使者白衫兒。
手把文書口稱敕,
迴車叱牛牽向北。
一車炭,千餘斤,
官使驅將惜不得。
半匹紅紗一丈綾,
繫向牛頭充炭直。
Mại thán ông
Mại thán ông!
Phạt tân, thiên thán Nam Sơn trung,
Mãn diện trần hôi yên hoả sắc,
Lưỡng mấn thương thương, thập chỉ hắc,
Mại thán đắc tiền hà sở doanh?
Thân thượng y thường, khẩu trung thực,
Khả liên thân thượng y chính đan.
Tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn.
Dạ lai thành ngoại nhất xích tuyết,
Hiểu giá thán xa triển băng triệt.
Ngưu khốn, nhân cơ, nhật dĩ cao,
Thị nam môn ngoại nê trung yết.
Lưỡng kị phiên phiên lai thị thuỳ?
Hoàng y sứ giả bạch sam nhi.
Thủ bả văn thư, khẩu xưng: "sắc"!
Hồi xa sất ngưu khiên hướng Bắc.
Nhất xa thán trọng thiên dư cân,
Cung sứ khu tương tích bất đắc.
Bán thất hồng sa, nhất trượng lăng
Hệ hướng ngưu đầu sung thán trị.
Bản dịch của Anh Nguyên
Ông bán than!
Núi Nam đốt củi bán than qua ngày.
Mặt ông tro bụi bám đầy,
Tóc như đã bạc, móng tay đen xì.
Bán than tiền để làm gì?
- Trên thân manh áo, miệng thì miếng cơm.
Thương thay, thân tấm áo đơn,
Lo than giá rẻ, lạnh hơn vẫn cầu.
Ngoài thành, đêm tuyết tan đâu,
Xe than, sớm đã bắt đầu bánh lăn.
Trâu đừ, người đói, đường băng,
Cửa nam chợ, nghỉ dẫu rằng bùn nhơ.
Ngựa đâu chạy đến bất ngờ,
Áo vàng áo trắng, bây giờ mới hay:
Sứ ngừng hô lớn: ‘‘Sắc đây’’,
Xe đành quay lại hướng ngay bắc thành.
Ngàn cân than phải nạp nhanh,
Sứ vua đã quyết, chối đành được sao.
The hồng nửa tấm sứ trao,
Cột đầu trâu để thay vào tiền mua!...