|
Đường thi Trung QuốcTrang Tho Vương Duy
#1 |
Vị Thành khúc - Tống Nguyên nhị sứ An Tây 渭城曲-送元二使安西
• Khúc hát Vị Thành - Tiễn Nguyên nhị đi sứ An Tây
渭城曲-送元二使安西
渭城朝雨浥輕塵,
客舍青青柳色新。
勸君更盡一杯酒,
西出陽關無故人。
Vị Thành Khúc
Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần ,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân .
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu ,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân .
Vương Duy
Dịch nghĩa :
Khúc Vị Thành
Tại Vị Thành , mưa sáng làm ướt lớp bụi nhẹ . Quán khách xanh , sắc liễu mới mẻ . Mời bạn uốn cạn thêm một chén rượu nữa , vì đi ra Dương Quan phía tây , bạn sẽ không còn nó cố nhân .
Khúc Vị Thành
Thành Vị mưa mai ướt bụi trần ,
Xanh xanh quán khách, liễu tươi xuân .
Ly bôi một chén , xin mời cạn .
Ra đến Dương Quan , không cố nhân .
Bản dịch Trần Trọng San
Ghi chú :
* Vị Thành : tên đất , thành cũ , nay ở phía đông huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây .
* Dương Quan : tên một cửa quan cũ , nay ở phía tây nam huyện Đôn Hoàng , tỉnh Cam Túc .
Vị Thành mưa sớm mù tăm
Cõi miền bụi ướt thấm dầm ngõ thuôn
Quán mờ liễu thắm xanh buông
Mời anh cạn chén rượu buồn tiễn chân
Tiền trình quan ải tây phân
Đèo truông ra khỏi cố nhân không còn...
(Trích Mùa xuân trong thi ca - Bùi Giáng)
Mượt mà rặng liễu xanh xanh
Bụi rơi buổi sớm Vị Thành mưa bay
Mời anh hãy cạn chén này
Dương Quan đi khỏi biết ai quen mình.
Chước tửu dữ Bùi Địch 酌酒與裴迪
• Rót rượu mời Bùi Địch
酌酒與裴迪
酌酒與君君自寬,
人情翻覆似波瀾。
白首相知猶按劍,
朱門先達笑彈冠。
草色全經細雨濕,
花枝欲動春風寒。
世事浮雲何足問,
不如高臥且加餐
Chước tửu dữ Bùi Địch
Chước tửu dữ quân quân tự khoan
Nhân tình phiên túc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan
Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp
Hoa chi dục động xuân phong hàn
Thế sự phù vân hà túc vấn
Bất như cao ngọa thả gia san
Dịch nghĩa
Rót rượu mời bạn, xin bạn thong thả
Nhân tình tráo trở như sóng nhồi
Đầu bạc biết nhau lâu mà còn chống gươm nhìn
Cửa quyền quý người làm quan cười kẻ chưa ra làm quan
Màu cỏ hoàn toàn được mưa li ti làm ướt đẫm
Cành hoa vừa muốn nở thì đã bị gió xuân lạnh lẽo thổi
Chuyện đời như mây trôi không đáng hỏi đến
Không bằng cứ nằm ườn ra còn ăn thêm nhiều vào
Chuốc anh chén rượu để anh vui
Lật lọng, đời như sóng mặt khơi
Đầu nạc biết nhau còn giữ miếng
Cửa son tới trước đã khinh người
Đầm đìa sắc cỏ nhờ mưa gội
Rung động cành hoa bị gió thui
Mây nổi việc đời chi đáng hỏi
Ăn no, nằm khểnh chẳng rồi hơi
Mời anh cạn chén cho nguôi
Tình người tráo trở sóng giồi khác đâu
Tuốt gươm nhắm bạn bạc đầu
Hợm mình sớm đạt khinh nhau muộn thành
Mưa dần ướt đẫm cỏ xanh
Gió xuân lạnh lẽo đón cành hoa rung
Việc đời mây bổng chớ mong
Sao bằng nằm khểnh với cùng ăn no
Mời anh cạn chén để nguôi sầu,
Tráo trở tình đời khác sóng đâu.
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm,
Cửa son hiển đạt lại cười nhau.
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới,
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu.
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi,
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Rót rượu mời anh, anh uống thôi!
Lòng người tráo trở, sóng sông dồi.
Chống gươm, tóc bạc cùng quen biết,
Rũ mũ, lầu son chớ để dôi!
Màu cỏ ướt đầm mưa bụi phủ,
Cành hoa run lạnh gió xuân trôi.
Việc đời mây nổi xin đừng hỏi,
Nằm khểnh ăn no cũng thích rồi!
Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997
Bản dịch của Đông A
Rót rượu mời Bùi Địch
Nâng chén mời anh anh tự khoan
Tình người tráo trở sóng giồi lan
Bạc đầu quen biết còn giương kiếm
Phú quý thành công diễu bạn quèn
Sắc cỏ toàn thường mưa móc đẫm
Cành hoa khẽ động gió xuân hàn
Mây trôi thế sự mong chi nữa
Sao chẳng nằm dài lại được ăn
Tây Thi vịnh 西施詠
• Vịnh Tây Thi
西施詠
艷色天下重,
西施寧久微。
朝為越溪女,
暮作吳宮妃。
賤日豈殊眾,
貴來方悟稀。
邀人傅脂粉,
不自著羅衣。
君寵益驍態,
君憐無是非。
當時浣紗伴,
莫得同車歸。
持謝鄰家子,
效顰安可希。
Tây Thi vịnh
Diễm sắc thiên hạ trọng,
Tây Thi ninh cửu vi.
Triêu vi Việt khê nữ,
Mộ tác Ngô cung phi.
Tiện nhật khởi thù chúng,
Quý lai phương ngộ hy.
Yêu nhân phó ,
Bất tự trước la y.
Quân sủng ích thái,
Quân liên vô thị phi.
Đương thì hoán sa bạn,
Mạc đắc đồng xa quy.
Trì tạ lân gia tử,
an khả hy.
Dịch nghĩa
Vì thiên hạ trọng sắc đẹp,
Nên nàng Tây Thi lẽ nào ở trong cảnh nghèo.
Buổi sớm còn là cô gái (giặt lụa) bên khe (Nhược Da) nước Việt,
Buổi chiều đã là phi tần trong cung vua Ngô.
Thuở hàn vi nào đâu có khác gì mọi người,
Khi sang trọng rồi mới biết là hiếm có.
Nàng sai người thoa phấn thơm,
Nàng không tự mặc lấy áo lụa.
Được vua yêu quý, nàng càng thêm kiêu,
Vua thương không kể gì điều phải trái.
Những cô bạn thời ấy cũng giặt lụa,
Chẳng ai được ngồi cùng xe với nàng về cung vua.
Nàng nhắn đáp cô gái nhà hàng xóm,
Bắt chước nhăn mặt, đâu có mong được gì?
Tây Thi còn gọi là Tây Tử, họ Thi tên Di Quang, có nhan sắc, con của một người bán củi ở núi La nước Việt. Nàng thường giặt lụa ở khe Nhược Da (ở phía nam huyện Chư Kỵ tỉnh Chiết Giang), được Việt vương Câu Tiễn dùng làm kế mỹ nhân dâng Ngô vương Phù Sai, khiến Phù Sai say đắm, vì thế Câu Tiễn có cơ hội diệt được nước Ngô.
Dịch thơ :
Trần Trọng San dịch
Vịnh Tây Thi
Thiên hạ còn yêu vì sắc đẹp ,
Tây Thi há mãi chịu hàn vi ?
Sáng còn là gái bên khe Việt ,
Chiều đã sang Ngô , làm quí phi .
Lúc nghèo , há khác chi người khác ;
Giàu sang , mới rõ hiếm ai bì .
Phấn son cũng vậy người trao chuốt ;
Mặc áo , nhờ tay kẽ giúp vì .
Vua mến , lại càng thêm vẽ đẹp ;
Vua thương , chẳng kể thị cùng phi .
Bạn bè giặt lụa bên khe trước ,
Không được chung xe đón rước về .
Nhắn lời bạn gái bên hàng xóm :
Bắt chước nhăn mày , phỏng ích chi ?
Sắc đẹp thiên hạ trọng
Há mãi hèn Tây Thi
Sớm bên khe Việt nữ
Chiều chính cung Ngô phi
Lúc nghèo đâu khác lạ
Khi sang quả hữu hi
Sai người thoa hương phấn
Chẳng tự mặc xiêm y
Vua yêu càng duyên dáng
Vua quý mặc thị phi
Bạn thuở xưa giặt lụa
Về cùng xe hòng chi
Nhắn cô ả bên xóm
Nhăn mặt mong được gì
Thế gian sắc đẹp ai bì
Tây Thi không nhẽ hàn vi suốt đời
Sớm còn gái Việt bên ngòi,
Cung Ngô tối đã lên ngồi cạnh vua.
Lúc hèn, ai chẳng hơn thua,
Khi sang mới biết đời chưa mấy người.
Phấn son gọi kẻ tô, giồi,
Áo là em mặc có người xỏ tay.
Vua yêu càng lắm vẻ hay,
Vua thương, phải trái mặc bay sá gì.
Giặt sa những bạn đương thì,
Cùng xe chẳng được đi về với ta.
Xin van cô ả bên nhà,
Cũng đòi "nhăn mặt" khó mà như nhau.
Quá Hương Tích tự 過香積寺
• Qua chùa Hương Tích
過香積寺
不知香積寺,
數里入雲峰。
古木無人徑,
深山何處鐘。
泉聲咽危石,
日色冷青松。
薄暮空潭曲,
安禪制毒龍。
Quá Hương Tích tự
Bất tri ,
Sổ lý nhập vân phong.
Cổ mộc vô nhân kính,
Thâm sơn hà xứ chung.
Tuyền thanh yết nguy thạch,
Nhật sắc lãnh thanh tùng.
Bạc mộ không đàm khúc,
An thiền chế .
Dịch nghĩa
Không biết chùa Hương Tích ở đâu ?
Đi mấy dặm lên đến chỗ núi mây cao ngất.
Cây cổ thụ mọc um tùm không có vết đường tắt người qua lại.
Núi sâu, có tiếng chuông ở đâu ngân lên ?
Tiếng nước suối đập vào gành đá nghe như bị nghẹn lại.
Sắc mặt trời có vẻ lạnh lẽo luồn qua lùm thông xanh.
Chiều hôm vắng vẻ trên khu đầm nước.
Muốn chế ngự con rồng độc ác thì phải qui y nơi cửa thiền.
Qua chùa Hương Tích
Chùa Hương nào có thấy
Vài dặm mây non trùng
Cây cổ không đường lối
Núi sâu đâu tiếng chuông
Nước khe đập nghẹn đá
Bóng nắng lạnh xanh tùng
Chiều tận đầm hoang vắng
Trị rồng bằng phép không
Đông A dịch
QUA CHÙA HƯƠNG TÍCH
Chẳng hay Hương Tích chùa đâu,
Đi đôi ba dặm, lên đầu non cao.
Cây um đồng tắt vắng teo,
Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa ?
Suối kêu gành đá ria bờ,
Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh.
Trời hôm tấc dạ thanh minh,
Quy y đạo Phật sửa mình là hơn.
TẢN ĐÀ dịch
Chẳng hay Hương Tích ở nơi đâu
Mấy dậm mây lồng ngọn dốc cao
Cây cỏ quạnh hiu đường núi vắng
Chuông chùa văng vẳng chốn khe sâu
Suối tuôn róc rách len dòng đá
Thông nhuốm lạnh lùng xế bóng câu
Thanh thoát cõi lòng, đầm một giải
Độc long hàng phục phép Thiền mầu
Chẳng hay Hương Tích chùa đâu
Trèo lên mấy dặm núi cao mây hồng
Một đường cây cổ vắng không
Chuông đâu nghe vẳng chỗ cùng non xa
Tiếng khe bên đá tuôn ra
Vẻ trời lạnh lẽo bơ phờ cây thông
Chiều hôm đầm vắng uốn vòng
Phép thiền mầu nhiệm độc long nép mình
Chẳng biết chùa Hương Tích
Non mây mấy dặm sâu
Rừng già không lối lách
Núi thẳm vẳng chuông đâu
Đá dựng suối nghẹn tiếng
Thông xanh nắng lạnh màu
Đầm không trời chạng vạng
Niềm tục gột lầu lầu
Quy Tung Sơn tác 歸嵩山作
• Làm khi về Tung Sơn
歸嵩山作
清川帶長薄,
車馬去閑閑。
流水如有意,
暮禽相與還。
荒城臨古渡,
落日滿秋山。
迢遞嵩高下,
歸來且閉關。
Quy Tung Sơn tác
Thanh xuyên đới trường bạc,
Xa mã khứ nhàn nhàn.
Lưu thuỷ như hữu ý,
Mộ cầm tương dữ hoàn.
Hoang thành lâm cổ độ,
Lạc nhật mãn thu sơn.
Điều đệ Tung cao hạ,
Quy lai thả bế quan.
Dịch nghĩa
Sông xanh chảy quanh rừng cây cỏ rậm rì
Ngựa xe qua lại thong thả
Nước chảy như có tình ý
Chim buổi chiều cùng ta bay về
Thành hoang nhìn ra hướng bến đò cũ
Trời lặn đầy trên núi mùa thu
Xa xa dãy Tung Sơn cao thấp (chạy dài)
Về tới rồi chắc là đóng cửa
Tung Sơn là một trong Ngũ nhạc, cách 10 dặm phía bắc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam. Núi có hai quả, đông là Thái Thất, tây là Thiếu Thất.
Suối trong quanh giữa rừng thưa
Ngựa xe đi đó từ từ thẩn thơ
Nước trôi có ý đón chờ
Chim hôm dường muốn đợi ta cùng về
Thành hoang cạnh bến đò kia
Bóng chiều đã giọi khắp rìa núi thu
Non Tung thăm thẳm nhấp nhô
Về đây đóng cửa để tu mới màu
Sông trong quanh bụi rậm
Ung dung xe ngựa đi
Như quen dòng nước đón
Có bạn cánh chim về
Thành hoang kề bến cũ
Bóng xế ngập non tê
Dài dặc triền Tung lĩnh
Then cài gác thị phi
Suối biếc rừng thưa chảy một dòng
Ngựa xe ta đến ruổi thong dong
Chim hôm xao xác chừng như đợi
Nước bạc lững lờ có ý trông
Chiều ngả non thu màn nắng nhạt
Bóng hoang bến cũ dẫy thành không
Núi Tung ngất ngưởng cao thăm thẳm
Đóng cửa từ nay lánh bụi hồng.
Làm khi về Tung Sơn
Suối trong xuyên nội cỏ
Xe ngựa chạy nhàn du
Nước chảy như chào đón
Chim hôm dường đợi chờ
Thành hoang trên bến cũ
Chiều đổ khắp ngàn thu
Vời vợi non Tung đó
Về đây đóng cửa tu
Đông A dịch
Trả lời Bùi Ðịch
Mênh mang nước lạnh rộng trôi
Xanh xanh mù mịt kín trời mưa thu
Anh thãm hỏi núi Nam ý
Tâm tôi ngoài đám mây mờ nào hay
Ðông A dịch
Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông
huynh đệ 九月九日憶山東兄弟 • Ngày trùng cửu nhớ huynh đệ ở Sơn Đông
|
Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ
Độc tại dị hương vi dị khách
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân
Dao chi huynh đệ đăng cao xứ
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân
Dịch nghĩa :
Một mình làm khách lạ nơi đất lạ
Mỗi khi trời đẹp càng nhớ người thân bội phần
Tuy xa nhưng biết nơi anh em đang lên núi chơi đấy
Ai cùng ngắt cành thù du cả , chỉ thiếu có một người
Dịch thơ :
Ngày 9 tháng 9 nhớ anh em ở Sơn Đông
Đất lạ đơn côi làm khách lạ
Mỗi lần tiết đẹp nhớ nhà hoài
Vẫn hay huynh đệ lên cao đấy
Đều cắm thù du thiếu một người
Đông A dịch
Đất lạ, ta làm người khách lạ
Nhớ người thân quá, buổi trời tươi
Tuy xa, biết mọi người lên đấy
Cài nhánh thù du, thiếu một người…
Sơn trung 山中 • Trong núi
山中
荊谿白石出,
天寒紅葉稀。
山路元無雨,
空嵐濕人衣。
Sơn trung
Kinh khê bạch thạch xuất,
Thiên hàn hồng diệp hy.
Sơn lộ nguyên vô vũ,
Không thuý thấp nhân y.
Dịch nghĩa
Mặt trời mọc trên dòng suối hiểm trở
Trời lạnh, lá đỏ thưa thớt
Trên con đường núi không có mưa
Hơi núi làm ướt áo người
Dịch thơ :
Trong núi
Rạng đông khe hiểm trở
Lá đỏ lạnh trời thưa
Ðường núi mưa nào có
Khí lam đẫm áo chưa
Ðông A dịch ...
Dữ Lư viên ngoại Tượng quá Thôi xử sĩ Hưng Tông lâm đình 與盧員外象過崔處士興宗林亭 • Cùng viên ngoại Lư Tượng qua nhà ở trong rừng của xử sĩ Thôi Hưng Tông
與盧員外象過崔處士興宗林亭
綠樹重陰蓋四鄰,
青苔日厚自無塵。
科頭箕踞長松下,
白眼看他世上人。
Dữ Lư viên ngoại Tượng quá Thôi xử sĩ Hưng Tông lâm đình
Lục thụ trùng âm cái tứ lân
Thanh đài nhật hậu tự vô trần
Khoa đầu cơ cứ trường tùng hạ
khán tha thế thượng nhân.
Dịch nghĩa
Cây xanh lớp lớp che mát cả bốn phía,
Rêu xanh ngày một dày, tự nó đã không có bụi rồi.
Dưới gốc cây thông cao, đầu không khăn, ngồi xoạc cẳng,
Nhìn người đời bằng con mắt không ganh đua.
Dịch thơ :
Cùng với viên ngoại Lô Tượng qua nhà
ở trong rừng của xử sĩ Thôi Hưng Tôn
Cây xanh lồng bóng rợp bao phần
Rêu biếc lớp dầy sạch bụi trần
Ngồi duỗi đầu trơ tùng bóng cả
Trắng không hai mắt ngó tha nhân
Đông A dịch
Cây cao lớp lớp bóng lồng,
Rêu xanh mặt đất, sạch không bụi trần.
Dưới tùng, ngồi ruỗi, đầu trần,
Trông ai mắt trắng, tần ngần như không.
Cây tươi che mát khắp chung quanh,
Sạch bụi làn rêu lớp lớp xanh.
Nằm dưới gốc thông, đầu xoã tóc,
Nhìn đời giương mắt trắng tinh anh.
Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997
輞川閑居
一從歸白社,
不復到青門。
時倚簷前樹,
遠看原上村。
青菰臨水映,
白鳥向山翻。
寂寞於陵子,
桔槔方灌園。
Võng Xuyên nhàn cư
Nhất tòng quy ,
Bất phục đáo .
Thời ỷ thiềm tiền thụ,
Viễn khan nguyên thượng thôn.
Thanh cô lâm thuỷ ánh,
Bạch điểu hướng sơn phiên.
Tịch mịch tử,
Kết cao phương quán viên.
Dịch nghĩa
Từ khi quay trở về Bạch Xã
Chưa trở lại chỗ Thanh Môn
Có lúc dựa vào gốc cây trước mái nhà
Nhìn xa xa thôn xóm ở trên mé đồi
Cỏ cô nhìn xuống nước ánh chiếu
Chim trắng vọng mé núi lượn
Người vốn tịch mịch
Lấy nước giếng tưới vườn
Võng Xuyên nhàn cư 輞川閑居 • Nhàn cư ở Võng Xuyên
Dịch thơ :
NHÀN CƯ Ở VÕNG XUYÊN
Một theo về Bạch Xã
Không trở lại Thanh Môn
Khi tựa cây bên cửa
Thoáng trên đồng bóng thôn
Cỏ xanh soi ánh nước
Chim trắng bay về non
Tịch mịch Ư Lăng chốn
Quay gầu nước tưới vườn
Đông A dịch
Từ khi Bạch Xã trở về
Thanh Môn cửa ấy chẳng hề vãng lai
Trước thềm có lúc dựa cây
Xa trông làng xóm ở ngay trên đồi
Cỏ cô xanh ánh nước trôi
Non cao chim trắng loi thoi bay về
Ư Lăng hiu quạnh khác chi
Loay hoay lấy nước giếng kia tưới vườn
- Bạch Xã : nơi ở của Vương Duy ở Vơng Xuyên, đặt theo tên Bạch Liên Xã do Tuệ Viễn pháp sư đời Tấn lập .
- Thanh Môn : tên cửa phía đông thành Trường An
Tống Kỳ Vô Tiềm lạc đệ hoàn hương 送綦毋潛落第還鄉 • Ðưa Kỳ Vô Tiềm thi hỏng trở về quê
送綦毋潛落第還鄉
聖代無隱者,
英靈盡來歸,
遂令東山客,
不得顧採薇。
既至金門遠,
孰雲吾道非?
江淮度寒食,
京洛縫春衣。
置酒長安道,
同心與我違;
行當浮桂棹,
未幾拂荊扉。
遠樹帶行客,
孤城當落暉。
吾謀適不用,
勿謂知音稀?
Tống Kỳ Vô Tiềm lạc đệ hoàn hương
Thánh đại vô ẩn giả,
Anh linh tận lai quy.
Toại linh khách,
Bất đắc cố .
Ký dĩ viễn,
Thục vân ngô đạo phi.
Giang Hoài độ ,
Kinh Lạc phùng xuân y.
Trí tửu Trường An đạo,
Ðồng tâm dữ ngã vi.
Hành đương phù quế trạo,
Vị kỷ phất .
Viễn thụ đới hành khách,
Cô thành đương lạc huy.
Ngô mưu thích bất dụng,
Vật vị tri âm hy.
TỐNG CƠ VÔ TIỀM LẠC ĐỆ HOÀN HƯƠNG
Thánh đại vô ẩn giả,
Anh linh tận lai quy.
Toại linh Ðông Sơn khách,
Bất đắc cố thái vi.
Ký dĩ kim môn viễn,
Thục vân ngô đạo phi.
Giang Hoài độ Hàn thực,
Kinh Lạc phùng xuân y.
Trí tửu Trường An đạo,
Ðồng tâm dữ ngã vi.
Hành đương phù quế trạo,
Vị kỷ phất kinh phi.
Viễn thụ đái hành khách,
Cô thành đương lạc huy.
Ngô mưu thích bất dụng,
Vật vị tri âm hi
Dịch nghĩa:
Dịch nghĩa
Ðời thịnh, không có người ở ẩn
Những người tài giỏi đều tụ tập về (chốn kinh đô)
Khiến cho người khách ở Ðông Sơn
Không thể chăm chú mà hái rau vi được
Ðã đi tới chốn cửa vàng xa xôi kia rồi
Mà ai còn nói đạo của ta không đúng
Lúc ở Giang Hoài đón tiết hàn thực
Nơi Kinh Lạc may áo mùa xuân
Bày tiệc rượu ở khu Trường An
Tôi và anh đã hiểu lòng nhau
Ðường về chèo quế bồng bềnh
Không lâu nữa anh sẽ đến cổng tre
Cây cối xa xăm che mát cho khánh đi đường
Nắng chiều đang chiếu xuống thành quách quạnh hiu
Tài trí mưu lược của anh chưa được dùng
Nhưng chớ cho là hiếm hoi kẻ tri âm
(Năm 721)
Thịnh đời, khó kẻ ẩn danh
Đông Sơn bỏ hái rau xanh độ ngày
Ùng ùng khách giỏi anh tài
Xa xôi trực chỉ tường đài Kinh Đô
Bốn phương tám hướng đổ xô
Vị chi mấy kẻ được vô Cửa Vàng
Tiệc bày tiễn bạn Trường An
Lúc xưa Kinh Lạc áo Xuân đón chào
Giang Hoài Hàn thực đã lâu
Đón hoa tuyết lạnh cũng bao năm rồi
Rượu nầy cách biệt ngăn đôi
Anh về chốn cũ xa nơi thị thành
Đường quê chèo quế, tre xanh
Làng thôn, bóng mát hửu tình nhẹ đưa
Tài anh chẳng được kẻ ưa
Cũng đừng tự trách người chưa hiểu mình.
Thanh Khê 青谿 • Thanh Khê
青谿
言入黃花川,
每逐青溪水。
隨山將萬轉,
趣途無百裡。
聲喧亂石中,
色靜深松裡。
漾漾泛菱荇,
澄澄映葭葦。
我心素已閒,
清川澹如此。
請留盤石上,
垂釣將已矣。
THANH KHÊ
Ngôn nhập Hoàng Hoa xuyên,
Mỗi trục thanh khê thủy .
Tùy sơn tương vạn chuyển,
Thú đồ vô bách lý.
Thanh huyên loạn thạch trung,
Sắc tĩnh thâm tùng lý .
Dạng dạng phiếm lăng hạnh,
Trừng trừng ánh giả vĩ .
Ngã tâm tố dĩ nhàn,
Thanh xuyên đạm như thử .
Thỉnh lưu bàn thạch thượng,
Thùy điếu tương dĩ hỉ .
Dịch nghĩa:
Thanh khê
Có lời rằng vào sông Hoàng Hoa,
Sẽ lần ra được giòng nước khe Thanh.
Khe nước chảy quanh co uốn khúc theo hình thế
núi non,
Chạy dài gần trăm dặm .
Tiếng nước đập ầm ầm trên mỏm đá,
Cảnh sắc tĩnh mịch trong rừng thông âm u .
Rau lăng,rau hạnh nổi bập bềnh,
Cây lau, cây sậy soi bóng trên làn nước trong trẻo.
Lòng ta vốn ưa thích thanh nhàn,
Giòng sông xanh êm ả như thế.
Xin mời ngồi trên phiến đá kia,
Buông chiếc cần câu mà quên lãng việc đời.
Nói vào suối Hoàng hoa len lỏi
Dọc Thanh khê một lối đến cùng
Quanh co theo núi trập trùng
Độ chừng trăm dặm một vùng tươi xanh
Tiếng huyên náo nước quanh đá chảy
Dưới bóng tùng hết thảy lặng im
Chồng chềnh rau cỏ êm đềm
Sậy lau ánh nước bóng chìm miên man
Lòng ta vẫn ưa nhàn đã sẵn
Thấy thanh xuyên lặng hẳn thế kia
Ngồi trên bàn thạch bên khe
Buông câu nhử cá có gì là hơn
Vị Xuyên điền gia 渭川田家
• Cảnh nhà nông ở Vị Xuyên
渭川田家
斜光照墟落,
窮巷牛羊歸。
野老念牧童,
倚杖候荊扉。
雉雊麥苗秀,
蠶眠桑葉稀。
田夫荷鋤立,
相見語依依。
即此羨閒逸,
悵然吟式微。
VỊ XUYÊN ĐIỀN GIA
Tà quang chiếu khư lạc,
Cùng hạng ngưu dương quy.
Dã lão niệm mục đồng,
Ỷ trượng hậu kinh phi.
Trĩ cấu mạch miêu tú,
Tàm miên tang diệp hi.
Ðiền phu hà sừ chí,
Tương kiến ngữ y y.
Tức thử tiện nhàn dật,
Trướng nhiên ngâm Thức vi
Dịch nghĩa:
Cảnh nhà nông ở Vị Xuyên
Ánh nắng chiều chiếu xuống xóm làng,
Trong hẻm sâu trâu dê đang trở về.
Ông lão nhà quê trông chờ trẻ chăn trâu,
Chống gậy đứng nơi cổng tre.
Chim trĩ kêu,lúa mạch tốt tươi,
Tằm đã ngủ, lá dâu còn lại lưa thưa.
Người nông dân vác cuốc tới,
Gặp nhau chuyện vãn như thường ngày.
Ðó chính là ưa chuộng đời sống an nhàn,
Thanh thản mà hát bài ca Thức vi.
Bóng tà chiếu xuống hương thôn
Trâu dê ngõ hẻm đã dồn về xong
Ông già mong đợi mục đồng
Cửa sài chống gậy đứng trông ở ngoài
Trĩ kêu ngọn lúa tốt tươi
Tằm đà yên ngủ dâu còi lá thưa
Điền phu vác cuốc chân đưa
Thấy nhau trò chuyện cũng như ngày thường
Đó là nhàn dật rõ ràng
Thẩn thơ hát khúc dịu dàng "Thức vi"
Nắng chiều nghiêng dọi xóm quê
Ngõ sâu đủng đỉnh trâu dê về chuồng
Cụ nhà quê thương nuông lũ mục
Gậy kề bên chờ chực cổng ngoài
Trĩ kêu bông lúa mạch dài
Dâu khan ngủ miiết con ngài đợi dâu
Mấy anh điền tốt gặp nhau
Cuốc trên vai góp mấy câu tầm phào
Cảnh nhàn ấy ai nào chả chuốc?
Mình ngậm ngùi ca khúc ""
Nguồn: Vương Duy thi tuyển, Giản Chi tuyển dịch, NXB Văn học, 1996
Tương tư 相思 • Tương tư
相思
紅豆生南國,
春來發幾枝。
願君多采擷,
此物最相思。
TƯƠNG TƯ
Hồng đậu sinh nam quốc
Xuân lai phát kỷ chi
Nguyện quân đa thái hiệt
Thử vật tối tương tư
Dịch nghĩa :
Ðậu đỏ sinh ở phương nam
Mùa xuân đến nở bao cành rồi ?
Xin bác hái cho nhiều
Vật ấy rất gợi cho chuyện nhớ thương nhau
Ðậu đỏ : một giống đậu nhỏ màu son rất đẹp , dùng làm đồ trang sức , người xưa cho nó là tượng trưng của tình yêu
Dịch thơ :
NHỚ NHAU
Ðậu hồng sinh ở miền nam
Ðến xuân này lại nở thêm mấy cành
Lượm về nhiều nhé hỡi anh
Giống này mới thật nặng tình tương tư
Phương Nam đậu đỏ sinh sôi
Mùa xuân đến, mấy cành rồi nẩy xanh?
Hái cho nhiều nhé nghe anh!
Giống này nó rất gợi tình nhớ nhau.
Trúc Lý quán 竹里館 • Quán Trúc Lý
竹里館
獨坐幽篁裡,
彈琴復長嘯。
深林人不知,
明月來相照。
Trúc Lý Quán
Độc tọa u hoàng lý ,
Đàn cầm phục trường khiếu .
Thâm lâm nhân bất tri ,
Minh nguyệt lai tương chiếu .
Vương Duy
Dịch nghĩa :
Quán Trúc Lý
Một mình ngồi trong bụi tre tối tăm , ta gẩy đàn rồi lại huýt sáo . Trong rừng sâu , người không biết được ; chỉ có trăng sáng đến chiếu lên mình .
Dịch thơ :
Quán Trúc Lý
Một mình ngồi giữa trúc ,
Gẩy đàn huýt sáo chơi .
Rừng sâu , không kẻ biết ,
Trăng sáng chiếu lên người .
Bản dịch Trần Trọng San
Một mình trong bụi trúc
Huýt sáo và dạo đàn
Rừng sâu nào ai biết?
Chỉ trăng soi ánh vàng.
Một mình giữa đám rừng tre
Đánh đàn cao hứng hát nghe một bài
Rừng sâu nào có ai hay
Bóng trăng đâu đến chiếu ngay vào mình
Riêng ngồi trong luỹ tre xanh
Tay đàn miệng huýt một mình mình vui
Rừng sâu ai biết là ai
Chỉ vầng trăng sáng đến soi bên mình
Ghi chú :
_ Trúc Lý quán : quán Dặm trúc ,ở trong Vơng Xuyên trang của Vương Duy
Nam mang
Khinh chu nam mang khứ
Bắc mang miểu nan tức
Cách phủ vọng nhân gia
Viễn viễn bất tương thức
Dịch Thõ
Ðồi Nam
Thuyền nhẹ rời đồi nam
Ðồi bắc sóng khó dừng
Cách bờ nhà xa ngắm
Vời vợi chẳng quen chung
Vũ Thế Ngọc
Phụng ký Vi thái thủ bộ
Hoang thành tự tiêu tác
Vạn lý sơn hà không
Thiên cao thu nhật huynh
Liêu lệ văn quy hồng
Hàn đường ánh suy thảo
Cao quán lạc sơ đồng
Lâm thử tuế phương yến
Cố ảnh vịnh bi ông
Cố nhân bất khả kiến
Tịch mịch bình lâm đông
Dịch Thơ
Phụng gửi Vi thái thủ bộ
Thành hoang tàn xơ xác
Núi sông vạn dặm không
Thênh thang trời thu rộng
Não nùng vang tiếng hồng
Hồ lạnh soi cỏ úa
Thềm cao rụng lá hồng
Cuối cùng năm tháng xế
Nhìn bóng mà xót thương
Cố nhân nào còn thấy
Tịch mịch mé rừng đông.
Vũ Thế Ngọc
Sơn thù du
Châu báu sơn hạ khai
Thanh hương lãnh cách phát
Hạnh hữu tùng quế hoa
Song tiề hướng thu nguyệt
Dịch Nghĩa
Châu báu như bày dưới núi
Hương thanh ngát, mát lạnh bay lên
Vui gặp gỡ những chùm hoa quế
Ở song cửa hướng ra ánh trăng mùa thu
Dịch Thơ
Hoa Thù Du núi
Châu ngọc bày dưới núi
Hương lành ngát lạnh dâng
Vui góp từng chùm quế
Trăng thù đầy trước song
Vũ Thế Ngọc
Tích vũ Vơng Xuyên trang tác
Tích vũ không lâm yên hỏa trì
Chung lê xuy thận hướng đông phiên
Mạc mạc thủy điền phi bạch lộ
Âm âm hạ mộc chuyển hoàng ly
Sơn trung tập tĩnh quan triêu hoa
Tùng hạ thanh trai triết lộ quì
Dã lão dữ nhân tranh tịch bãi
Hải âu hà sự cánh tương nghi?
Dịch Thơ :
Sáng tác sau cơn mưa ở Vơng Xuyên
Rừng vẳng sau mưa khói mịt mùng
Hơi lê bếp lửa tỏa trên nương
Mờ mờ ruộng nước cò bay trắng
Thấp thoáng bờ cây chim vấn vương
Giữa núi bình yên nhìn nụ sớm
Dưới thông trai lại nhặt thuỳ sương
Lão quê đã chán trò thua được
Hà cớ chim âu vẫn ngại ngùng?
Bản dịch: Vũ Thế Ngọc
Tống Nguyên nhị sứ An Tây
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương quan vô cố nhân
Dịch Thơ:
Tiễn Nguyên nhị đi sứ An Tây
Vị Thành mưa sớm bụi bay
Phố xanh sao ướt đẫm màu liễu tươi
Mời anh cạn chén ly bôi
Dương Quan qua khỏi ai người cố nhân
Vũ Thế Ngọc
Tức phu nhân
Mạc dĩ kim thời sủng
Năng vong cựu nhật ân
Khán hoa mãn nhãn lệ
Bất cộng Sở vương ngôn.
Dịch Nghĩa
Đâu phải vì sự sủng ái bây giờ mà có thể quên được ân tình ngày xưa. Ngắm hoa mà lệ chứa chan đôi mắt, không nói một lời nào với vua nước Sở.
Chú thích: Tức phu nhân nguyên là vợ vua nước Tức. Vua nước Sở diệt nước Tức, chiếm đoạt Tức phu nhân. Nàng phải lấy vua nước Sở, sinh được hai con, nhưng suốt đời không nói một lời nào với vua.
Dịch Thơ
Tức phu nhân
Dẫu ngày nay sủng ái
Ơn xưa há dễ quên
Ngắm hoa đôi mắt lệ
Vua nài vẫn lặng yên.
Thù Tri phiến
Kết thực hồng thả lục
Phục như hoa tái khai
Sơn trung thảng lưu khách
Trí thử Phù Dung bôi
Dịch Thơ
Bờ Thù Tri
Kết quả đỏ rồi xanh
Như hoa nở thêm chung
Trong núi như lưu khách
Bầy sẵn chén Phù Dung
Vũ Thế Ngọc
Vơng Xuyên nhàn cư
Nhất tòng qui Bạch Xã
Bất phục đáo Thanh Môn
Thời ỷ thiềm tiền thụ
Viễn khan nguyên thượng thôn
Thanh cô lâm thủy ánh
Bạch điểu hướng sơn phiên
Tịch mịch Ư Lăng tử
Kết cao phương quán viên.
Dịch Thơ
Nhàn cư ở Vơng Xuyên
Một theo về Bạch Xã (1)
Không trở lại Thanh Môn (2)
Khi tựa cây bên cửa
Thoáng trên đồng bóng thôn
Cỏ xanh soi ánh nước
Chim trắng bay về non
Tịch mịch Ư Lăng chốn
Quay gầu nước tưới vườn
Đông A
(1) Bạch Xã : nơi ở của Vương Duy ở Vơng Xuyên, đặt theo tên Bạch Liên xã do Tuệ Viễn pháp sư đời Tấn lập .
(2) Thanh Môn : tên cửa phía đông thành Trường An
L
Văn Mai quán
Văn mai tài vi lương
Hương mao kết vi vũ
Bất tri đông lý vân
Khứ tác nhân gian vũ
Dịch Thơ
Quán Văn Mai
Mai đào chặt làm xà
Cỏ thơm bện là mái
Nào biết mây từ đó
Đi làm mưa thế nhân
Vũ Thế Ngọc
Xuân dạ Trúc Đình tặng Tiền thiếu phủ quy Lam Điền
Dạ tĩnh quần động tức
Thời văn cách lâm khuyển
Tức ức sơn trung thời
Nhân gia giản tây viễn
Tiện quân minh phát khứ
Thái quyết khinh hiên miện
Dịch Thơ:
Đêm xuân tại Trúc Đình tặng Tiền thiếu phủ về Lam Điền
Đêm yên muôn vật nghỉ ngơi
Giật mình chó sủa rừng ngoài xa xôi
Nhớ ra đang ở núi đồi
Nhà ai xa thẳm bên đồi phía Tây
Tiễn anh mai sớm chia tay
Về vườn quan chức từ nay coi thường
Vũ Thế Ngoc
---------------
Câu cuối trong nguyên bản: "hái rau quyết" chỉ sự về vườn; "coi thường mũ áo" chỉ sự từ quan.
Ý kiến bạn đọcVui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
|
|