Thể thơ: Ngũ ngôn trường thiên (thời kỳ: Cổ đại)
道逢餓夫
踽踽誰家子 衣破笠不完 倏從南方來 向我前頭嘆 問子何所憂 自云長艱難 家貧藝醫卜 我來走長安 長安無病人 群醫如邱山 零丁望歸路 極目雲漫漫 二日典空篋 三日輟饔餐 逢人但誤喜 欲言聲屢乾 咿子且休淚 一饋與子歡 悠悠逆旅中 百年誰自寬 慢也莫驟咽 暴盈非壯顏
Đạo phùng ngã phu
Củ củ thuỳ gia tử Y phá lạp bất hoàn Thúc tòng nam phương lai Hướng ngã tiền đầu thán Vấn tử hà sở ưu Tự vân trường gian nan Gia bần nghệ y bốc Ngã lai tẩu Trường An Trường An vô bệnh nhân Quần y như khâu sơn Linh đinh vọng quy lộ Cực mục vân man man Nhị nhật điển không khiếp Tam nhật xuyết ung xan Phùng nhân đãn ngộ hỉ Dục ngôn thanh lũ can Y tử thả hưu lệ Nhất quỹ dữ tử hoan Du du nghịch lữ trung Bách niên thuỳ tự khoan Mạn dã mạc sậu yến Bạo doanh phi tráng nhan. | Trên đường gặp người đói (Người dịch: Đặng Thế Kiệt)
Lủi thủi ai đi đó, Áo rách nón tả tơi. Chợt từ phía nam lại, Ðến ta than mấy lời. Hỏi ông có gì lo, Nói rằng khó khăn mãi. Nhà nghèo nghề thuốc bói, Lang thang đến kinh đô. Kinh đô không người bệnh, Thầy thuốc mọc như nấm. Linh đinh ngóng lối về, Quê nhà mây thăm thẳm. Hai ngày, đem cầm tráp, Ba ngày, ăn cũng thôi. Gặp người chỉ mừng hụt... Nói thêm đã nghẹn lời. Thôi, ông đừng khóc nữa, Một bữa đây cùng vui. Trăm năm như quán trọ, Ung dung được mấy người. Thong thả, đừng vội nuốt Ngốn đầy bụng không tốt.
|
dịch nghĩa
Lủi thủi ai đi kia
Áo rách nón không nguyên vẹn
Chợt từ phía nam lại
Ðến trước mặt ta than thở
Hỏi ông có gì lo buồn
Nói rằng gặp khó khăn hoài
Nhà nghèo làm nghề thuốc, nghề bói quẻ
Tôi tìm đến kinh đô
Ở kinh đô không có người bệnh
Thầy thuốc mọc nhiều như gò đống
Cô đơn không nơi nương tựa, ngóng đường về
Nhìn mút mắt xa thăm thẳm mây mênh mang
Ngày thứ hai đem cầm cái tráp rỗng
Ngày thứ ba nhịn ăn bữa sáng bữa trưa
Gặp người chỉ mừng hụt
Muốn nói thêm nhưng nghẹn lời
Thôi, ông đừng khóc nữa
Một bữa ăn đây, cùng ông vui
Ðời người như quán trọ
Trăm năm mấy ai được ung dung
Hãy thong thả, đừng vội nuốt
(Ðang đói) ăn nhanh đầy bụng không tốt đâu.
...
***
*