Truyện dài
Hồng Lâu Mộng hồi thu 5 & 6 & 7
Hồi 5
Chơi cõi ảo, mười hai thoa chỉ đường mê
Uống rượu tiên, mộng lầu hồng diễn thành khúc
Ngày xuân uể oải lịm trong chăn,
Như dắt nàng tiên lánh cõi trần.
Vào hào hoa tư ai đấy nhỉ,
Phong lưu gây lấy nợ vào thân.
Việc mẹ con họ Tiết đến ở phủ Vinh hãy tạm ngưng. Nay nói Lâm Đại Ngọc từ khi đến phủ Vinh, được Giả mẫu thương yêu muôn phần, ăn ở đi đứng, nhất nhất đều như Bảo Ngọc, ngay Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân cũng không bằng.
Bảo Ngọc và Đại Ngọc thì thân nhau hơn hẳn mọi người; ngày cùng chơi chung, tối cùng ngủ chung, rất là hòa thuận, thân mật như keo sơn, không hề xích mích nhau điều gì. Nay bất thình lình có Tiết Bảo Thoa đến, tuy không lớn tuổi hơn mấy, nhưng phẩm cách đứng đắn, phong tư lộng lẫy, ai cũng cho là hơn Đại Ngọc. Bảo Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời; không giống như Đại Ngọc có tính kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất được lòng người dưới. Ngay bọn a hoàn cũng thích gần Bảo Thoa. Vì thế Đại Ngọc cũng hơi ấm ức khó chịu, nhưng Bảo Thoa thì thản nhiên như không.
Bảo Ngọc còn trẻ con, tính lại vụng về, ngang trái, coi anh chị em ai cũng như ai, không hề phân biệt thân sơ xa gần. Bấy nay Bảo Ngọc, Đại Ngọc ở trong buồng Giả mẫu, quen biết hơn và tất nhiên cũng thân mật hơn. Đã thân mật hơn thì dễ xảy ra những chuyện hiểu lầm nhau không thể tránh được. Có một hôm, không biết vì việc gì, hai người trò chuyện không hợp nhau, Đại Ngọc bực bội vào buồng khóc một mình. Bảo Ngọc hối hận đã nói sỗ sàng, liền lại làm thân, Đại Ngọc mới dần dần nguôi giận.
Nhân dịp vườn bên phủ Vinh hoa mai nở rộ, vợ Giả Trân là vưu thị bày tiệc, rồi sai vợ chồng Giả Dung sang tận nơi mời Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân sang thưởng hoa.
Giả mẫu và mọi người ăn cơm sáng xong, sang vườn Hội phương ngắm cảnh. Trước còn uống trà, sau mới uống rượu. Đây chỉ là tiệc rượu riêng trong hai phủ Ninh và phủ Vinh thôi, không có sự gì lạ đáng chép cả.
Một lúc sau, Bảo Ngọc mệt, muốn về nghỉ trưa. Giả mẫu định sai người đưa về nghỉ một chốc rồi sẽ đến. Vợ Giả Dung là họ Tần, vội cười nói:
- Ở đây đã dọn một gian buồng để chú Bảo nghỉ rồi, xin cụ yên lòng, cứ giao chú ấy cho cháu là được.
Rồi bảo vú già và a hoàn của Bảo Ngọc: “Các bà các chị mời chú Bảo đi theo tôi”.
Giả mẫu biết Tần thị rất chu tất, vì chị ta là người mềm mại, dịu dàng, cư xử lại hòa nhã khéo léo rất được vừa ý trong đám chắt dâu. Thấy Tần thị dẫn Bảo Ngọc đi nghỉ, Giả mẫu mới yên tâm.
Khi Tần thị dẫn mọi người đến buồng trong; Bảo Ngọc ngửng đầu trông, thấy trên treo bức vẽ “Nhiên lê đồ”. Bức vẽ rất đẹp, nhưng không biết của ai, trong bụng Bảo Ngọc không thích. Lại có một câu đôi câu đối:
Thế sự tinh thông đều là học vấn,
Nhân tình lịch duyệt mới gọi văn chương.
Đọc xong xuôi câu đối, Bảo Ngọc nhìn nhà cửa rất đẹp, đồ bài trí rất trang hoàng, nhưng nhất định không chịu ở, liền nói:
- Mau ra ngay, mau ra ngay!
Tần thị cười nói:
- Chỗ này không vừa ý thì chú đi đâu bây giờ. Nếu không, chú đến nghỉ ở buồng tôi vậy.
Bảo Ngọc gật đầu mỉm cười, một bà già nói:
- Có lẽ nào chú lại đến ngủ ở buồng cháu dâu?
Tần thị cười nói:
- Ôi dào! Không sợ chú ấy phật ý. Chú ấy đã lớn đâu mà phải e dè? Chị không thấy tháng trước em tôi đến đây chơi à? Tuy nó bằng tuổi chú Bảo, nhưng để hai người đứng với nhau có lẽ nó còn cao hơn kia.
Bảo Ngọc hỏi:
- Tại làm sao tôi chưa được gặp? Đi gọi lại đây tôi xem.
Mọi người cười nói:
- Ờ xa hai ba mươi dặm, gọi ngay thế nào được. Sau này cũng có ngày gặp nhau.
Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước chân vào, đã thoảng có mùi thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhủn ra, nói ngay:
- Mùi thơm thích nhỉ.
Trong buồng, trên tường treo bức họa “Hải đường xuân thụy” của Đường Bá Hổ vẽ, hai bên có đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời Tống:
Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.
Trên án bày một cái gương quý của Vũ Tắc Thiên đời Đường. Một bên bày cái mâm vàng mà Triệu Phi Yến đã đứng lên múa, trên mâm để quả dưa mà An Lộc Sơn đã ném vào vú Dương Qúy Phị Đằng trước kê một cái giường báu của công chúa Thọ Xương nằm ở điện Hàm Chương, mắc cái màn liên châu của Công chúa Đồng Xương dệt ra.
Bảo Ngọc thấy vậy cười nói:
- Ở đây tốt! Ở đây tốt!
Tần thị cười:
- Cái buồng của tôi dù thần tiên cũng có thể ở được.
Nói xong, Tần Thị tự tay mở cái khăn lụa mà chính tay Tây Thi đã giặt, và đặt sẵn cái gối Uyên Ương của Hồng Nương đã ôm khi xưa. Thấy Bảo Ngọc ngủ yên, bọn bà già rủ nhau đi ra ngoài, chỉ để Tập Nhân, Mỹ Nhân, Tình Văn, Xạ Nguyệt, bốn người ở lại túc trực. Tần thị gọi mấy a hoàn nhỏ ra ngồi ngoài thềm, đừng cho mèo chó đến cắn nhau.
Bảo Ngọc vừa nhắm mắt đã bàng hoàng ngủ saỵ Tưởng như Tần thị còn đứng trước mặt mình. Bảo Ngọc lững thững theo Tần Thị đi đến một chỗ lan can sơn đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt, suối trong veo, không có một tí dấu vết bụi trần. Bảo Ngọc ở trong giấc mộng rất vui sướng, nghĩ bụng: “Chỗ này thú lắm, ước gì ta được ở đây suốt đời, dù mất cả nhà cũng vui lòng hơn là bị cha mẹ và thầy học kèm thúc!” Đương lúc nghĩ vơ vẩn, nghe thấy sau núi có người hát:
Mộng đẹp, mây tan mộng,
Hoa bay, nước cuốn hoa.
Nhắn bảo bạn nhi nữ,
Buồn hão chuốc chi mà ?
Bảo Ngọc nghe rõ đó là tiếng hát của người con gái. Tiếng hát chưa dứt đã thấy một mỹ nhân ở đằng xa đi lại, thướt tha lững thững, không giống người trần tí nào. Có bài phú tả chân sau này:
Vừa qua rừng liễu, đã tới buồng hoa,
Chỗ đang đi, chim trên cành, tiếng kêu xào xạc,
Khi sắp đến, bước quanh thềm, bóng lượn thướt tha.
Ve vẩy tay tiên, xạ lan ngào ngạt,
Phất phơ tà áo, hoàn bội gần xa.
Mặt hoa đào, làn tóc mây xanh ngắt,
Môi anh đào, răng hạt lựu hương pha.
Tuyết múa, gió quay, lưng ong mềm mại,
Mặt tươi, da bóng, châu thúy chói lòa.
Thấp thoáng trong hoa, như mừng như giận.
Nhởn nhơ mặt nước, khi bổng, khi là.
Mày liễu cau cau, muốn nói mà còn e lệ,
Gót sen chầm chậm, muốn dừng mà vẫn dạo qua.
Phẩm chất đáng khen, giá trong ngọc sáng.
Áo quần rất đẹp, lộng lẫy văn hoa,
Kể dung mạo, hương lồng ngọc giát,
Ví phong tư, rồng cuốn, phượng sa.
Trắng như hoa mai tuyết phủ,
Sạch như bông huệ sương pha.
Nhàn tĩnh như cỗi thông mọc trong không cốc,
Diễm lệ như mây ráng soi dưới trùng ba.
Văn vẻ như rồng bơi trong đầm uốn khúc,
Quang thái như trăng dọi trên sông Ngân hà.
Tây Thi đáng thẹn, Vuông Tường kém xa.
Lạ thay đến tự phương nào? Sinh ở đâu ta?
Thật vậy, chốn Dao trì khó bề sánh kịp, nơi tử phủ dễ kiếm đâu ra.
Hỏi người nào đấy? quả bậc tiên nga.
Bảo Ngọc trông thấy đây là một tiên cô, mừng rơ vội lại chào, cười nói:
- Tiên cô ở đâu đến đây, bây giờ định đi đâu? Tôi không biết chỗ này là chỗ nào, nhờ tiên cô dẫn tôi đi.
Tiên cô cười nói:
- Ta là vị tiên ở Thái hư ảo cảnh, động Khiển Hương, núi Phóng Xuân, thuộc trời Ly hận, bể Quán sầu, phàm những việc nợ trăng, tình gió, gái giận, trai si ở cõi trần đều thuộc ta cai quản. Nhân gần đây có bọn phong lưu oan nghiệt tụ tập ở nơi này nên ta đến thăm dò cơ hội gieo rắc mọi nỗi tương tự Nay gặp anh cũng không phải là ngẫu nhiên. Chỗ ta ở c ũng gần, không có vật gì, chỉ có chén trà tiên, tự tay hái lấy, h ũ rượu ngon, tự tay nấu lấy, vài cô múa hát, tập rèn đã lâu, và mười hai khúc Hồng lâu mộng mới phổ vào cung đàn. Anh có muốn theo ta đi chơi không?
Bảo Ngọc nghe xong, sung sướng nhảy lên, quên bẵng Tần thị không biết ở đâu, liền theo ngay tiên cô đến một nơi. Chợt trông thấy một tòa nhà phía trước, trên biển đề bốn chữ to: “Thái hư ảo cảnh”, hai bên có đôi câu đối:
Giả bảo là chân, chân cũng giả,
Không làm ra có, có rồi không.
Đi qua tòa nhà đến một cửa cung, trên treo biển có bốn chữ lớn: “Nghiệt hải tình thiên” và đôi câu đối:
Đất rộng, trời cao, khôn gỡ nổi mối tình kim cổ,
Trai si, gái oán, khó đền xong món nợ gió trăng.
Bảo Ngọc xem xong nghĩ bụng: “À ra thế đấy. Nhưng thế nào là “tình kim cổ” và “nợ gió trăng”? Ta phải hiểu rõ câu này mới được”. Bảo Ngọc vừa mới nghĩ thế, ngờ đâu con ma tình đã lấn sâu vào tận cao hoang. Cậu ta theo tiên cô vào đến cửa thứ hai, thấy hai tòa bên cạnh đều có hoành phi câu đối, không tài nào xem hết được, chỉ thấy mấy chỗ đề những chữ: “Si tình ti”, “kết oán ti”, “Triêu đề ti”, “Dạ Oán ti”, “Xuân cảm ti”, “Thu bi ti”. Bảo Ngọc hỏi tiên cô:
- Xin phiền tiên cô dẫn tôi vào xem trong các ti có được không?
Tiên cô nói :
- Trong các ti chứa toàn sổ sách của tất cả con gái trong thiên hạ từ trước và sau này, anh người trần mắt thịt không thể biết được.
Bảo Ngọc khi nào chịu thôi, cứ khẩn khoản nài xin mấy lần. Tiên cô mới bảo:
- Thôi được, vào đây mà xem.
Bảo Ngọc thích lắm, vừa ngẩng đầu nhìn, thấy một ti có biển đề ba chữ: “Bạc mệnh ti” hai bên có câu đối:
Xuân hận, thu sầu mình chuốc lấy,
Mặt hoa da phấn đẹp vì ai?
Bảo Ngọc xem xong, trong lòng than thở. Đi vào trong cửa thấy mười mấy cái tủ lớn đều niêm phong cẩn thận, trên tờ niêm phong đều có đề tên các tỉnh. Bảo Ngọc chỉ chăm chú nhìn xem có tờ niêm phong nào đề tên tỉnh mình, chứ không để ý đến các tỉnh khác, chợt thấy Có một cái tủ đề: “Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”. Bảo Ngọc hỏi:
- Sao lại gọi là “Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”?
Tiên cô nói:
- Tức là quyển sổ ghi mười hai người con gái đứng đầu trong tỉnh anh, cho nên gọi là chính sách.
Bảo Ngọc nói:
- Người ta thường nói Kim Lăng rộng lắm, làm sao chỉ có mười hai người? Ngay trong nhà chúng tôi, trên dưới cũng đã có hàng mấy trăm người rồi!
Tiên cô mỉm cười nói:
- Con gái trong tỉnh anh rất nhiều, nhưng đây chỉ biên những người nào cần biên thôi. Hai tủ để hai bên là hạng thứ nhì. Những hạng tầm thường thì không cần biên vào.
Bảo Ngọc lại xem đến cái tủ đề: “Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”, rồi lại có một tủ nữa đề: “Kim Lăng thạp nhị thoa hựu phó sách”. Bảo Ngọc giơ tay mở tủ, rút một quyển trong “hựu phó sách” ra xem. Vừa mở ra, thấy một bức vẽ, trên bìa không phải là nhân vật, cũng không phải là sơn thủy, chẳng qua màu mực lờ mờ. Trên giấy đầy những mây đen mù đục mà thôi. Sau có mấy hàng chữ:
Trăng trong khó gặp, mây đẹp dễ tan,
Lòng sao cao quý, phận lại đê hèn.
Tinh khôn, đài các tổ người ghen,
Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ,
Đa tình công tử Luống than phiền.
Bảo Ngọc xem xong, không hiểu, lại thấy mặt sau vẽ một khóm hoa tươi, một cái giường trải chiếu rách, có đề mấy câu:
Nhũn nhặn thuận hòa uổng cả,
Lan thơm, quế ngát, thừa thôi.
Khen cho ưu linh phúc tốt,
Ngờ đâu công tử duyên ôi!
Bảo Ngọc xem xong lại càng không hiểu, cất quyển sổ ấy vào tủ và mở tủ đựng “phó sách”, lấy một quyển ra xem, thấy trang đầu có vẽ một cành hoa quế, mé dưới có cái ao, nước cạn, bùn khô, cây sen héo, ngó sen tàn. Mặt sau có đề thơ:
Sen thơm liền gốc nở chùm hoa,
Gặp gỡ đường đời thật xót xa.
Từ lúc cây trong hai chỗ đất.
Hương hồn trở lại chốn quê nhà.
Bảo Ngọc xem xong cũng không hiểu. Lại lấy một quyển ở trong tủ “chính sách” ra xem, thấy trang đầu vẽ hai cây khô, trên cây treo một cái đai ngọc; dưới đất có một đống tuyết, trong tuyết có cái trâm vàng. Có bốn câu thơ:
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng,
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
Bảo Ngọc vẫn không hiểu, muốn hỏi cho ra, nhưng biết rằng tiên cô chẳng chịu tiết lộ cơ trời, muốn cất sổ đi, nhưng lại tiếc, liền giở xem những trang sau, thì thấy vẽ một cái cung, trên cung treo một quả phật thủ. Có đề bài thơ:
Sau tuổi hai mươi đã trải đời,
Kìa hoa lựu nở cửa cung soi.
Ba xuân nào được bằng xuân mới,
Thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi.
Mặt sau lại vẽ hai người thả diều, một vùng bể lớn, một cái thuyền lớn, trong thuyền có một cô gái bưng mặt khóc. Sau bức họa có bốn câu:
Chí cao tài giỏi có ai bì,
Gặp lúc nhà suy, vận cũng suy,
Nhớ tiếc thanh xuân ra bến khóc.
Gió đông nghìn dặm mộng xa đi.
Mặt sau vẽ mấy đám mây bay, một dòng nước chảy, có đề mấy câu:
Giàu sang cũng thế thôi.
Từ bé mẹ cha bỏ đi rồi.
Nhìn bóng chiều ngậm ngùi,
Sông Tương nước chảy mây Sở trôi.
Mặt sau thấy vẽ một viên ngọc quý, vất ở đống bùn. Có mấy câu đoán:
Muốn sạch mà không sạch.
Rằng không chửa hẳn không.
Thương thay mình vàng ngọc,
Bùn lầy sa vào trong.
Mặt sau lại vẽ một con lang dữ, đuổi bắt một mỹ nữ, định ăn thịt. Dưới có câu:.
Rõ ràng giống sói Trung Sơn,
Gặp khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.
Làm cho hoa liễu thân này,
Hoàng lương giấc mộng mới đầy một năm.
Mặt sau lại vẽ một tòa miếu cổ, trong có một mỹ nhân ngồi xem kinh, có mấy câu phán:
Biết rõ ba xuân cảnh chóng già,
Thời trang đổi lấy áo cà sa.
Thương thay con gái nhà khuê các,
Một ngọn đèn xanh cạnh phật bà.
Mặt sau vẽ một núi băng, trên có một con phượng mái. Có mấy câu phán:
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời,
Người đều yêu mến bực cao tài,
Một theo hai lệnh, ba thôi cả,
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi.
Mặt sau vẽ một cái nhà trong vùng thôn quê vắng vẻ, có một mỹ nhân dệt cửi. Có mấy câu phán:
Vận suy đừng kể rằng sang,
Nhà suy chớ kể họ hàng gần xa.
Tình cờ cứu giúp người ta,
Khéo sao Lưu thị lại là ân nhân.
Sau bài thơ vẽ một chậu lan, bên cạnh có một mỹ nhân đội mũ phượng, đeo cái khoác vai màu ráng trời, và có mấy câu phán:
Gặp xuân đào lý quả muôn vàn,
Rốt cuộc sao bằng một chậu lan.
Nước sạch, băng trong ghen ghét hão,
Tiếng tăm còn để lại nhân gian.
Lại có một tòa lầu cao, trên có một mỹ nhân treo cổ tự tử. Có mấy câu phán:
Trời tình, bể tình là mộng ảo,
Mà tội dâm kia cũng bởi tình.
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Bảo Ngọc còn muốn xem nữa. Tiên cô biết Bảo Ngọc tư chất thông minh, tính tình mẫn tuệ, sợ lộ thiên cơ, bèn gấp sổ lại, cười bảo:
- Hãy đi theo ta vào xem phong cảnh, sao lại ở đây đoán vơ vẩn làm gì?
Bảo Ngọc mơ màng, bất giác buông quyển sổ ra, theo tiên cô đi về đằng sau. Thấy cột vẽ, xà chạm, rèm châu, màn thêu hoa tiên, cỏ lạ, hoa thơm ngào ngạt, thực là cảnh tuyệt đẹp, đúng như câu:
Cửa sổ sáng lay, vàng giải đất,
Sóng quỳnh tuyết chiếu, ngọc làm nhà.
Bảo Ngọc đương mải miết xem, chợt tiên cô gọi:
- Chị em đâu, đi ra đón quý khách!
Tiếng gọi chưa dứt, đã thấy mấy cô tiên ở trong buồng, tà sen phất phới, áo lông thướt tha, tươi như hoa xuân, đẹp như trăng thu, chạy ra. Trông thấy Bảo Ngọc, các nàng tiên đều trách Cảnh ảo tiên cô:
- Chúng em không biết là “quý khách” nào, vội vàng ra đón. Chị đã bảo ngày này, giờ này sẽ có linh hồn em Giáng Châu đến ngoạn cảnh, chúng em chờ mãi, sao bây giờ lại dẫn cái của ô trọc đến đây làm bẩn cả nơi nữ nhi thanh tịnh này?
Bảo Ngọc nghe nói, giật mình, cảm thấy mình dơ bẩn đáng thẹn, muốn lùi ra. Tiên cô vội nắm lại và quay về các nàng tiên nói:
- Các em không biết đầu đuôi việc này. Nguyên hôm nay ta định đến phủ Vinh đón Giáng Châu. Khi đi qua phủ Ninh, gặp linh hồn hai ông Ninh công, Vinh công nói với ta rằng: “Nhà chúng tôi từ đầu quốc triều, đời đời công danh phú quý đã trăm năm naỵ Bây giờ số vận đã hết, không thể kéo lại được nữa. Con cháu chúng tôi tuy nhiều, nhưng chẳng có đứa nào nối nghiệp. Chỉ có cháu đích tôn là Bảo Ngọc, có chút thông minh đĩnh ngộ, may ra có thể thành đạt được, nhưng vì tính nó ngang trái kỳ quặc, sợ không ai dìu dắt vào đường chính. May gặp tiên cô đến đây, xin nhờ lấy những việc tình dục thanh sắc răn bảo bệnh si ngoan của nó, họa chăng nó có thể thoát vòng mê muội, đi vào đường chính, thì rất may cho anh em chúng tôi”. Vì hai ông ký thác như thế nên ta có lòng từ bi dắt nó đến đây. Trước hết cho nó xem thật kỹ những quyển sổ ghi số mệnh chung thân của ba hạng con gái nhà nó, nhưng nó vẫn chưa tỉnh ngộ, nên ta lại dẫn đến đây để trải hết những cái ảo cảnh ăn ngon, hát hay, sắc đẹp, họa may nó có tỉnh ngộ chăng.
Nói đoạn, tiên cô dắt Bảo Ngọc vào trong nhà. Một mùi thơm mê hồn không biết là thứ gì. Bảo Ngọc không nhịn được, phải hỏi. Tiên cô cười nhạt:
- Mùi hương này dưới trần không có, anh làm sao biết được. Đây là tinh hoa của cỏ lạ mới mọc ở những nơi danh sơn thắng cảnh, lại hợp chế với dầu các cây quý gọi là “Quần hương tủy".
Bảo Ngọc nghe rất ham thích. Bấy giờ mọi người vào chỗ ngồi, tiểu hoàn dâng trà, Bảo Ngọc thấy hương thanh vị thơm, không phải là trà thường, liền hỏi trà gì, tiên cô nói:
- Trà này lấy ở Động Khiển Hương núi Phóng Xuân, pha bằng nước móc đọng ở trên hoa lá cõi tiên, gọi là “Thiên hồng nhất quật”.
Nghe xong, Bảo Ngọc gật đầu khen. Nhìn vào trong buồng thì thấy đàn ngọc, đỉnh báu, tranh cổ, thơ mới, không thiếu thứ gì. Dưới cửa sổ lại có mấy bản đàn, có hộp nữ trang hoen phấn. Trên vách có treo câu đối:
Đất u vi lính tú.
Trời “vô khả nài hạ”.
Bảo Ngọc xem xong lại hỏi tên các nàng tiên, thì một là Si Mộng tiên cô, một là Chung Tình đại sĩ, một là Dẫn Sầu kim nữ, một là Độ hận bồ đề, mỗi người một đạo hiệu, không ai giống ai. Một chốc tiểu hoàn đến dọn bản đặt ghế bày tiệc. Chính là:
Chén hổ phách, cốc pha lê,
Bên này rượu ngọc, bên kia rượu quỳnh.
Bảo Ngọc thấy rượu thơm ngọt khác thường, lại hỏi. Tiên cô nói:
- Rượu này cất bằng nhụy trăm thứ hoa, nước muôn thứ cây thêm vào tủy con lân, sữa con phượng, vì thế gọi là rượu “Vạn diễm đồng bôi”.
Bảo Ngọc tấm tắc khen mãi. Khi uống rượu, có mười hai vũ nữ lên hỏi diễn khúc gì. Tiên cô nói:
- Diễn mười hai khúc Hồng Lâu Mộng mới đặt ra.
Vũ nữ vâng lời, liền lần gầy phím đàn, nhẹ gõ dịp phách. Vừa mới hát câu “Mịt mùng khi mới mở toang”, tiên cô bảo Bảo Ngọc:
- Khúc này không phải như khúc dưới trần thường hát, phải có vai học trò, vai nữ, vai hề, vai lão, lại có chín cung giọng nam và giọng bắc. Ở đây thì hoặc đề vịnh một người, hoặc cảm hoài một việc, ngẫu nhiên thành một khúc, phổ vào âm nhạc ngaỵ Nếu không phải là người trong cuộc thì không hiểu được cái hay của nó. Khúc hát này chắc anh chưa hiểu rõ lắm. Nếu không xem vở trước, thì khi nghe cũng là vô vị thôi.
Nói xong, lại bảo tiểu hoàn đưa vở “Hồng lâu mộng” cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm lấy, mắt xem vở, tai nghe hát, có những bài sau này:
Khúc một: GIÁO ĐẦU HỒNG LÂU MỘNG.
Mịt mùng khi mới mở toang,
Giống tình ai đã chịu mang vào mình.
Chỉ vì tình lại gặp tình,
Gió trăng nồng đượm không đành xa nhau.
Khi vắng vẻ, lúc buồn rầu,
Thua trời nên dãi nỗi sầu thơ ngây.
Mộng hồng lâu diễn khúc này.
Thương vàng tiếc ngọc tỏ bày nỗi riêng.
Khúc hai: CHUNG THÂN NGỘ (lỡ nhau suốt đời).
Ai rằng vàng ngọc duyên ưa,
Ta quên cây, đá, thề xưa được nào.
Trơ trơ người tuyết trên cao,
Ngoài đời, đường vắng khuây sao được nàng.
Cuộc đời ngán nỗi tang thương,
Đẹp không toàn đẹp, lời càng đúng thay.
Dù cho án đặt ngang mày,
Cuối cùng vẫn thấy lòng này băn khoăn.
Khúc ba: UỔNG NGƯNG MI (Hoài công biết nhau).
Một bên hoa nở vườn tiên,
Một bên ngọc đẹp không hoen ố màu.
Bảo rằng chả có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng sẵn có duyên may,
Thì sao lại đổi thay lời nguyền?
Một bên ngầm ngấm than phiền,
Một bên đeo đẳng hão huyền uổng công.
Một bên trăng dọi trên sông,
Một bên hoa nở bóng lồng trong gương,
Mắt này có mấy giọt sương,
Mà dòng chảy suốt năm trường, được chăng?
Bảo Ngọc nghe xong, thấy liên miên, viển vông, chưa có gì hay, nhưng âm điệu réo rắt làm cho hồn phách say mệ Vì vậy chẳng hỏi đầu đuôi, chẳng cần lai lịch, chỉ nghe để giải buồn thôi. Lại có những khúc hát tiếp:
Khúc bốn: HẬN VÔ THƯỜNG (Bực tức cuộc thay đổi)
Đương vui chợt đã buồn ngay,
Trố nhìn mọi việc thôi rày bỏ qua.
Hồn thơm dằng dặc bay xa,
Non cao trời rộng đây là quê hương.
Tìm nơi báo mộng gia nương,
Suối vàng con đã lỡ đường thần hôn.
Mau mau lùi bước là hơn.
Khúc năm: PHÂN CỐT NHỤC (Cốt nhục phân ly)
Đường xa mưa gió một chèo,
Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,
Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây,
Phân chia hai ngả từ nay,
Dám mong giữ được ngày ngày bình yên,
Con đi xin chớ lo phiền.
Khúc sáu: LẠC TRUNG BI (Buồn trong cảnh vui)
Mồ côi từ lúc lọt lòng,
Dù nơi khuê các, chớ hòng ai thương,
Anh hào được tính hiên ngang
Tình riêng nhi nữ chưa vương vít lòng.
Thân này trăng sáng gió trong,
Chàng tiên mong được sánh cùng lứa đôi.
Những mong trời đất lâu dài.
Bõ khi trẻ dại gặp thời gian nan.
Ngờ đâu nước cạn mây tan,
Tương giang lạnh ngắt, Cao đường vắng tanh.
Trần hoàn may rủi đã đành,
Việc gì khóc quẩn lo quanh bận lòng.
Khúc bảy: THẾ NAN DUNG (Đời không ưa)
Lan ví chất, tiên ví tài,
Chỉ hiềm cô tịch, tình trời bẩm sinh.
Cho là ăn thịt(#23) hôi tanh,
Lụa the, là lượt, coi khinh không thèm.
Biết đâu cao quá. đời ghen,
Biết đâu sạch quá, đời khen da mà.
Đàn xanh, đền cổ, ngườí già,
Uổng công trang điểm, xuân đà kém xuân.
Ngán cho cái kiếp phong trần,
Sau này cũng lại xấu dần mãi đi.
Ngọc kia bùn trát đen sì,
Vương tôn công tử còn gì là duyên.
Khúc tám: HỈ OAN GIA (Gặp oan gia không đáng mừng lại mừng)
Người đâu hung ác lạ lùng,
Khác nào giống sói ở vùng Trung San.
Bấy lâu tình ái quên tràn,
Kiêu dâm chỉ việc mê man tháng ngày,
Cửa hầu bồ liễu thơ ngây,
Thân ngàn vàng nỡ đọa đày cho đang,
Một năm duyên đã bẽ bàng,
Hồn thơm phách đẹp, suối vàng xa chơi.
Khúc chín: HƯ HOA NGỘ (Biết tuổi hoa là không thật)
Cảnh xuân nhìn đã rõ rồi,
Liễu xanh, đào thắm hãy ngồi xem sao.
Thiều hoa đuổi sạch đi nào,
Tìm nơi nhã đạm thanh cao khác đời.
Kể chi đào nở trên trời,
Kể chi nhị hạnh lựng mùi trong mây.
Rốt cùng nào có ai hay,
Tiết thu đâu đã kéo ngay đến rồi.
Xóm Dương than khóc tiếng người,
Rừng phong văng tiếng ma ngồi ngâm nga.
Lại còn cảnh khác bày ra,
Ngút trời cỏ héo che qua nấm mồ.
Đó là biến đổi lắm trò,
Trước nghèo, sau có, chăm lo suốt đời.
Dày vò hoa cũng thế thôi,
Xuân mời hoa đến, thu mời hoa đi.
Tử sinh lẽ ấy đem suy,
Dù ai muốn trốn, trốn chi được mà.
Phương tây có cõi Bà Sa,
Nghe đồn có quả tên là Trường sinh.
Khúc mười: THÔNG MINH LỤY (Mắc lụy thông minh)
Việc đời tính rất thông minh,
Còn mình, mình tính phận mình vẫn sai,
Sống lần ruột đã nát rồi,
Chết mang tiếng hão là người tinh ranh,
Trước kia giàu có khang ninh,
Đến sau cơ nghiệp tan tành khắp nơi.
Uổng công áy náy nửa đời,
Khác gì một giấc mộng dài thâu canh.
Ầm ầm như sắp đổ đình,
Chập chờn như ngọn đèn xanh cạn dầu,
Vừa vui vẻ đã âu sầu,
Đời người biến đổi biết đâu mà lường.
Khúc mười một: LƯU DƯ KHÁNH (Phúc thừa sót lại)
May sao gặp được ân nhân,
Là nhờ dư phúc nương thân đó mà.
Âm công vun lấy phúc nhà.
Hết lòng cứu giúp người ta khi nghèo.
Anh gian, cậu ác chớ theo,
Nhãng tình máu mủ, chỉ yêu bạc tiền.
Có trời báo ứng ở trên.
Khúc mười hai: VÃN THIỀU HOA (Cảnh xuân về cuối)
Còn gì ân ái trong gương,
Còn gì giấc mộng trên đường công danh.
Cảnh thiều hoa đi sao nhanh,
Chăn uyên màn gấm thôi đành bỏ qua.
Mũ châu, áo phượng thướt tha,
Chống làm sao nổi vận nhà bấp bênh.
Già, nghèo khó chịu đã đành,
Cũng nên tích đức để dành về sau.
Ngông nghênh trâm ngọc trên đầu,
Ấn vàng trước ngực muôn màu sáng trưng.
Uy quyền lộc vị lẫy lừng,
Suối vàng buồn thảm đường chừng gần thôi.
Xưa nay khanh tướng còn ai,
Họa còn tiếng hão cho đời ngợi khen.
Khúc mười ba: HẢO SỰ CHUNG (Việc hay đến lúc hết)
Xuân đi hương vẫn còn rơi,
Nguyệt hoa gây vạ suy đồi vì ai ?
Nhà suy bởi tại Kính rồi,
Nhà tan trước hết tội thời tại Ninh.
Gây nên oan trái vì tình.
Khúc mười bốn: PHI ĐIỂU CÁC ĐẦU LÂM (Chim bay về rừng)
Quan thì cơ nghiệp suy tàn,
Giàu thì vàng bạc cũng tan hết rồi.
Có ơn chết để trốn đời,
Rành rành báo ứng những ai phụ lòng.
Mạng đền mạng, đã trả xong,
Lệ đền lệ, đã ròng rong tuôn rơi.
Oan oan đừng lấy làm chơi.
Hợp tan đã trốn được trời hay chưa ?
Gian nan là bởi kiếp xưa,
Giá mà phú quý là nhờ vận may,
Khôn thì vào cửa “Không” này,
Dại thì tính mệnh có ngày mất toi.
Như chim khi đã hết mồi,
Bay về rừng, thẳm đậu nơi yên lành.
Hát xong, tiên nữ lại hát những bài phụ, Thấy Bảo Ngọc không lấy làm thích lắm, tiên cô thở dài:
- Anh ngốc này vẫn chưa tỉnh ngộ.
Bảo Ngọc thấy mình bàng hoàng hoảng hốt, vội bảo ca nữ đừng hát nữa, và kêu say, xin đi nằm. Tiên cô truyền bảo dọn bàn tiệc đi, đưa Bảo Ngọc vào một buồng thêu thơm thọ Trong đó trang hoàng nhiều đồ xưa nay chưa từng thấy. Đáng sợ nhất là có một nàng tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì, giống hệt Bảo Thoa, dịu dàng phong lưu lại như Đại Ngọc. Bảo Ngọc chưa biết thế nào, chợt nghe tiên cô nói:
- Dưới trần bao nhiêu nhà phú quý, những nơi gió trăng trước cửa sổ, khói mây trong buồng thêu, đều bị bọn trai hư gái hỏng làm nhơ bẩn. Đáng giận hơn nữa là xưa nay những bọn con nhà khinh bạc hay biện bạch rằng “hiếu sắc mà không dâm” lại bảo “tình mà không dâm”, đó chỉ là những lời để che lấp thói xấu mà thôi. Biết đâu “hiếu sắc tức là dâm”. “Biết tình lại càng dâm”. Vì thế, cuộc gặp gỡ ở Vu Sơn, chuyện vui thú về mây mưa, đều do chuộng sắc ham tình mà gây nên. Ta ưa anh, vì anh là một người dâm nhất thiên hạ xưa nay.
Bảo Ngọc nghe xong, sợ hãi, vội vàng nói:
- Tiên cô lầm rồi. Tôi vì lười học, cha mẹ thường mắng luôn, đâu còn dám phạm đến chữ “dâm”. Vả tôi còn bé, chẳng biết “dâm” là thế nào?
Tiên cô nói:
- Không phải thế đâu. Dâm dù một lẽ, nhưng ý thì khác nhau. Những kẻ hiếu dâm trên đời chẳng qua là ưa sắc đẹp, thích múa hát, đùa bỡn không chán, “mây mưa” bừa bãi không chừng, chỉ sợ thiên hạ không đủ mỹ nữ để cung thú vui chốc lát cho mình, đó là những hạng ngu xuẩn, chỉ biết thú vui bề ngoài thôi. Như anh, khi mới sinh ra đã mang một mối si tình, chúng ta gọi thế là “ý dâm”. Hai chữ “ý dâm” chỉ có thể hiểu ngầm trong lòng, chứ không thể nói ra miệng được. Riêng anh thì xứng với hai chữ này. Ở trong khuê các, anh có thể là bạn tốt đấy, nhưng khi ra đời thì vẫn mang tiếng là người vớ vẩn, quái gở sẽ bị trăm miệng cười giễu, muôn mắt lườm nguýt. Nay ta đã gặp hai cụ Vinh công, Ninh công nhà anh tha thiết ký thác, ta không nỡ để cho anh là người làm vẻ vang cho bọn khuê các mà lại bị đời ruồng bỏ. Vì thế, ta dắt anh đến đây, cho uống rượu ngon, thưởng trà tiên, nghe hát hay, lại gả cho anh một cô gái tên là Kiêm Mỹ, tên chữ là Khả Khanh. Đêm nay được giờ tốt, nên thành thân ngaỵ Chẳng qua để cho anh nhận biết ảo cảnh cõi tiên còn thế, huống chi là dưới trần. Từ giờ trở đi, chú ý vào đạo Khổng, Mạnh, dấn mình vào con đường giúp đời, giúp nước mới được.
Nói xong tiên cô tham dạy cách “mây mưa”, rồi đẩy Bảo Ngọc vào buồng, khép cửa lại.
Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, theo lời tiên cô dạy, làm những việc như vợ chồng ân ái với nhau. Đến hôm sau thì ân tình đằm thắm, trò chuyện nỉ non, cùng Khả Khanh bịn rịn không rời nhau một bước. Nhân lúc hai người dắt tay đi chơi, đến một chỗ gai góc đầy đường, hùm sói hàng đản, trước mặt lại có một cái suối nước đen, không có cầu sang. Đương lúc dùng dằng, chợt thấy Cảnh ảo tiên cô từ phía sau gọi:
- Đừng đi nữa, quay về ngay.
Bảo Ngọc vội đứng dừng lại hỏi:
- Đây là chỗ nào?.
Tiên cô nói:
- Đây là bến mê, sâu hàng vạn trượng, rộng hàng muôn dặm, không có thuyền đi qua, chỉ có một cái mảng gỗ, Mộc Cư Sĩ bẻ lái, Hôi Thị Giả đẩy sào, chở không lấy tiền, ai có đạo duyên mới sang được. Nay anh ngẫu nghiên đến đây, nếu không may ngã xuống đó thì thực phụ những lời dặn bảo ân cần của ta!
Nói chưa dứt lời thì nghe thấy ở trong bến Mê có tiếng ầm ầm như sấm, có nhiều quỷ dạ xoa dưới bể nhô lên định lôi Bảo Ngọc, làm Bảo Ngọc sợ hãi, mồ hôi toát ra như mưa, kêu thất thanh: “Khả Khanh, cứu tôi với!” Bọn Tập Nhân và a hoàn vội vàng chạy đến ôm Bảo Ngọc và nói:
- Cậu Bảo đừng sợ, chúng tôi ở đây cả.
Tần thị đương ở ngoài buồng dặn dò đám a hoàn nhỏ coi giữ đừng cho mèo chó cắn nhau; chợt nghe Bảo Ngọc nằm mê gọi tên tục mình, trong bụng đâm buồn bực: “Ở đây chẳng ai biết tên mình cả, sao trong chiêm bao, Bảo Ngọc lại biết mà gọi ra. Thực là:
Một hồi mộng kín chờ ai đấy?
Nghìn thuở tình ngây một tớ thôi.
SongQueJul 9 2004, 10:51 AM
Hồi 6
Giả Bảo Ngọc mới thử cuộc mây mưa
Lưu lão lão đến thăm phủ Vinh quốc
Sớm gõ cửa nhà giàu,
Nhà giàu cũng chưa đủ.
Tuy không tặng nghìn vàng,
Tình còn hơn máu mủ.
Tần thị nghe thấy Bảo Ngọc nằm mê gọi tên tục mình, bụng lấy làm buồn, nhưng không tiện hỏi kỹ.
Lúc này Bảo Ngọc vẫn còn mê man, bâng khuâng như mất cái gì. Mọi người bưng bát nước hoa quế đến, Bảo Ngọc uống hai ngụm mới đứng dậy sửa lại quần áo. Tập Nhân đến buộc hộ thắt lưng, vừa thò tay vào đùi Bảo Ngọc, thấy một đám dính như hồ lành lạnh, Tập Nhân giật mình co tay lại hỏi:
- Cái gì thế này?
Bảo Ngọc đỏ bừng mặt, bấm mạnh tay Tập Nhân một cái. Tập Nhân là gái thông minh, hơn Bảo Ngọc hai tuổi. Gần đây cô ta cũng hơi biết mùi đời, thấy thế trong bụng hiểu ngay một phần nào, tự nhiên má đỏ bừng lên, không hỏi nữa, cứ thế sửa lại quần áo cho Bảo Ngọc rồi đưa đến chỗ Giả mẫu. Bảo Ngọc ăn qua loa bữa cơm chiều, trở ngay về nhà. Gặp lúc vắng người hầu, Tập Nhân lấy ngay quần lót cho Bảo Ngọc thaỵ Bảo Ngọc ngượng nghịu:
- Chị đừng cho ai biết nhé!
Tập Nhân cũng ngượng nghịu cười khẽ:
- Cậu mơ gì thế? Cái này ở đâu chảy ra thế?
- Không sao nói hết được.
Bảo Ngọc liền đem việc trong mộng kể lại tỉ mỉ cho Tập Nhân nghe. Khi nói đến cuộc mây mưa mà tiên cô truyền cho, làm Tập Nhân xấu hổ, bưng mặt gục đầu xuống cười. Bảo Ngọc xưa nay vẫn thích Tập Nhân có vẻ nhu mì, xinh xắn, bèn nài Tập Nhân cùng mình diễn lại những việc nàng tiên Cảnh ảo đã chỉ dẫn trong mộng. Tập Nhân biết Giả mẫu đã giao mình cho Bảo Ngọc, dù sao cũng không vượt qua khuôn phép, nên bằng lòng, may không ai trông thấy cả.
Từ đấy, Bảo Ngọc biệt đãi Tập Nhân hơn hẳn mọi người. Tập Nhân cũng hết lòng hầu hạ Bảo Ngọc hơn trước.
Nay nói đến phủ Vinh, người không đông lắm, tính trên dưới có tới ba bốn trăm, việc không nhiều lắm, một ngày xử độ vài mươi vụ, rối beng như mối tơ vò, không biết lần từ đâu. Vậy thì nên lấy việc gì, người nào làm đầu mối mà viết truyện được.
Bỗng có một nhà tầm thường, nhỏ nhặt ở xa ngàn dặm, có bà con họ hàng với phủ Vinh, hôm nay đến phủ thăm hỏi, nên nhân tiện xin bắt đầu câu chuyện từ nhà ấy. Các vị ngẫm xem nhà ấy là ai, có bà con gì với phủ Vinh?
Nguyên cái nhà tầm thường ấy là họ Vương, người địa phương này, đời ông làm chức quan nhỏ, trước có quen biết ông của Phượng Thư là bố Vương phu nhân. Vì ham thế lợi nhà họ Vương nên ông ta đến nhận họ và xưng là cháu.
Bấy giờ chỉ có bố Phượng Thư là anh cả Vương phu nhân và Vương phu nhân ở Kinh mới biết có người họ xa này, còn không ai biết cả. Sau đó, người ông mất sớm, chỉ có một con tên là Vương Thành. Vì nhà sa sút phải dọn ra một cái xóm ngoại thành. Vương Thành cũng chết, có con là Cẩu Nhi, lấy vợ họ Lưu, đẻ được một trai đặt tên là Bản, một gái là Thanh. Cả nhà bốn miệng ăn, chuyên nghề làm ruộng. Cẩu Nhi phải đi làm ở ngoài, họ Lưu thì gánh nước, giã gạo, bận rộn suốt ngày. Hai chị em con Thanh, thằng Bản không có người trông nom, nên Cẩu Nhi mời mẹ vợ là già Lưu đến giúp hộ.
Già Lưu góa chồng từ lâu, không có con trai, sống nhờ vào hai mẫu ruộng xấu. Nay con rể mời đến ở, lẽ nào lại không bằng lòng, vì thế già tận tình giúp đỡ rể và con gái. Năm ấy cuối thu sang đông, trời sắp rét, trong nhà chưa có đồ mặc ấm, Cẩu Nhi không khỏi buồn bực, uống vài chén rượu, đâm ra bẳn gắt. Vợ không dám nói động đến. Già Lưu thấy vậy khó chịu mới khuyên:
- Này anh rể ơi! Anh đừng giận tôi lắm điều nhé! Chúng ta là người nhà quê thực thà, hay ăn to nói lớn. Anh còn trẻ tuổi, nhờ bố mẹ ăn mặc đầy đủ quen rồi, nên mới thấy thế đã khó chịu. Khi có tiền thì anh ăn tiêu bừa bãi, lúc hết tiền đâm ra cáu kỉnh, như thế sao gọi là tài trai, là đại trượng phu được? Chúng ta tuy xa thành thị, nhưng vẫn ở trong Kinh độ Thành Trường An này chỗ nào chẳng kiếm ra tiền, chỉ tại mình không biết đấy thôi. Anh cứ ở nhà cáu kỉnh thì được cái gì?
Cẩu Nhi nghe thấy thế vội nói:
- Bà chỉ ngồi xó bếp nói bừa! Bà bảo tôi đi ăn cướp à?
Già Lưu nói:
- Ai bảo anh đi ăn cướp. Chúng ta phải tìm cách gì để sinh sống, nếu không, khi nào tiền nó chạy vào túi mình.
Cẩu Nhi cười nhạt:
- Nếu có cách kiếm tiền thì tôi chẳng đến nỗi này. Tôi không có họ hàng với người thu thuế, bạn bè với người làm quan, thì lần đâu cho rả Họ có đấy, nhưng ai thèm nghĩ đến chúng ta?
Già Lưu nói:
- Không phải thế, người ta chỉ biết lo việc, còn được hay không là nhờ trời. Chúng ta cứ lo đi, may nhờ Phật phù hộ sẽ gặp dịp tốt cũng chưa biết chừng. Tôi sẽ tìm cho anh một cách. Ngày trước nhà anh nhận họ với họ Vương ở Kim Lăng. Hai mươi năm trước đây, họ đối với nhà anh cũng từ tế. Bây giờ anh lại làm bộ không chịu đến thăm họ, thành ra xa hẳn đi. Nhớ lúc trước, mẹ con tôi đã có lần đến đó. Cô thứ hai nhà ấy tính tình nhũn nhặn, không hay kênh kiệu, rất rộng rãi đối với mọi người, giờ là phu nhân họ Giả ở phủ Vinh. Nghe đâu bà ấy đã có tuổi, biết thương người già, kẻ khó, hay bố thí cho sư sãi. Hiện giờ họ Vương được thăng quan ra ngoài biên rồi, nhưng chắc thế nào bà ấy cũng còn nhớ chúng tạ Tại sao anh không chịu đến thăm? May ra bà ấy nghĩ đến người cũ, giúp đỡ ít nhiều cũng chưa biết chừng. Chỉ cốt họ có lòng tốt, nhổ ra một sợi lông măng còn to hơn cái lưng chúng ta.
Vợ Cẩu Nhi nói theo:
- Bà nói phải đấy. Nhưng anh ấy với tôi người ngợm thế này thì làm sao đến nhà người ta được. Chỉ sợ người gác cửa không cho vào thôi.
Cẩu Nhi vốn nặng lòng danh lợi, vừa nghe mẹ vợ nói, trong lòng đã ngứa ngáy. sau lại nghe vợ nói liền, cười nói:
- Bà nói phải đấy. Ngày trước đã có lần bà đến thăm bà ấy, thế thì ngày mai bà nên đi một chuyến nữa, nghe ngóng ra sao?
Già Lưu nói:
- Chao ôi, người ta thường nói: “Cửa nhà quan sâu như bể.” Ta là cái thá gì, lại không quen biết ai, thì đi cũng uổng công thôi.
Cẩu Nhi nói:
- Không sao, tôi sẽ bảo cách. Bà dắt cháu Bản đi. Trước hết bà tìm đến Chu Thuỵ là người hầu bà Vương lúc mới về nhà chồng. Gặp được ông ấy, ta sẽ có phần chắc đấy. Ngày trước, cha tôi có giúp ông ấy một việc, từ đấy hai bên đi lại rất tử tế với nhau.
Già Lưu nói:
- Tôi hiểu rồi. Nhưng lâu nay mình không đến thăm, không biết người ta thế nào, thành ra cũng khó nói. Anh là đàn ông, ăn nói lỗ mãng, cố nhiên không nên đến. Vợ anh còn non trẻ cũng không nên xông xáo. Thôi, để gái già này đành giơ mặt hứng lấy việc vậy. Nếu được may mắn thì cả nhà cũng có lợi đấy.
Chiều hôm ấy bàn định xong, hôm sau, trời chưa sáng rõ, già Lưu đã dậy rửa mặt, chải đầu, rồi dặn cháu Bản mấy câu. Đứa bé mới năm, sáu tuổi, nghe nói được ra tỉnh chơi, mừng tíu lên, bảo gì cũng vâng.
Già Lưu dắt thằng Bản vào thành. Khi đến phố Ninh-Vinh, cạnh con sư tử đá ở trước cửa phủ Vinh, thấy chật ních những ngựa và kiệu. Già Lưu đứng lại, phủi quần áo, dặn cháu Bản mấy câu rồi chạy đến chỗ cửa nách. Thấy mấy người đương ngồi trên ghế lớn, ưỡn ngực, phưỡn bụng, khoa chân múa tay, nói chuyện ba hoa, già Lưu rón rén lại chào:
- Lạy các ông ạ!
Mọi người ngắm nghía một lúc rồi hỏi:
- Ở đâu đến đây?
Già Lưu cười đáp:
- Tôi cần hỏi ông Chu là người theo hầu Vương phu nhân, nhờ ông mời ra hộ.
Không ai thèm để ý đến. Một lúc lâu họ mới trả lời:
- Hãy lại góc tường thật xa đằng kia mà chờ. Chốc nữa trong nhà sẽ có người ra.
Trong bọn, có một người lớn tuổi, nói:
- Đừng làm người ta nhỡ việc.
Rồi ngoảnh lại hỏi già Lưu:
- Ông Chu đi sang bên Nam rồi. Nhà ở phía sau, chỉ có bà ấy ở nhà thôi. Mụ đi vòng ra cửa sau mà vào.
Già Lưu cảm ơn, dắt cháu Bản đi vòng ra cửa sau. Thấy trước cửa có nhiều gánh hàng bán thức ăn, bán đồ chơi, lại có mấy chục đứa trẻ đang đùa nghịch ầm ỹ, già Lưu níu lấy một đứa hỏi:
- Hỏi cậu một tí, bà Chu có nhà không?
Đứa bé trừng mắt:
- Bà Chu nào? ở đây có ba bà Chu kia. Còn hai bà Chu nữa. Không biết bà Chu nào?
- Bà ấy là người theo hầu Vương phu nhân.
- Thế thì dễ thôi. Bà cứ đi theo tôi.
Rồi nó lon xon dẫn già Lưu đến bên cạnh tường sau dinh, trỏ bảo:
- Đấy nhà bà ấy đấy.
Nói rồi lại gọi to:
- Bà Chu ơi, có bà già nào hỏi đấy.
Vợ Chu Thụy vội chạy ra hỏi:
- Bà nào đấy?
Già Lưu đon đả chạy lại cười nói:
- Bà chị có được khỏe không?
Vợ Chu Thụy nhìn một lúc rồi cười nói:
- À bà Lưu ! Bà vẫn khỏe đấy chứ! đã mấy năm nay không gặp, thành ra tôi quên mất. Xin mời bà vào nhà chơi.
Già Lưu vừa đi vừa cười nói :
- Bây giờ bà sang rồi, hay quên là phải, còn nhớ gì đến chúng tôi nữa.
Nói xong vào trong nhà.
Vợ Chu Thụy sai con bé pha trà uống, rồi hỏi:
- Cháu Bản đã lớn thế kia à?
Sau mấy câu chuyện kể lại trong khi xa nhau, bà Chu
hỏi già Lưu:
- Hôm nay bà đi qua tạt vào chơi, hay chủ ý đến đây có việc gì?
Già Lưu nói:
- Hôm nay tôi chủ ý đến thăm bà chị, sau nữa muốn đến hầu cả bà Vương. Nếu có thể đưa tôi đến được càng hay, bằng không thì nhờ bà chị nói giúp.
Bà Chu nghe nói đã phần nào đoán được chủ ý của già Lưu. Vì chồng bà Chu trước kia nhờ thế lực bố Cẩu Nhi mới mua tranh được ít ruộng đất. Nay thấy già Lưu nói thế, bà Chu không tiện chối từ, mặt khác muốn tỏ ra là mình có thể diện nên cười nói:
- Bà cứ yên tâm, ở xa thế mà cũng chịu khó đến đây, lẽ nào tôi không dẫn đến chầu đức Phật bà. Cứ lẽ ra, những người đi lại đây không can dự gì đến tôi cả. Mỗi người một việc. Ông nhà tôi một năm hai mùa đi thu tô, lúc rồi thì dắt các cậu đi chơi, thế là hết. Còn tôi, chỉ có việc theo hầu các bà các cô đi chơi thôi. Vì bà là người bà con với bà Hai, vả lại cần đến tôi, tôi xin cố sức giúp hộ. Nhưng có một việc chắc bà không biết, ở đây không như năm năm về trước nữa đâu. Hiện giờ bà Hai không nhìn đến việc gì, tất cả đều giao cho mợ Liễn trông coi. Bà thử đoán xem mợ Liễn là ai? Tức là cháu gái bà Hai, con gái nhà ông cậu, lúc nhỏ cứ gọi là cô Phượng đấy.
Già Lưu nghe vậy lấy làm lạ lùng, hỏi:
- Thế ra cô ấy đấy à? Không trách được! Trước tôi vẫn nói cô ta khá lắm. Thế ra hôm nay tôi lại được gặp.
- Việc ấy cố nhiên rồi. Bây giờ bà Hai còn bận nhiều việc. Hễ khách nào đến có thể đẩy được là đẩy cho mợ Phượng săn sóc tiếp đãi cả. Hôm nay bà chưa nên gặp bà ấv vội, thế nào cũng phải gặp mợ Liễn, thì bà đi chuyến này mới không đến nỗi uổng công.
- Ai di đà Phật! Thôi trăm sự nhờ bà chị.
- Sao bà lại nói thế? Tục ngữ nói rất đúng: “Giúp người tức là giúp mình”. Tôi chỉ mất lời nói thôi chứ có tốn kém gì đâu.
Nói xong, bà Chu sai a hoàn lẻn lên nhà trên, dòm xem bên cụ đã dọn cơm chưa. A hoàn đi rồi, hai người ở nhà nói chuyện phiếm. Già Lưu nói:
- Mợ Phượng năm nay chỉ độ hai mươi tuổi thôi, thế mà có tài đảm đang trông coi tất cả công việc trong nhà, thật là ít có.
Bà Chu nói:
- Ái chà? Còn phải nói. Mợ ấy ít tuổi, nhưng đảm đang gấp mấy người tạ Bề ngoài dáng điệu óng ả, tưởng chỉ là một cô gái đẹp, nhưng lại là người có đến vạn con mắt, không chỗ nào là không nhìn thấy. Còn về ăn nói thì chấp cả mười anh đàn ông mồm mép cũng phải thuạ Chốc nữa gặp, bà sẽ biết. Có điều đối với người dưới hơi nghiệt thôi.
Một chốc a hoàn về báo:
- Bên nhà cụ đã dọn cơm xong. Mợ hai đương ở nhà Vương phu nhân.
Bà Chu nghe nói, vội vàng đứng dậy giục già Lưu:
- Đi đi! Chốc nữa họ ăn cơm xong là có dịp rồi đấy, chúng ta đến chờ trước đi. Nếu chậm một bước, nhiều người đến trình việc thì khó nói lắm. Họ ăn xong lại đến giấc ngủ trưa, còn thì giờ nào nữa.
Hai người cùng xuống giường, sửa lại quần áo. Già Lưu nhắc lại thằng Bản mấy câu, rồi theo bà Chu đi quanh đến nhà Giả Liễn. Khi đến buồng ngoài, bà Chu để già Lưu ngồi chờ một chỗ, tự mình đi qua bức tường vẽ, tiến lên cửa dinh. Biết Phượng Thư chưa ra, bà Chu tìm ngay Bình Nhi là một a hoàn hầu cận của Phượng Thư, kể rõ lai lịch già Lưu rồi nói:
- Bây giờ già ấy ở xa đến thăm bà Hai. Vì ngày trước bà Hai đã thường gặp, nên tôi dắt bà ấy đến đây. Chờ khi mợ xuống, tôi sẽ nói rõ đầu đuôi, chắc mợ không mắng tôi là người lỗ mãng.
Bình Nhi nghe xong nói:
- Mời họ lên ngồi chỗ này đã.
Bà Chu ra dẫn bà cháu già Lưu đến thềm giữa. Bọn a hoàn nhỏ vén rèm đỏ lên. Vừa bước vào nhà đã thấy mùi hương ngào ngạt. Già Lưu không biết mùi gì, cứ như đứng ở trong đám mây vậy. Nhìn khắp nhà, đồ vật bày biện sáng choang; làm cho ai nấy phải nhức đầu lóa mắt. Già Lưu bây giờ chỉ biết gật đầu lẩm nhẩm niệm Phật, rồi đến gian nhà phía đông là buồng ngủ của con gái Giả Liễn. Bình Nhi đứng cạnh bục ngắm nhìn già Lưu hỏi một câu và mời ngồi. Già Lưu thấy Bình Nhi khắp người là lượt, trâm vàng, vòng bạc, dáng đẹp như hoa, mặt tròn như trăng, tưởng là Phượng Thư, toan chào là “cô”, nhưng thấy bà Chu nói: “Đây là cô Bình”. Lại thấy Bình Nhi gọi bà Chu là bà, già Lưu mới biết đấy chỉ là một thị nữ hạng khá. Bình Nhi mời già Lưu và cháu Bản ngồi lên bục, bọn a hoàn nhỏ pha trà mời uống.
Già Lưu nghe có tiếng lách tách như tiếng thanh la, nhìn ngược nhìn xuôi, thấy trên cột có treo một cái hộp, dưới hộp có một cái gì như quả cầu. cứ đưa đi đưa lại luôn. Già Lưu nghĩ bụng: “Nó là cái gì? Dùng nó để làm gì?” đương lúc ngẩn ngơ suy nghĩ thì nghe “Keng” một tiếng như chuông vàng, khánh đồng vậy. Sợ quá, già Lưu trên mắt lên nhìn, lại thấy “keng keng” tám chín tiếng liền, già Lưu toan hỏi thì bọn a hoàn nhỏ chạy xô đến nói:
- Mợ sắp xuống đấy!
Bà Chu và Bình Nhi đứng dậy vội bảo già Lưu:
- Bà cứ ngồi đây chờ một lúc, tôi sẽ lại mời.
Nói rồi chạy ra ngoài.
Già Lưu ngồi im lặng lắng tai nghe ngóng. Chỉ thấy xa xa có tiếng cười, chừng vài chục người đàn bà, quần áo sột soạt, lên thềm đi vào nhà. Lại thấy hai ba người đàn bà cầm hộp sơn đỏ đứng đấy chờ. Rồi trong nhà có tiếng gọi: “Dọn cơm”. Mọi người dần dần lui ra, chỉ còn một vài người ở lại bưng thức ăn. Cả nhà im lặng không một tiếng động. Giờ lâu hai người khiêng cái mâm để lên trên bục. Trên mâm bát đĩa đầy những thịt cá, nhưng chỉ mới khuyết qua loa một vài thứ. Thằng Bản trông thấy đòi ăn, già Lưu tát nó một cái. Chợt thấy bà Chu cười hì hì chạy đến vẫy tay gọi. Già Lưu biết ý, dắt thằng Bản xuống bục đi lại gian giữa. Bà Chu đến thì thầm với già Lưu một lúc, rồi cùng rón rén vào nhà trong. Vừa bước vào cửa, già Lưu nhìn thấy trên móc đồng treo một cái màn hoa màu đại hồng, dưới cửa sổ hướng nam, kê một cái bục giải nệm màu đại hồng; cạnh vách phía đông đặt cái nệm, tựa lưng bằng gấm thêu, một cái gối tựa và một cái nệm ngồi cũng thêu bằng chỉ kim tuyến; bên cạnh có cái ống nhổ bằng bạc. Phượng Thư ở nhà thường đội mũ Chiêu Quân lông điêu sắc tía, chung quanh có dây giắt hạt châu, mặc áo hoa màu hồng điều, khoác áo choàng bằng da chuột, viền chỉ tơ màu thạch thanh, mặc quần nền lụa đại hồng phấn son lộng lẫy, ngồi nghiêm chỉnh ở đấy, tay đương cầm cái đũa bằng đồng gạt tro lồng ấp.
Bình Nhi đứng ở bên giường, bưng một cái khay sơn nhỏ, trong có một chén trà. Phượng Thư không cầm lấy chén, không ngửng đầu lên, cứ tay gạt tro, miệng thong thả nói: “Làm sao mãi không mời người ta lên?” Vừa lúc ngẩng lên uống nước thì thấy bà Chu dẫn hai người đứng ở dưới đất. Phượng Thư toan đứng dậy nhưng chưa đứng, vẻ mặt đã tươi cười hỏi han, lại quở bà Chu: “Tại sao không báo sớm?”
Già Lưu đứng dưới đất lạy mấy lạy, hỏi thăm sức khỏe. Phượng Thư nói :
- Chị Chu đỡ dậy, đừng để lạy nữa. Xin mời ngồi. Tôi còn ít tuổi, chưa biết rõ thứ bậc họ hàng, không biết xưng hô thế nào?
Bà Chu nói:
- Đây là bà cụ tôi mới trình mợ lúc nãy.
Phượng Thư gật đầu.
Già Lưu đã ngồi vào mép bục bảo thằng Bản đến hàng trăm lần ra chào mợ Hai, nó vẫn cứ nấp sau lưng, nhằng nhằng không chịu ra.
Phượng Thư cười nói :
- Chỗ họ hàng không năng đi lại, thành ra xa nhau. Người biết ra thì bảo bà con hững hờ với nhau, không đến chơi luôn. Người không biết lại bảo chúng tôi không coi ai ra gì.
Già Lưu vội nói:
- A di đà phật, nhà chúng tôi nghèo khó, không dám đến đây, dù cô không nói gì, nhưng các ông quản gia cũng chẳng coi chúng tôi ra sao.
Phượng Thư cười nói:
- Đừng nói thế, chẳng qua nhờ tiếng ông cha làm một chức quan kiết, chứ giàu có gì, chỉ là cái giá rỗng đấy thôi. Câu tục ngữ nói rất đúng: “Nhà vua còn có ba họ nghèo” nữa là nhà chúng ta.
Nói xong lại hỏi bà Chu đã đến trình bà chưa. Bà Chu đáp:
- Còn chờ lệnh mợ.
Phượng Thư nói:
- Chị đi xem, nếu có ai ở đấy thì thôi, bằng không thì hãy trình xem người bảo sao?
Bà Chu vâng lời đi ngaỵ Phượng Thư sai người lấy hoa quả cho cháu Bản ăn. Vừa nói chuyện phiếm mấy câu, đã có nhiều người nhà đến trình việc. Bình Nhi vào báo. Phượng Thư bảo:
- Ta bây giờ đương bận tiếp khách, bảo họ chiều hãy đến. Nếu ai có việc cần thì cứ vào.
Bình Nhi ra một lúc rồi vào nói:
- Tôi đã hỏi, không có ai có việc gì cần cả. Tôi bảo họ về cả rồi.
Phượng Thư gật đầu.
Bà Chu trở về nói với Phượng Thư:
- Bà nói, hôm nay không được rồi. Mợ tiếp cũng thế. Cảm ơn bà ấy có lòng tốt đến hỏi thăm. Bà ấy đến chơi không thì thôi, nếu có việc gì muốn nói thì cứ nói với mợ cũng được.
Già Lưu nói:
- Không có việc gì, tôi chỉ đến thăm bà cô và cô thôi, vì tình bà con họ hàng với nhau.
Bà Chu nói:
- Không có việc gì thì thôi, nếu cần gì thì cứ nói với mợ cũng như là nói với bà vậy.
Vừa nói bà Chu vừa đưa mắt cho già Lưu.
Già Lưu biết ý, chưa nói mặt đã đỏ bừng. định không nói. Nhưng hôm nay đến đây làm gì. Bà đành ngượng nghịu nói:
- Hôm nay mới gặp lần đầu, đáng lẽ tôi không nên nói thì phải. Nhưng vì từ xa đến đây, tôi không thưa cũng không được.
Vừa nói đến đây thì có bọn a hoàn vào trình:
- Có cậu cả Dung ở bên phủ Đông sang chơi.
Phượng Thư vội gạt tay nói:
- Bà không cần phải nói nữa.
Rồi ngoảnh mặt ra hỏi:
- Cậu cả Dung ở đâu?
Chợt nghe tiếng giày lẹp kẹp , một chàng trẻ tuổi độ mười bảy, mười tám, mặt mũi thanh tú, khổ người mềm mại, ăn mặc lịch sự, áo cừu mỏng, đai dát ngọc, từ ngoài đi vào. Già Lưu bấy giờ cuống quít đứng ngồi không tiện, chẳng biết lánh chỗ nào. Phượng Thư cười nói:
- Bà cứ ngồi yên, cháu tôi đấy.
Già Lưu mới rụt rè ngồi ghé bên cạnh bục.
Giả Dung chào rồi cười nói:
- Cha cháu sai cháu đến nhờ thím một việc. độ trước bên bà ngoại có cho thím cái bình phong pha lệ Ngày mai nhà cháu có khách xin thím cho mượn về, xong cháu sẽ trả ngay.
Phượng Thư nói:
- Cháu đến chậm quá. Hôm nọ ta trót cho mượn mất rồi.
Giả Dung nghe nói cười hì hì, quỳ lom khom ở trên bục nói:
- Nếu thím không cho mượn, cha cháu sẽ bảo cháu không khéo nói, lại bị một trận đòn thôi. Thím ơi! Thương cháu với.
- Không lẽ cái gì của nhà họ Vương cũng đều đẹp cả. Ở bên nhà cháu bao nhiêu đồ đẹp, nhưng hễ thấy cái gì của ta là chỉ chực cuỗm thôi.
- Thôi xin thím cứ làm ơn cho.
- Nhưng hễ sứt sát một tý là ta xé xác đấy!
Rồi sai Bình Nhi lấy chìa khóa mở cửa lầu, gọi mấy người cẩn thận lên khiêng bình phong đi. Giả Dung vội cười nói:
- Cháu sẽ tự dẫn người mang đi không dám làm sứt mẻ một tý.
Nói xong đứng dậy đi.
Phượng Thư chợt nghĩ đến một việc, vội ngoảnh ra cửa sổ gọi :
- Cháu Dung hãy trở lại đây.
Mấy người bên ngoài gọi theo:
- Cậu Dung hãy trở lại.
Giả Dung vội quay lại, buông thõng tay đứng đợi.
Phượng Thư cứ lẳng lặng uống nước, rồi ngẩn một lúc rồi mặt tự nhiên đỏ bừng lên, cười nói:
- Thôi cháu hãy về đi. Cơm chiều xong lại đây sẽ nói. Bây giờ đương có người, ta chẳng bụng nào nghĩ đến nữa.
Giả Dung vâng một tiếng rồi lững thững đi ra.
Già Lưu lúc này mới yên dạ, bèn nói:
- Hôm nay tôi đem cháu cô đến, chẳng có việc gì khác cả. Chỉ vì bố mẹ cháu ở nhà ăn cũng không có, trời lại rét, nên phải mang cháu đến đây.
Nói xong, lại giục thằng Bản:
- Ở nhà bố mày dặn mày đến nói những gì để bày tỏ hết tình cảnh nhà tả Mày chỉ biết ăn thôi!
Phượng Thư biết ngay, thấy đứa bé không nói, liền cười bảo:
- Thôi, không cần nói nữa, tôi biết cả rồi.
Rồi lại hỏi bà Chu:
- Bà Lưu đã ăn cơm sáng chưa?
Già Lưu vội đáp:
- Trời vừa sáng tôi đã tất tưởi chạy đến đây, còn có thì giờ đâu mà ăn nữa.
Phượng Thư bèn sai dọn cơm ngay.
Một lúc bà Chu gọi bưng một mâm cơm để ở gian nhà phía đông rồi dắt già Lưu và thằng Bản sang ăn.
Phượng Thư nói:
- Chị Chu sang mời hộ, tôi không thể tiếp được.
Rồi lại gọi bà Chu đến hỏi:
- Vừa rồi chị đến trình bà, người bảo sao?
- Bà nói bà ấy không phải là người trong họ đâu. Trướcđây ông nhà họ và ông nhà ta cùng làm quan một nơi, nên nhận họ cho thân đấy thôi. Đã mấy năm nay họ không đến thăm nom gì. Trước đây mỗi lần họ đến, không lần nào về không. Nay bà ấy đến thăm, cũng là có bụng tốt; đừng khinh rẻ người tạ Nếu cần gì, mợ cứ việc định đoạt.
Phượng Thư nghe xong rồi nói:
- Không trách được! Bảo là người trong họ, sao ta lại chẳng biết một tí gì?
Hai người đang nói chuyện, già Lưu đã ăn cơm xong, dắt thằng Bản đến, liếm môi liếm mép, lắp bắp cám ơn.
Phượng Thư cười nói:
- Hãy ngồi xuống đây để tôi nói chuyện đã. Bà nói lúc nãy tôi hiểu cả rồi. Đã là người trong họ, đáng ra không đợi bà đến đây tôi mới giúp đỡ. Nhưng giờ nhà tôi nhiều việc, bà Hai đã có tuổi, không thể mỗi lúc nghĩ đến tất cả họ hàng được. Nhà tôi tiếng tăm bề ngoài lừng lẫy thực, biết đâu cũng còn nhiều việc khó khăn. Nói ra chưa chắc đã ai tin. Bà ở xa đến đây, lại lần đầu giãi bày câu chuyện, lẽ nào tôi để cho bà về không. May sao vừa rồi mẹ tôi cho hai mươi lạng bạc để may quần áo cho người nhà, hiện chưa dùng đến, nếu bà không chê ít thì hãy đem về tiêu tạm vậy.
Già Lưu trước nghe nói khó khăn, tưởng không hy vọng gì, trong lòng thậm thột. Sau thấy cho hai mươi lạng bạc thì hớn hở vui mừng, người rạo rực lên, cười nói:
- Chúng tôi biết nhà ta bây giờ cũng khó khăn thực. Nhưng tục ngữ nói: “Con lạc đà còm rúm, vẫn lớn hơn con ngựa”. Dù thế nào mặc lòng, nhà ta chỉ nhổ một cái lông măng còn hơn cả cái lưng chúng tôi.
Bà Chu đứng bên, nghe già Lưu nói nhiều câu tục tằn, phải đưa mắt bảo thôi. Phượng Thư cười, không để ý đến, sai Bình Nhi đem gói bạc ra và lấy thêm một quan tiền nữa để cả trước mặt già Lưu. Phượng Thư nói:
- Hai mươi lạng bạc này hãy tạm cho lũ trẻ may áo rét. Hôm nào bà lại đến chơi, thế mới là tình họ hàng. Bây giờ muộn rồi, không muốn mời suông. Khi về nhà, ai nên hỏi thăm, nhờ bà hỏi hộ.
Nói rồi đứng dậy.
Già Lưu tay cầm tiền, mồm cám ơn lia lịa rồi theo bà Chu đi ra.
Bà Chu nói:
- Cha mẹ Ơi, khi gặp mợ ấy sao bà nói vụng về thế? Cứ mở miệng ra bà gọi thằng Bản là cháu cộ Tôi nói câu này bà đừng giận, ngay cháu ruột mợ ấy cũng phải ăn nói cho nhã nhặn. Như cậu Dung mới thực là cháu, chứ đâu lại có thằng cháu như thế này?
Già Lưu cười nói:
- Chị Ơi! Trông thấy mợ ấy tôi yêu quá đi mất, còn nói sao nên lời nữa.
Hai người nói chuyện xong lại đến nhà bà Chu ngồi một lúc. Già Lưu muốn để một lạng bạc cho con bà Chu ăn quà, nhưng bà Chu khi nào thèm để mắt đến, nhất định không nhận.
Già Lưu cám ơn luôn mồm, rồi ra cửa sau về nhà. Thực là:
Để giúp đỡ trong khi hởi dạ,
Hơn bạn bè ở chỗ mang ơn.
SongQueJul 9 2004, 10:54 AM
Hồi 7
Đem biếu cung hoa, Giả Liễn đùa Hy Phượng
Ăn yến Ninh phủ, Bảo Ngọc gặp Tần Chung
Bà Chu tiễn già Lưu về rồi, lên trình Vương phu nhân, không thấy ở trong phòng, hỏi ra lũ a hoàn mới biết là sang chơi bên Tiết phu nhân. Bà Chu liền ra cửa nách, qua nhà phía đông, đến viện Lệ hương. Vừa vào cửa, thấy a hoàn của Vương phu nhân là Kim Xuyến cùng một a hoàn mới để tóc đang đùa với nhau ở trên thềm. Trông thấy bà Chu, Kim Xuyến biết tất có việc gì liền hếch mồm vào phía trong ra hiệu.
Bà Chu khẽ nâng rèm bước vào, thấy Vương phu nhân cùng Tiết phu nhân đang nói chuyện lan man hết việc nhà đến việc người. Bâ Chu không dám đánh động, rảo bước vào nhà trong, thấy Tiết Bảo Thoa mặc đồ thường, trên đầu búi tóc trần, ngồi cạnh bục, cúi xuống bàn cùng a hoàn là Anh Nhi đang vẽ hoa. Thấy bà Chu đến, Bảo Thoa bỏ bút xuống, quay người lại, đon đả cười nói:
- Mời chị Chu ngồi.
Bà Chu vội cười hỏi:
- Cô mạnh luôn chứ?
Rồi ngồi cạnh bục nói:
- Đã hai ba hôm nay không thấy cô sang bên kia chơi, hay là cậu Bảo có điều gì trái ý đấy!
- Sao lại nói thế? Chỉ vì bệnh của tôi lại phát, nên phải ở nhà tĩnh dưỡng mấy ngày.
- Thế à? Cô có bệnh gì? Nên mời thầy xem mạch cho thuốc. Còn trẻ tuổi mà mắc bệnh không phải là chuyện chơi đâu!
- Thôi đừng nói chuyện ấy nữa, đã mời bao nhiêu thầy lang, tốn thuốc, tốn tiền, rút cục chẳng thấy hiệu nghiệm gì. Sau có một vị hòa thượng chuyên trị những bệnh không tên, không tuổi, tôi nhờ xem, người bảo tôi bị nhiệt độc từ khi ở trong thai, may mà tiên thiên tốt, nên không việc gì. Thuốc thường thì không ăn thuạ Người có kê cho bài thuốc tên là “Hải thượng tiên phương”(#1), lại cho một gói thuốc bột để làm thuốc dẫn, mùi thơm lạ thường. Người bảo: hễ thấy đau thì uống một liều là đỡ ngaỵ Kể cũng lạ thật, uống vào quả thấy hiệu nghiệm.
- Phương thuốc gì, cô cho biết, để sau này có ai mắc bệnh như thế tôi sẽ mách họ, cũng là một việc làm phúc.
- Đừng hỏi phương thuốc ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người ta bực đến chết được. Các vị thuốc phải có đồng cân đồng lạng nhất định, khó nhất là được hai chữ “Vừa khéo”. Phải có mười hai lạng nhụy hoa mẫu đơn trắng nở vào mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa sen trắng nở vào mùa hạ, mười hai lạng nhụy hoa phù dung trắng nở vào mùa thu, mười hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa đông. Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phân năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột; lại phải có mười hai đồng cân nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.
- Ối chao! Mất ba năm mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy không mưa thì làm thế nào?
- Nếu không gặp được nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy. Còn phải mười hai đồng cân nước móc vào ngày bạch lộ, mười hai đồng cân nước sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng cân tuyết vào ngày tiểu tuyết. Đem bốn thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai đồng cân mật ong, mười hai đồng cân đường trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa, khi nào ốm thì lấy một viên ra uống, sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.
- A di đà Phật! Khéo chết người chưa? Chờ đến mười năm nữa cũng chưa chắc đã tìm đủ được các vị thuốc!
- Cũng may, sau khi hòa thượng đi độ một hai năm, vừa khéo tôi tìm đủ các vị để chế được một tễ. Giờ tôi mang từ nam lên, hiện chôn ở gốc cây lê kia.
- Thuốc ấy có tên không?
- Có, hòa thượng bảo tên là Lãnh hương hòa.
Bà Chu nghe xong gật đầu hỏi:
- Cô ốm ra sao?
- Không biết thế nào, chỉ ho xuyễn thôi, uống một viên là khỏi
Bà Chu muốn nói nữa, chợt nghe Vương phu nhân hỏi:
- Ai ở trong ấy?
Bà Chu vội chạy ra trình việc già Lưu. Một lúc, thấy Vương phu nhân không nói gì , bà Chu muốn lùi ra thì Tiết phu nhân cười bảo:
- Chị đứng lại đây. Tôi có cái này, nhờ chị mang đi hộ.
Nói xong, gọi: Hương Lăng!
Có tiếng rèm động, a hoàn bé hồi nãy chơi đùa với Kim Xuyến tiến lên hỏi:
- Thưa mẹ bảo gì?
Tiết phu nhân bảo:
- Lấy chùm hoa ở trong hộp mang lại đây.
Hương Lăng vâng lời, mang hộp gấm nhỏ đến. Tiết phu nhân nói:
- Đây là mười hai cành hoa bằng lụa kiểu mới rất đẹp, ở trong cung tết ra để cài đầu. Hôm qua tôi nghĩ: nếu cất đi nó cũ mất, thật đáng tiếc, chi bằng đem ra cho các chị em chúng nó dùng. Tôi định đưa ngay, nhưng rồi lại quên bẵng đi mất. Hôm nay chị đến vừa đúng, nhờ chị mang đi chia giúp. Ba cô nhà, chị chia mỗi cô hai cành, còn sáu cành cho cô Lâm hai cành, cô Phượng bốn cành.
Vương phu nhân nói:
- Sao không để cho cháu Bảo mà lại chia cho các cháu?
Tiết phu nhân nói:
- Chị không biết, con ranh ấy tính lạ lắm! Xưa nay nó có thích hoa thích phấn bao giờ.
Bà Chu cầm hộp ra cửa. Thấy Kim Xuyến vẫn còn ngồi ngoại nắng, bà Chu hỏi:
- Con Hương Lăng này có phải con bé mà người ta thường nói, khi sắp vào Kinh mới mua nó, vì nó mà xảy ra vụ án mạng đấy không?
Kim Xuyến nói:
- Nó đấy, chứ còn ai nữa.
Đương nói, thấy Hương Lăng cười hì hì chạy đến, bà Chu kéo tay nó lại gần, ngắm nghía nó một lúc rồi quay lại phía Kim Xuyến cười nói:
- Dáng điệu con này hơi giống chị Dung bên phủ Đông chúng ta.
Kim Xuyến nói:
- Tôi cũng bảo thế.
Bà Chu lại hỏi Hương Lăng:
- Em đến đây được mấy năm rồi? Cha em ở đâu? Năm nay bao nhiêu tuổi? Quê quán ở đâu?
Hương Lăng lắc đầu:
- Em chẳng nhớ gì cả.
Bà Chu và Kim Xuyến nghe nói than thở hồi lâu.
Một lúc sau, bà Chu đem hoa đến buồng Vương phu nhân. Nguyên gần đây Giả mẫu có nói: “Lũ cháu gái bây giờ đông hơn trước, ở chung một chỗ không tiện, nên chỉ để Bảo Ngọc và Đại Ngọc ở bên cạnh cho đỡ buồn thôi, còn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích xuân thì cho ở ba gian sau buồng của Vương phu nhân và bảo Lý Hoàn sớm tối trông nom”. Bà Chu tiện đường đến đấy trước. Bọn a hoàn nhỏ đang ngồi trong nhà nghe đợi sai gọi. A hoàn của Thám Xuân là Thị Thư, a hoàn của Nghênh Xuân là Tư Kỳ đứng vén rèm, tay hãy còn bưng khay nước. Bà Chu biết ngay là mấy cô đang ngồi chơi đấy, bèn đi vào buồng. Thấy Nghênh Xuân, Thám Xuân đang đánh cờ dưới cửa sổ . Bà Chu đưa hoa và nói rõ là của Tiết phu nhân chọ Hai cô dừng đánh cờ, đứng dậy gửi lời cám ơn, rồi bảo a hoàn cất đi.
Bà Chu vâng lời rồi nói:
- Cô Tích Xuân không ở nhà, có lẽ sang bên cụ.
A hoàn nói:
- Không sang bên ấy thì còn ở đâu.
Bà Chu nghe nói đi sang ngay, gặp Tích Xuân đang cười đùa với sư cô Trí Năng ở am Thủy Nguyệt. Trông thấy bà Chu đến, Tích Xuân hỏi có việc gì. Bà Chu mở hộp ra nói việc Tiết phu nhân sai đem hoa đến chọ Tích Xuân cười nói:
- Tôi đương nói với Trí Năng, ngày mai sẽ cắt tóc theo cô ấy đi tụ Rõ khéo chưa? Giờ lại mang hoa đến! đã cắt tóc thì còn cài hoa vào đâu nữa?
Mọi người cười ầm lên, Tích Xuân sai a hoàn cất hoa đi.
Bà Chu hỏi Trí Năng:
- Sư cô đến đây từ bao giờ? Sư phụ đầu trọc của cô đi đâu?
Trí Năng nói:
- Chúng tôi đến từ sớm. Sư phụ tôi đến thăm bà Hai, rồi sang bên nhà ông Dư, bảo tôi chờ ở đây.
Bà Chu hỏi:
- Tiền hương đến ngày rằm đã lĩnh chưa?
Trí Năng nói:
- Tôi không biết.
Tích Xuân hỏi bà Chu:
- Tiền hàng tháng của các chùa, các miếu, ai trông nom?
Bà Chu đáp:
- Dư Tín trông nom.
Tích Xuân nghe xong cười nói:
- Thảo nào sư phụ khi mới tới, vợ Dư Tín đã đến thì thầm, chắc cũng chỉ vì việc ấy.
Bà Chu nói chuyện với Trí Năng một lúc, rồi sang nhà Phượng Thự Đi đường cạnh nhà, ven qua cửa sổ nhà Lý Hoàn, rẽ sang tường hoa phía tây, ra đến cửa nách thì đến nhà Phượng Thự Đến thềm, a hoàn nhỏ là Phong Nhi đương ngồi ở bực cửa, trông thấy, vội vẫy tay bảo đi sang phía đông. Bà Chu biết ý, rón rén đi ngay đến đó, thấy vú em đương ru em ngủ. Bà Chu khẽ hỏi:
- Mợ đương ngủ trưa đấy à? Nên mời dậy hộ.
Vú em cười, bĩu môi lắc đầu. Ngay khi ấy nghe thấy ở trong có tiếng cười, lại là tiếng Giả Liễn. Liền đấy có tiếng mở cửa. Bình Nhi mang cái chậu đồng ra gọi người móc nước. Bình Nhi đi sang bên kia, thấy bà Chu liền hỏi:
- Bà lại đến đây làm gì thế?
Bà Chu vội vàng đứng dậy đưa cái hộp nói:
- Đem cho hoa đây.
Bình Nhi mở hộp lấy bốn cành hoa rồi quay người đi ngay, một chốc cầm hai cành ra, gọi Thái Minh đến bảo: “Đưa sang cho mợ Dung ở phủ bên kia, rồi bảo bà Chu về cám ơn hộ.”
Bà Chu vừa ở bên nhà Giả mẫu, đi qua xuyên đường, ngẩng đầu lên, thấy con gái mình ăn mặc chải chuốt, vừa ở nhà mẹ chồng đến. Bà Chu vội hỏi:
- Mày đến đây làm gì?
- Mẹ vẫn khỏe chứ. Con ở nhà chờ suốt nửa ngày, không gặp. Mẹ có việc gì bận mà không về. Chờ mãi không được, con đến thăm cụ. Bây giờ con lại định đến thăm bà Hai đây. Mẹ còn bận việc chưa xong à? Tay cầm cái gì đấy?
- Ối chào! Hôm nay già Lưu đến, thành ra mình lại mua lấy việc, vì bà ta mà tao phải chạy suốt nửa ngày. Vừa rồi, Tiết phu nhân lại sai đem mấy cành hoa cho các cộ Đến bây giờ cũng chưa đưa hết! Hôm nay mày đến đây chắc là có việc gì?
Người con gái cười nói:
- Mẹ khéo đoán thế! Nói thực với mẹ, con rể mẹ hôm trước say rượu cãi nhau với người ta, không biết làm sao, bị người ta vu oan giá họa cho là anh ấy lý lịch không rõ ràng, thưa quan bắt phải giải về nguyên quán. Vì thế con đến nhờ mẹ bàn tính làm thế nào cho xong việc được?
- Tao biết rồi, lo gì việc ấy. Mày chỉ cuống lên thôi. Về nhà trước đi để tao đến đưa hoa cho cô Lâm đã. Bây giờ bà và mợ Hai không rỗi đâu.
Người con gái thấy vậy quay về, lại nói:
- Mẹ về ngay nhé!
- Ừ, con nhà hèn, không từng trải việc, cứ cuống cuồng lên.
Nói xong đi đến buồng Đại Ngọc.
Khi ấy Đại Ngọc đương chơi Cửu liên hoàn ở bên buồng Bảo Ngọc. Bà Chu vào, cười nói:
- Thưa cô Lâm! Tiết phu nhân bảo tôi mang hoa lại biếu.
Bảo Ngọc nói:
- Hoa gì thế, đưa tôi xem nào.
Rồi vội giơ tay đỡ lấy cái hộp xem, thấy hai cành hoa giả làm bằng lụa rất đẹp. Đại Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
- Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.
Bà Chu nói:
- Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại Ngọc cười nhạt:
- Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Bà Chu chẳng dám nói lại câu gì. Bảo Ngọc hỏi:
- Chị Chu sang bên ấy làm gì?
- Vì bà ở bên ấy, tôi sang trình việc. Khi về Tiết phu nhân tiện bảo tôi đem hoa cho các cô.
- Cô Bảo Thoa ở nhà làm gì? Làm sao mấy hôm nay không sang chơi?
- Cô ấy trong mình hơi khó chịu.
Bảo Ngọc nghe nói, ngoảnh ra đám a hoàn nói:
- Có ai sang bên ấy nói là ta và cô Lâm sai sang hỏi thăm sức khỏe bà dì và cô Bảo, lại hỏi xem cô ấy yếu làm sao? Uống thuốc gì? Lẽ ra ta phải sang thăm tận nơi mới phải, nhưng vừa ở trường về, hơi bị lạnh, ngày khác ta sẽ sang thăm.
Nghe dặn xong, Phiến Tuyết nhận lời đi ngaỵ Bà Chu cũng ra về.
Nguyên con rể Chu Thụy là Lãnh Tử Hưng, bạn thân với Giả Vũ Thôn, vừa rồi nhân việc bán đồ cổ, bị kiện tụng lôi thôi, nên sai vợ đi chạy chọt. Bà Chu cậy thế của chủ , không thèm để bụng đến việc ấy, cho là chỉ đến nhờ Phượng Thư là xong.
Lúc lên đèn, Phượng Thư bỏ những đồ trang sức ra, đến phòng Vương phu nhân thưa chuyện:
- Hôm nay nhà họ Chân mang biếu mấy thứ quà, con đã nhận cả rồi. Nhân tiện bên ấy có thuyền sang đây, con cũng gửi biếu mấy thứ của nhà.
Vương phu nhân gật đầu. Phượng Thư lại nói:
- Lễ mừng sinh nhật cụ bà sinh ra Lâm An Bá, con đã sắm sửa đủ cả rồi, mẹ định sai ai mang đi?
Vương phu nhân nói:
- Con xem những ai rỗi thì sai độ bốn nữ tỳ mang đi là đủ, còn phải hỏi ta làm gì?
Phượng Thư lại cười hỏi:
- Hôm nay chị Trân mời con ngày mai sang chơi, vậy ở nhà có việc gì không?
- Có việc hay không cũng chẳng cần gì, mỗi khi chị ấy mời cả chúng ta thì con không được tự dọ Nay không mời chúng ta chỉ mời một mình con, đủ biết chị ấy có bụng tốt, muốn cho con được thoải mái hơn. Con chớ nên phụ lòng người ta, sang chơi là phải.
Phượng Thư vâng lời. Chị em Lý Hoàn, Thám Xuân đến hỏi thăm xong cũng đều về buồng mình.
Ngày hôm sau, Phượng Thư sắm sửa xong, đến trình Vương phu nhân rồi lên trình Giả mẫu để đi. Bảo Ngọc nghe thấy cũng đòi đi theo. Phượng Thư bằng lòng. Bảo Ngọc lập tức thay quần áo, rồi hai chị em ngồi cùng xe đi sang phủ Ninh. Bấy giờ Vưu thị, vợ Giả Trân, cùng con dâu là Tần thị, vợ Giả Dung đều dẫn tỳ thiếp ra cửa đón.
Vưu thị vừa trông thấy Phượng Thư, cười giễu một hồi, rồi dắt tay Bảo Ngọc vào trong phòng ngồi. Tần thị pha nước, Phượng Thư nói:
- Chị và cháu mời tôi sang có việc gì? Có gì thì mang rả Tôi còn bận việc đây.
Vưu thị, Tần thị chưa kịp trả lời, thì bọn đàn bà hầu cười nói:
- Hôm nay mợ không sang đây thì thôi, đã sang thì không thể về ngay được.
Đương nói chuyện, Giả Dung ra chào, Bảo Ngọc nói:
- Anh Cả hôm nay đi vắng à?
Vưu thị nói:
- Hôm nay anh đi ra ngoài thành thăm bác.
Lại nói:
- Xem ra chó hơi buồn, ngồi đây làm gì, đi ra ngoài mà chơi.
Tần thị cười nói:
- Lần trước chú Bảo muốn gặp em tôi. Hôm nay may sao nó đương ngồi ở buồng học kìa, sao chú không sang chơi?
Bảo Ngọc muốn đi ngaỵ Vưu thị, Phượng Thư đều ngăn lại: “Vội gì thế?”. Và bảo người nhà “phải cẩn thận đưa đi, đừng để chú ấy phải bực mình”.
Phượng Thư nói:
- Đã thế sao không gọi cậu ấy sang đây, ta cũng muốn gặp.
Vưu thị cười nói:
- Thôi, thôi! Gặp làm gì? Bạo dạn đâu bằng trẻ nhà mình. Con nhà người ta e dè nhút nhát quen, đã gặp ai sấn sổ như thím bao giờ. Khéo lại làm người ta cười chết đi được.
Phượng Thư cười nói:
- Tôi không cười ai thì thôi, chứ lại để cho đứa bé cười tôi à?
Giả Dung nói:
- Nó vốn hay thẹn, không dám đến gần chỗ đông bao giờ. Thím có trông thấy xin đừng bực mình.
Phượng Thư gắt:
- Nó là con vua Na Tra, ta cũng đòi gặp cho được, đừng nói láo. Nếu không mang nó đến đây, ta sẽ cho mày cái tát bây giờ.
Giả Dung cười nói:
- Cháu không dám cưỡng lời, sẽ dắt nó lại.
Lát sau, một cậu bé được đưa đến, so với Bảo Ngọc, gầy hơn một chút, nhưng mặt mũi sáng sủa, môi son, má phấn, dáng người tuấn tú, đi đứng phong nhã, hơn hẳn Bảo Ngọc, chỉ có phần nhút nhát như con gái thôi. Cậu bé bẽn lẽn đến chào Phượng Thự Phượng Thư thích lắm, đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói:
- Thử sánh xem nào!
Rồi nghiêng mình xuống, cầm tay cậu bé bảo ngồi bên cạnh, thong thả hỏi bao nhiêu tuổi, học sách gì, sau mới biết tên là Tần Chung.
Đám người nhà theo hầu thấy Phượng Thư lần đầu gặp Tần Chung, chưa có quà gì tặng, vội chạy về bảo Bình Nhị Bình Nhi biết Phượng Thư với Tần thị xưa nay chơi thân với nhau, tuy Tần Chung còn bé nhưng cũng không nên hà tiện, bèn lấy một tấm lụa, hai thoi vàng con có khắc chữ “Trạng nguyên cập đệ”. Bảo người mang đến cho Phượng Thự Phượng Thư nói nhún: “Qùa này mọn quá”. Chị em Tần thị tạ Ơn. Một lúc, ăn cơm xong, bọn Vưu thị, Phượng Thư, Tần thị ngồi lại đánh bài, Bảo Ngọc, Tần Chung ra ngoài nói chuyện với nhau.
Từ lúc Bảo Ngọc gặp Tần Chung, trong bụng bâng khuâng như là mình thiếu cái gì, đứng ngẩn người ra một lúc, nghĩ vơ vẩn: “Trong thiên hạ sao lại có người như thế! Bây giờ xem ra, ta thành như lợn bùn, chó ghẻ vậy! Đáng giận cho ta sinh vào nhà công hầu phú quý, nếu vào nhà nho nghèo, quan kiết để sớm đi lại chơi bời với nhau thì không đến nỗi phí mất một đời. Ta dù tôn quý hơn, nhưng the lụa gấm vóc, cũng chẳng qua để bọc cái cành khô, gỗ mục; rượi nồng, dê béo cũng chẳng qua để lấp cái hố phân, rãnh bùn mà thôi. Hai chữ “phú quý” làm hại người đời xiết bao!”
Về phần Tần Chung thấy Bảo Ngọc dáng điệu hơn người, đi đứng phong nhã, đồ mặc thì mũ vàng, áo gấm, người hầu đều là gái đẹp, trai xinh, bèn nghĩ: “Thảo nào Bảo Ngọc chả được mọi người yêu mến. Ta là con nhà thanh bần, dám đâu chơi thân với cậu tạ Mới biết hai chữ “giàu, nghèo” ngăn hẳn con người thật là một sự rất không vui ở thế gian này”.
Hai người đều nghĩ vẩn vơ như vậy. Chợt Bảo Ngọc hỏi Tần Chung đọc sách gì? Tần Chung cứ thực trả lời. Mới trò chuyện được mươi câu, cả hai đã thấy thân mật nhau ngay.
Một lúc người nhà mang nước trà và hoa quả lên. Bảo Ngọc nói:
- Chúng ta không uống rượu, cứ mang hoa quả để lên cái bục con trong nhà, sẽ đến đấy ăn, đỡ bận cho các người.
Rồi hai người vào trong uống nước.
Tần thị một mặt mời Phượng Thư uống rượu, ăn quả, một mặt dặn dò Bảo Ngọc:
- Thưa chú, cháu chú còn ít tuổi, ăn nói có điều gì sơ suất, xin hãy vì tôi mà đừng chấp nó. Nó nhút nhát thực, nhưng ăn nói lại ngang trái, không biết lựa lời đâu.
Bảo Ngọc cười:
- Chị cứ đi, tôi biết rồi.
Tần thị lại dặn dò em mấy câu rồi lại sang tiếp Phượng Thư.
Phượng Thư và Vưu thị cứ một chốc lại sai người đến hỏi Bảo Ngọc muốn dùng thức gì thì cho người sang lấy. Bảo Ngọc nhận lời, nhưng không nghĩ gì đến ăn cả, chỉ hỏi Tần Chung những việc nhà gần đây. Tần Chung nói:
- Năm ngoái thầy học về nghỉ, cha tôi già ốm luôn, lại bận việc quan, vì thế chưa nghĩ đến việc đón thầy. Giờ chỉ ở nhà ôn bài cũ. Vả lại việc học cũng phải có một vài bầu bạn để cùng nhau bàn bạc mới bổ ích.
- Đúng đấy, bên tôi vẫn có một trường học tự Trong họ, nhà nào không mời được thầy đều gửi đến đấy cả. Con em các nhà thân thích cũng có thể đến được. Năm ngoái thầy dạy tôi về nhà tôi cũng nghỉ học, ý cha tôi muốn tạm cho sang đấy ôn tập, chờ sang năm thầy học lên, tôi lại sẽ học. Nhưng bà tôi bảo: “Một là trường đông người, sợ có khi cãi nhau sinh chuyện; hai là vì độ này tôi mệt nên nấn ná mãi. Cứ như anh nói, chắc ông nhà đang áy náy về việc học của anh. Sao anh không xin sang đây học với tôi, làm bạn với nhau, ích lợi cho cả đôi bên. Như thế chả phải đều tốt cả hay sao?
Tần Chung cười:
- Hôm nọ bàn về việc mời thầy, cha tôi cũng đã nghĩ đến trường học bên này, vẫn muốn sang thưa chuyện với ông nhà; nhưng thấy bên này bận luôn, sợ việc nhỏ nhặt sang quấy quả không tiện. Nếu chú rộng lượng cho tôi sang đây theo hầu rửa nghiên mài mực, thì xin tác thành ngay chọ Chúng ta sẽ không đến nỗi bỏ học, có thể sớm tối gần gũi bên nhau để yên lòng cha mẹ, lại thêm vui tình bè bạn, chẳng hay hơn sao.
Bảo Ngọc nói:
- Cứ yên tâm, hai chúng ta hãy nói chuyện trước với vợ chồng anh Dung và chị Liễn đã. Ngày mai anh về trình với ông nhà, tôi thì trình với bà tôi, như thế lẽ nào việc không chóng xong
Bấy giờ đã đến lúc lên đèn. Hai người bàn định xong rồi ra xem mọi người đánh bài. Khi tính sổ, Tần thị, Vưu thị phải trả tiền rượu, hẹn đến hôm sau sẽ uống rượu phạt, rồi đi ăn cơm chiều.
Trời đã tối, Vưu thị bảo:
- Cắt hai đứa hầu bé, đưa cậu Tần về nhà. Bọn hầu đàn bà truyền ra ngoài, một lúc Tần Chung đứng dậy cáo từ. Vưu thị hỏi:
- Sai ai đưa về đấy?
Bọn hầu đáp:
- Ở ngoài họ cắt Tiều Đại, không ngờ nó say rượu, nó mắng ầm cả lên.
Vưu thị, Tần thị đều nói:
- Cắt nó làm gì, sai một đứa bé nào không được, sao lại còn dây với nó?
Phượng Thư nói:
- Lâu nay người ta chê chị quá nhu nhược, nuông người nhà như thế còn ra thể thống gì!
Vưu thị thở dài:
- Thím không biết thằng Tiều Đại à? Ngay ông tôi và anh Trân cũng rất thương nó. Vì lúc còn trẻ, nó theo cụ ta đi ra trận, ba bốn lần cõng cụ khỏi đống xác chết, mới cứu người toàn mệnh. Nó kiếm được cái gì thì đem cả về cho chủ ăn, còn mình đành nhịn đói. Hai ngày không có nước, nó kiếm được nửa bát cũng đem về cho chủ uống, còn mình thì đành uống nước đái ngựa. Chẳng qua cũng vì công lao ấy, nên khi cụ ta còn sống đều biệt đãi nó. Bây giờ ai cũng mặc kệ nó. Lại thêm nó đã già rồi, chỉ thích uống rượu, không giữ thể diện, khi say bạ ai nó cũng mắng. Tôi thường bảo bọn quản sự, từ giờ trở đi, không được cắt nó làm việc gì, cứ coi như nó đã chết rồi là xong, bây giờ làm sao lại sai nó?
Phượng Thư nói:
- Tôi làm gì chả biết lão Tiều Đại ấy, rút cục chỉ tại các chị không biết tính toán, sao không tống cổ nó đến một cái trại nào xa tít là xong chuyện.
Nói xong lại hỏi: Xe đã sắp đủ chưa?
Người hầu nói:
- Sắp đủ cả rồi ạ.
Phượng Thư đứng dậy cáo từ, dắt Bảo Ngọc về.
Bọn Vưu thị đưa ra đến cửa dinh đèn đuốc sáng trưng. Lũ hầu nhỏ đứng chực ở thềm. Tiều Đại biết Giả Trân không ở nhà, mặc dù ở nhà cũng kệ, hắn cứ tha hồ mà ngang tàng. Nhân mượn chén say, trước hết hắn mắng đại tổng quản là Lại Nhị:
- Sao chẳng công bằng một tý nào? “Mềm thì nắn, rắn thì buông”, có món gì bở thì sai người khác, còn việc đưa người lúc đêm khuya trời tối thì lại sai tao. Đồ vô liêm sỉ, vô lương tâm! Thằng quản gia mù kia, mày không nghĩ chứ: Cụ Tiều này chỉ ghếch một cái đùi lên, còn cao hơn cả cái đầu mày. Hai mươi năm về trước, mắt cụ Tiều này chẳng còn biết có ai, ai nói đến giống hèn mạt như chúng mày.
Tiều Đại đang mắng bọn chúng sướng mồm thì vừa lúc Giả Dung ra đưa Phượng Thư lên xe. Mọi người ngăn hắn không được Giả Dung nhịn không nổi, quát to:
- Ai đâu, trói nó lại, chờ ngay mai nó tỉnh rượu, sẽ hỏi nó muốn chết hay muốn sống?
Nhưng dưới mắt Tiều Đại có coi Giả Dung vào đâu, hắn lại kêu to lên:
- Này anh Dung! Đừng làm bộ Ông chủ với thằng Tiều Đại này nữa! Không nói anh, ngay bố anh và cả ông anh cũng không dám làm bộ với ta nữa là. Thằng Tiều Đại này làm cho các người được làm quan, được hưởng vinh hoa phú quý! Ông tổ nhà các người một sống mười chết mới để lại cơ nghiệp này đến giờ không báo ơn thì chớ, lại dám lên mặt chủ nhà với ta à? Không nói đến ta còn khá, chứ nói nữa thì ta sẽ: “Lưỡi dao trắng đâm vào, lưỡi dao đỏ rút ra” cho mà xem.
Phượng Thư ở trên xe nói với Giả Dung:
- Sao không tống cổ ngay thằng giặc này đi, để nó ở trong nhà chỉ có hại thôi. Bà con biết chuyện tránh sao khỏi chê cười nhà ta mất cả tôn ti trật tự.
Giả Dung vâng theo.
Mọi người thấy Tiều Đại càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi nó bỏ vào chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức, nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: “Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào “Tiểu thúc”, nào “Ba hôi”, loạn luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi đừng đem cánh tay gãy giấu vào trong ống áo nữa!”
Bọn người nhà thấy nó nói toàn những câu không có trời đất nào, sợ hết hồn vía, trói chặt nó lại, lấy đất và phân ngựa nhét đầy mồm.
Phượng Thư và Giả Dung ở đằng xa nghe thấy đều lờ đi như không. Bảo Ngọc ngồi trên xe, hỏi Phượng Thư:
- Chị Ơi, nó nói “Ba hôi”, “Ba hôi” là nghĩa thế nào?
Phượng Thư trừng mắt mắng át:
- Đừng nói bậy! Quân say rượu nói càn, em phải lờ đi như không nghe thấy, sao lại còn hỏi lẩn mẩn làm gì? Chị về mách mẹ xem có phải đòn không?
Bảo Ngọc sợ hãi, vội van xin:
- Chị Ơi, từ giờ em không dám nói câu ấy nữa.
Phượng Thư nói:
- Thế mới phải chứ. Để khi về, chúng ta sẽ trình cụ, sai người đến trường nói rõ, rồi mời Tần Chung sang học ngay.
Nói xong, trở về phủ Vinh. Thực là:
Bạn khổ chẳng vì người sắc sảo;
Sách ham chỉ tại nét phong lưu.
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng
login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin
ghi danh.