Nov 24, 2024

Tiểu luận - Tạp bút

Đọc Đèo Ba Dội của Bà Hồ Xuân Hương - Phụ Bản:Bùi Xuân Phái vẽ tranh theo thơ HXH
Huệ Thu * đăng lúc 05:58:32 AM, Sep 09, 2022 * Số lần xem: 7257
Hình ảnh
#1

Tác giả: huệ thu 
Dịch giả: 
Thể lọai: 
Tác Giả Và Tác Phẩm 
Số lần xem: 17584

 

1. Đọc Đèo Ba Dội của Bà Hồ Xuân Hương 

 

 


Viết về một người đàn bà kiệt xuất trong văn chương Việt Nam là một điều khó cái khó nhất là văn chương của người ấy thiên về tính dục là một điều vốn kỵ đối với đàn bà Việt Nam. Nhưng Hồ Xuân Hương vẫn được xưng tụng là bà chúa thơ Nôm và ở Việt Nam không ai là không biết đến bà. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt lạ lùng, Bà xuất thân từ cửa Khổng nhưng những điều bà viết đều vô tình đi ngược lại với giáo huấn của Khổng Phu Tử. Nhưng thời bấy giờ, ngay những đệ tử chân truyền của Khổng môn vẫn phục Bà, yêu Bà. Nguyễn Du là một thí dụ.(Lưu Hương Ký)

Ngay ở nước Mỹ này, ngay thời gian này, có một nhà văn viết về một người đàn bà Việt, nghe theo lời chỉ dẫn của Bác sĩ tò mò quan hệ tình dục với một người mỹ bị dư luận phê  phán là ẩn ức sinh lý, nếu không muốn nói là dâm đãng. Nữa là thời đại của Bà Hồ Xuân Hương. Nhưng bà HXH vẫn bất chấp dư luận, vẫn sừng sững nổi lên giữa văn đàn Việt Nam. Không những thế, người ta còn dạy thơ bà trong các trường trung học . Không biết bao nhiêu giấy mực đã viết về bà...

Hôm nay tôi muốn đề cập đến một bài thơ của người đàn bà phi thường ấy. Tiếc thay chúng tôi cũng là đàn bà. Nhưng tôi tin ở lòng thành của mình, tin ở nét tinh quái và lòng trong trắng của cổ nhân nên cố công lần mò vào một lãnh vực mà văn chương bây giờ gọi là tính dục (libido).

Cái hay của Hồ Xuân Hương là vẽ mây cho nổi mặt trăng, không nói về mặt trăng, nhưng trăng vẫn có đấy. Mỗi chữ, mỗi câu của bà có ít ra là hai hoặc ba nghĩa ngoài cái nghĩa thông thường mà ai cũng hiểu . Nhưng cái nghĩa tiềm ẩn trong thơ mới là đáng nói .

Một đèo, một đèo, lại một đèo!
k
hen ai khéo tạc cảnh cheo leo

Bà đếm từng cái đèo một, thay vì nói Đèo Ba Dội. Bà nói :

 Một đèo, một đèo, lại một đèo!
Chú
ng ta thấy cái lắt léo của văn chương Hồ Xuân Hương. Một chữ đèo cứ lập đi lập lại có phải bà cố ý cho ta cái ý nghĩ  lệch lạc về danh từ. Danh từ đèo tự nó không tục, nhưng nhắc đi, nhắc lại nó đồng âm với một danh từ khác thì lại rất tục ...
Bài này bà viết phá luật. Luật chẳng qua là giúp người ta làm thơ cho chải chuốt. Quá câu nệ về luật tức là không hiểu luật ! Tận tín thư, bất như vô thư. Quá tin vào sách, chẳng thà đừng có sách . Ngày trước cụ Phan Khôi phê bình bạn, một  người làm thơ chỉ nghĩ đến niêm luật mà không nghĩ đến thơ đó là nhà nho Hương Nguyện. Những bài thơ hay của Quang Dũng, của Hàn Mặc Tử của Thâm Tâm... là những bài thơ thất luật, thử đọc :

Sao anh không về chơi Thôn Vỹ

Thất luật đấy. Hàn Mặc Tử không phải là một tay mơ nhưng ông vẫn không chữa lại . Cây bút bậc thầy đã hiểu rằng thơ là chính luật là phụ !

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng

Chữ đưa là khổ độc nhưng bài Tống Biệt Hành vẫn là bài thơ rất có giá trị của thi ca Việt Nam.

Vần của Bà HXH cũng là thứ vần bí hiểm, thứ vần về âm thanh - đèo - cheo leo -  trèo...

Rồi :
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc

Người ta qua đèo Ba Dội chỉ thấy cái hùng vĩ của núi non, bà Hồ lại nhìn ra một “cái gì đó” của người nữ ! Cho nên mới đỏ loét, tùm lum nóc. Nhưng không bắt bẻ vào đâu được. Trên ngọn đèo Ba Dội  cỏ cây cũng mọc tùm lum bừa bãi. Bước chân đến đèo thì thấy màu đất đỏ, hang động cũng màu đỏ, đến câu :

Hòn đá xanh rì lún phún rêu

Cảnh tả thật tài tình mà cách đối cũng tài tình. Trong muôn ngàn chất liệu, nghệ sỹ chỉ giữ lại chất liệu thích hợp với mình . Chất liệu ấy là gì ? Là những thứ gợi lên cái “bướm” của em . Nói đến những thứ này ta lại cho là tục , nhưng Ấn Giáo lại đặc biệt thờ những dương vật và âm hộ, coi như những thứ đã sản sinh ra cuộc sống . Ấn giáo đã có cả một pho kinh tình yêu còn được truyền tụng đến bây giờ. Tục hay không là tùy ở con mắt của chính mình và tấm lòng của mình nữa.
Rêu mọc xanh rì, nhưng rêu chỉ lún phún thôi !

Rồi :
Lắt lẻo cành thông cơn gió thổi
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo

Rõ ràng là cảnh đèo, nhưng ngoài cảnh ấy ra còn một cảnh ngầm nữa mà nữ sĩ muốn gửi tới cho ta là cảnh lắt lẻo (sao lại lắt lẻo mà không xào xạc ?) vì chữ lắt lẻo mới đắc vị. Tại sao lại “Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo ? . Rõ ràng là cảnh xảy ra sau cuộc giao hoan, lá liễu chứ không phải là lá thông, vì liễu chỉ người đàn bà.
Lúc bà Hồ Xuân  Hương qua đèo Ba Dội lúc mấy giờ ?  Chắc là lúc sáng sớm. Nhưng dù sáng hay chiều thì vẫn có giọt sương gieo mới thú vị, mới là cách mà Xuân Hương muốn tả. 

Đến hai câu kết thì quá rõ rệt :

Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

Tôi nghĩ đến Nguyễn Công Trứ :

Đừng có trách chữ dâm là bậy
Nếu không dâm sao nảy ra hiền

Nguyễn Công Trứ là một bậc đại nho . Ông là nhà thơ lớn của Việt Nam . Chắc thời ông chưa ai biết đến thuyết hiện sinh

Viết thêm về bài Thơ Đèo Ba Dội :

Câu đầu  bà HXH viết có thất luật . Muốn viết đúng luật thì rất dễ : thí dụ “Một đèo lên dốc, tiếp theo đèo” . Nhưng như thế chỉ là thơ của người tập sự. Họ chưa đáng là bậc đại gia. Vì thơ của họ là học trong sách , không có sáng tạo. Câu đầu có ba khổ, cứ hai chữ là một khổ . “Một đèo, một đèo, lại một đèo” đó là cách đếm. Nó theo nhau một cách dồn dập . Rõ ràng là đèo Ba Dội . Thời Sơ Đường có ba vị danh sĩ đem thơ khoe nhau . Ai cũng cho là thơ mình hay (Văn mình, vợ người mà lại; tự kỷ văn chương tha nhân thê) mấy ông vào một quán thơ (hồi đó gội là kỹ viện) . Đưa thơ cho kỹ nữ ngâm . Kỹ nữ chỉ chọn bài thơ thất luật mà ngâm . Các danh sĩ giận lắm cho là các kỹ nữ ở đây xoàng xĩnh. Phải tìm đến những kỹ viện cao cấp hơn. nhưng ở đó họ cũng chọn ngâm những bài thơ thất luật . Ba ông về mới nghiên cứu lại mới vỡ lẽ ra rằng còn một thứ luật  quan trọng hơn chi phối thơ , đó là nhạc luật ! Ba ông đã soạn chung một cuốn Nhạc Luật . Theo các thi nhân tiền bối , thì thế nào là nhạc luật thất khó nói cho rõ ràng . “Dĩ ý hội bất khả dĩ ngôn truyền” – lấy ý mà hiểu không thể dùng lời mà truyền đạt  được. Học mãi rồi nó thấm vào người , mình vỡ ra lúc nào không biết , như bài “Độc Tiểu Thanh Ký” của Nguyễn Du . Mở đầu bằng “Tây Hồ hoa thảo tấn thành hư “ câu đầu lấy luật bằng : hồ thì câu thứ tám phải luật bằng, nhưng cụ Nguyễn Du đã viết :

Bách tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như

Nó trở thành luật trắc. Cụ Nguyễn chắc chắn là có thừa khả năng để viết cho đúng luật, đúng niêm. Nhưng cụ vẫn viết sai niêm . Nhiều người mới học làm thơ cho là cụ Nguyễn Du, Lý bạch viết sai thì được, nhưng mình lại không ? Hóa ra chỉ vì họ có tiếng tăm nên thất niêm thành đúng hay sao ?
Không phải vậy, vì có viết thế tác giả mới tả được một ý mới đột ngột đến với mình . 
Bài Khúc Giang của Đỗ Phủ cũng thất luật :

Triều hồi nhật nhật điển xuân y 
M
ỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy 
X
uyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương tống mạc tương vi

Chữ thứ 6 câu bảy thất luật và ông Đỗ Phủ vẫn để vậy. Và ông vẫn là nhà thơ lớn nhất cỏ cổ kim. Luật chỉ giúp thi nhân làm thơ dễ dàng. Luật không phải là thơ. Thi nhân, tấm lòng của thi nhân mới là điều đáng kể.

Tôi có đọc mười bài thập thủ liên ngâm của Tương Đàm Nữ Sĩ viết cho cụ Hà Thượng Nhân có một câu : 

Anh hẹn đi anh ! Anh! Anh! Anh!
Kỷ niệm ùa về gọi thất thanh.

B
ốn chữ anh đi với nhau , mà phần đông anh chị em chúng ta đọc không thấy có gì là sai trái cả . vì nó cực tả được sự vội vàng cuống quýt  của thi sĩ . Vì thế câu thơ mới đắt địa.

Gần đây trên Net các bạn trẻ làm thơ Đường . Người thơ tránh dùng chữ này, phải dùng chữ khác vì nó không đối , vì nó không chỉnh . Nhưng ngoài cái nghĩa thông thường lại còn phải nghĩ đến cái ý nghĩ mà thi nhân muốn gửi vào nó.

Một người làm thơ, cũng như một họa sĩ , khi vẽ tranh trước tiên vẽ trái cam phải ra trái cam, con chó phải ra con chó... rồi sau đó mới vào lập thể hay trừu tượng được.

Thơ cũng vậy phải biết luật thơ rồi sau đó mới biến cách hay phá luật ,  trước khi chạy phải biết đi là vậy .

Khi viết về bà Hồ Xuân Hương tôi cũng có hứng họa và làm mấy bài theo kiểu Bà Hồ:


 


Đèo Ba Dội

 

Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫ muốn trèo.

 


HXH

bài họa:


Một lần vượt đủ cả ba đèo
Chẳng muốn mà đành cũng cứ leo
Ðỏ loét cửa son lăn lóc nóc
Xanh rì bậc đá xác xơ rêu
Cành thông lắc lẻo cơn nồm thốc
Lá liễu đầm đìa giọt mốc gieo
Những kẻ mày râu ham của lạ
Chồn chân mỏi gối gắng công trèo

huệthu

&&&&&

Huề


Học bà cụ tổ Xuân Hương
Vào đêm thứ sáu thường thường nghỉ ngơi
Rủ chàng đấu trí mà chơi,
Những ai ngoại thủy thì mời đừng nghe.
Dù chàng có ra xe đấm tốt,
Dù pháo đầu đóng chốt đã sao?
Giữ nhà ghểnh tượng xem nào!
Vén thêm con sĩ lọt vào cung chơi
Mặc cho pháo châm ngòi chiếu bí
Thì mình đây cũng “thí cô hồn!”
Khi vui nước nước non non *
Trên đường lưu lạc cò con chơi cờ
Chơi cho chán cho mờ nhật nguyệt
Cho ra người lịch duyệt hào hoa
Chiến tranh rốt cục cũng hòa
Dẫu đen hay trắng cũng ta với mình !

*  thơ Hồ Xuân Hương

Và có bài họa theo kiểu Hồ Xuân Hương :

Cướp Trại Nửa Khuya

Nguyên soái hành quân lúc tối đèn.
Lột phăng giáp trụ quẳng cương yên.
Điều quân bám chặt đôi đồi trắng,
Khiển tướng xung phong chiếc trại đen.
Trướng hổ xé toang toan bắt cọp,
Long sào đảo lộn tính du tiên.
Đâu dè trúng phải không thành kế;
Đạn dược hư hao súng ngửa nghiêng !!

Đỗ Quý Bái

Bài Họa I

Cái thú điều binh dẫu tắt đèn
Âm dương trời đất chẳng nằm yên
Tưởng mềm đụng tới thành ra cứng
Dẫu trắng nhìn vào cũng hóa đen
Chọc thủng mũi dùi ghê tựa quỷ
Rúc vào hang cọp hóa lên tiên!
Sao ông họ Ðỗ ham lâm trận
Chẳng ngửa thì rồi cũng phải nghiêng!

Bài Họa II

Bà Hồ ngày trước thích chong đèn
Ðánh ván cờ đôi chẳng chịu yên
Ðã bảo rằng là quân thiếp trắng
Vì chưng đích thực của chàng đen*
Ghểnh lên tốt đỏ mò hang quỷ
Ấn xuống xe lồng rúc động tiên
Tàn cuộc hai bên đều thấm mệt
Xe thì nằm ngửa, tốt nằm nghiêng!

 * ý thơ Hồ Xuân Hương


 

Khóc Hồ  Xuân Hương

Đọc người cũ cảm thương thân phận
Ai tài hoa, lận đận là ai?
“Ví đây đổi phận làm trai” *
Thơ hay là tiếng thở dài nghìn xưa?
Lưu Hương Ký vẫn chưa ráo mực
Món nợ tình là thực hay hư?
Trăm năm mình khóc Tố Như
Khó ai nước mắt lại dư khóc mình
Tài như thế mà tình như thế
Ngoài Xuân Hương chắc lẽ còn nhiều
Làm sao xóa được chữ yêu?
Làm sao nắng sớm mưa chiều dửng dưng?
Làm sao để trời đừng ngang trái
Hoa đừng tàn, cứ mãi là xuân
Nhắc gì mấy chữ phù vân
Sống như cây cỏ, chẳng cần văn chương
Lại có kẻ phi thường ngang ngược
Người như bà, sống được là may
Thôi dù trăm đắng, ngàn cay
Còn lưu lại chút hương này làm duyên
Nghĩ cho kỹ, hão huyền tất cả
Suốt cổ kim vất vả vì thơ
Phải đâu là chuyện tình cờ
Đoạn trường ta chiếm vài tờ cũng vui!
Trăm năm ấy chôn vùi thể xác
Dù phong lưu, đài các nghênh ngang
Còn ai nhắc tới nửa hàng
Nhưng người, con vẫn còn đang khóc người

* - Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
                   
 thơ Hồ Xuân Hương

                                    Huệ Thu

                 *************************

 



Phụ Bản:
Bùi Xuân Phái vẽ tranh theo thơ Hồ Xuân Hương


Đánh Cờ


 

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết
Để đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa
Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà



Giếng nước

Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng ấy thanh tân, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông!
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá giếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai đã biết?
Đố ai dám thả nạ rồng rồng



Quả Mít

Thân em như quả mít trên cây.
Da nó xù xì, múi nó dầy.
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó, nhựa ra tay



Hang cắc cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc,
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.



Kiếp Tu Hành

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Ṿây mà chút tẻo tèo teo
Thuyền cừ cương muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn leo.



Thương

Há dám thương đâu kẻ có chồng,
Thương vì một nỗi hãy còn không.
Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,
Thương cái bèo non giạt bể Đông.
Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,
Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.
ấy thương quân tử thương là thế,
Há dám thương đâu kẻ có chồng.



Vịnh cái quạt (1)

Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.
Mỏng dày từng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát.
Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.
Chúa dấu vua yêu một cái này.



Vịnh cái quạt (2)

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dán tự bao giờ,
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?



Dệt vải

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò mấp máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa vặn cả.
Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
Chờ đến ba thu mới dãi mầu



Đèo Ba Dội

Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

(1) Đèo Ba Dội hay Ba đèo tên chữ là đèo Tam Điệp, thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá.



Đánh Đu

Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng o­ng ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tái!
Cột nhổ đi rồi, lõ bỏ không.



Mời ăn Trầu

Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu ôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP 26.07.2012 17:55
Hồ Xuân Hương qua Tranh Bùi Xuân Phái



Qua kẽm trống

Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là kẽm Trống không?
Gió đập cành cây khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
trong hang đá hơi còn hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.



Tát Nước

Đang cơn nắng cực chửa mưa tè
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhỏm bên bờ đít vắt ve.
Mải miết làm ăn quên cả mệt,
Dang bang một lúc đã đầy phe.



Thiếu nữ ngủ ngày

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.



Tranh hai Tố nữ

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.



Trống Thủng

Của em bưng bít vẫn bùi ngùi,
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi,
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi,
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
Nhắn nhủ ai về thương lấy với,
Thịt da ai cũng thế mà thôi.

huethu Sưu Tầm

 

Tranh BÙI XUÂN PHÁI và thơ HỒ XUÂN HƯƠNG

 

 

 

 

Chơi xuân có biết xuân chăng tá. Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

 

 

 

 

Vịnh Cái Giếng

 

Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng
Cầu trăng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai cũng biết
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.

 

 

 

 

 

 

Vịnh cái quạt

 

 

 

Một lỗ xâu tự bao giờ,
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?

 

 

 

Trống Thủng

 

 

 

Của em bưng bít vẫn bùi ngùi,
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi,
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi,
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
Nhắn nhủ ai về thương lấy với,
Thịt da ai cũng thế mà thôi.

 

 

 

 

 

 

 

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt 
Đi thì cũng dở ở không xong

 

 

 

 

 

 

Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

 

 

 

 

 

 

Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

 

 

 

 

 

 

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết xuân chăng tá. 
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

 

 

 

 

 

 

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.

 

 

 


Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, 
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.