Văn “Hành”
Kha Tiệm Ly
Trộm nghe:
Thế nhân vốn một mặt muôn lòng,
Văn chương cũng năm đường bảy ngõ!
Trò đời đã nhiều chuyện lá lay,
Con tạo lại bày trò cắc cớ!
Nhớ xưa,
Bao thi nhân hùng khí chưa mờ,
Bao kiệt tác ngôn phong còn rõ.
Đồ Chiểu đâm mấy thằng gian, bút thép chẳng tà,
Cử Trị mắng bao phường nịnh, lòng son vẫn tỏ.
Hịch Tướng Sĩ, sông Bạch Đằng nước cuộn sóng gào,
Cáo Bình Ngô, núi Chí Linh cây rung lá đổ.
“Văn dĩ tải đạo”, lời cũ thường khuyên,
“Đức khả thắng tài”, kẻ sau chẳng nhớ!
Thế mà nay,
Học hành đôi chữ lem nhem,
Văn vẻ ba xu ú ớ.
Vỗ bụng, khoe ráp được vần ngược, vần xuôi,
Vểnh tai, thích nghe nịnh lời nầy, lời nọ.
Văn nghe giống nước mắm chấm dùi,
Thơ đọc như thầy chùa gõ mõ!
Không rành luật đối, cũng xưng mầy đó ta đây,
Chẳng sạch vần gieo, cũng vô hội nầy hội nọ.
Thơ in vài tập, chừng như đội đá vá trời,
Văn viết đôi bài, đã vội khua môi múa mỏ.
Vậy mà,
Báo tháng thường đăng,
Báo ngày chẳng bỏ!
Chỉ tội người nghe con ráy lùng bùng,
Chỉ thương người xem con ngươi lổ đổ!
Ráng banh miệng, mà cười chẳng ra cười
Cố xệch môi, mà khổ không ra khổ!
Vinh chăng?
Đi xe đời mới, đặt đít sướng mông,
Ở nhà lầu cao, ngẩng đầu trật cổ!
Như ta đây,
Dù cái thi, cái phú chưa đầy lá mít, lá mơ,
Nhưng cái nghĩa, cái tâm khá hơn loài sâu loài bọ.
Ghét quân khẩu Phật tâm xà,
Ghét phường miệng hùm gan sứa.
Không dè lời, cứ thẳng mực tàu.
Theo đúng thước, làm đau lòng gỗ!
Bao năm “bán phổi”, đệ tử mấy ngàn,
Một thuở khua chèo, bạn bè vô số.
Ngặt vì,
Kết bạn thì “Tri mãn nhân gian”
Ngoãnh mặt lại,”Vô thân tứ cố”!
Không độ nỗi những kẻ cúi lòn,
Chẳng theo kịp mấy thằng bợ đỡ!
Chẳng bù cái mũi có giàm,
Không giống đồng xu có lỗ!
Chẳng phải bành voi mặc kẻ leo lên,
Không như trôn đĩ mạnh ai mấy xỏ!
Dù cho,
Thời buổi nầy mà rách dép rách giày,
Xe đạp nọ luôn trật sên trật chó!
Dù áo Tử Lộ (!) còn đành mạn cổ, vá vai,
Nhưng mặt Nhan Hồi (2) không dễ bôi vôi, trét nhọ.
Đã từng,
Văn chương treo ở đầu giàn,
Bút mực đem quăng một xó.
Nào chê bai chữ nghĩa rẻ như bèo,
Mà tức khí vàng thau cùng một rọ!
Khổ vì,
Muốn hoàn lương mà nghiệp đĩ cứ đeo,
Muốn quăng bút, mà đường văn còn nợ!
Sá gì gạo vét mòn lon,
Thây kệ giày đi há mỏ!
Đêm dài lắm mộng, ai rằng Vương Khải (3) là vui?
Nước sạch cành hông, ai bảo Vĩnh Kì (4) là khổ?
Thôi thì,
Mặc ai pha muối pha đường,
Mặc nó lộn vừng lộn đỗ.
Tự hào vì thứ ta đủ, mà họ không cần,
Kiêu hãnh bởi điều họ dư, mà ta không có!
Xem xong,
Ai nhột thì cứ “xổ nho”
Ai khoái thì xin cổ võ!
KHA TIỆM LY
Chú:
(1) Tử Lộ: Học trò nghèo của Khổng Tử.
(2) Nhan Hồi: Học trò giỏi của Khổng Tử
(3) Vương Khải: (thường đi với Thạch Sùng), hai người giàu nhất một thời của Trung Quốc, đêm luôn sợ trộm mà ngủ không yên.
(4) Khải Kì: Vĩnh Khải Kì, người nghèo, thường uống nước suối, ăn rau rừng, mà lúc nào cũng vui, ca hát.