|
Tập thơChinh Phụ Ngâm / Bản Đặng Trần Côn / Bản Đoàn Thị Điểm-Phan Huy Ích
#1 |
#2 |
Chinh Phụ Ngâm
Bản Đặng Trần Côn
|
Bản dịch theo nguyên thể
|
Bản Đoàn Thị Điểm-Phan Huy Ích
|
I Loạn Thời
Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân.
4.Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
10. Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề tại yêu
Thê noa hề biệt khuyết
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
Hữu oán hề phân huề
Hữu sầu hề khế khoát
18. Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
Trực bả liên thành hiến minh thánh
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiên xuất Vị kiều
|
Đất trời gió bụi
Mà hồng nổi trôi
Nỗi đắng cay ai chuốc phận người !
Trăng lung lay nhịp hồi trống thúc
Lửa bay lên sém đỏ mây trời
Trên trướng gấm, quẳng ly, chống kiếm
Hịch nửa đêm truyền: hỡi ba quân
Thuở thanh bình ba trăm năm lẻ
Giáp nhung nay trao lại võ thần
Nhấp nháy sao mai như giục bước
Quân đi lệnh trọng, giờ chia ly
Cung tên, hề, trên vai
Vợ con, hề, thôi đi
Nờm nợp bóng cờ sầu ra quan ải
Kèn trống inh tai, ai oán nỗi nhà
Dẫu oán, cũng chia tay
Dẫu buồn, rồi quyết biệt
Chàng mới đôi mươi nòi hào kiệt
Bút nghiên vứt bỏ, tay cung đao
Quyết hạ trăm thành dâng Minh thánh
Thề vung kiếm sắc chém giặc trời
Trượng phu nghìn dặm thân da ngựa
Thái sơn xem nhẹ tựa lông hồng
Giã nhà sải bước đi chinh chiến
Gió tây cầu Vị thét ngựa lồng
|
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ.
Áo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
|
II Xuất chinh
26. Vị kiều đầu thanh thuỷ câu
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
Tống quân xứ hề tâm du du
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
Bất tẩy thiếp tâm sầu
Thanh thanh hữu phương thảo
bất vong thiếp tâm ưu
35. Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
Quân xuyên trang phục hồng như hà
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
45. Kiêu mã hề loan linh
Chinh cổ hề nhân hành
Tu du trung hề đối diện
Khoảnh khắc lý hề phân trình
Phân trình hề hà lương
Bồi hồi hề lộ bàng
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
52. Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
Hành hành chinh bái sắc hà mang
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang.
60. Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
Quy khứ lưỡng hồi cố
Vân thanh hề sơn thương
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang
Mạch thượng tang
mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường
|
II Xuất chinh
Ngòi đầu cầu nước xanh trong
Ven nước xanh, cỏ xanh mọc
Tiễn chàng đi lòng ađu dằn dặc
Chàng lên đường, hề, thiếp sao không là ngựa
Chàng xuống sông, hề, thiếp sao chẳng là thuyền
Nước xanh xanh cứ chảy
Trôi sao nổi muộn phiền
Cỏ xanh xanh cứ mọc
Nguôi sao nổi muộn phiền
Câu nhắn nhe, hề, tay cầm tay
Bước, bước đi, lại níu áo chàng
Lòng thiếp rõi theo như trăng sáng
Dạ chàng muôn dặm chốn Thiên san
Rượu tiễn một ly tay vung kiếm
Chỉ vào hang hổ, ngọn giáo ngang
Theo gương tráng khách lùng giặc dữ
Mắt bóng non sông việc nước bàn
Áo chàng rực đỏ pha sắc ráng
Ngựa lông tuyết trắng vó quan san
Nhạc ngựa, hề, đã trổi
Trống xuất chinh, người đi
Còn phút này, đối mặt
Thêm một quãng, đường chia
Đường chia, đường ngăn sông
Ven đường, mắt rõi trông
Bóng cờ thấp thoáng, hề, xa mênh mông
Quân trước, nay ngoài Tế liễu
Kỵ sau, còn nẻo Trường dương
Xe dong ngựa ruổi chàng qua ải
Dương liễu nào hay thiếp đoạn trường
Sáo văng vẳng tiếng nhành mai rụng
Phất phơ cờ xí sắc mông lung
Mây bay xa khuất chàng xa thiếp
Núi dựng ghềnh cao thiếp nhớ chàng
Nẻo chàng đi mưa rơi tầm tã
Nơi thiếp về đêm giá phòng xưa
Đi - về - cùng nghoảnh lại
Nhìn núi biếc mây đưa
Chàng ngóng thiếp nơi Hàm Dương
Thiếp mong chàng chốn Tiêu Tương
Tiêu Tương mù khói Hàm Dương khuất
Hàm Dương cách trở sóng Tiêu Tương
Cùng ngoảnh lại, chẳng thấy
Chỉ xanh xanh, ngàn dâu
Ngàn dâu xanh
ngàn dâu xanh
Ý thiếp, lòng chàng, hỏi ai đau
|
Ngoài đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây .
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.
Hà Lương chia rẽ đường này,
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương.
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng.
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
|
III Bi Cụ
72. Tự tùng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
80. Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
90. Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
98. Tự tùng biệt hậu Ðông Nam kiếu
Đông Nam tri quân chiến hà đạo
Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
112. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn
|
Từ ấy chàng ra miền gió cát
Đêm nay trăng xuống ngủ nơi nao
Xưa nay đường chinh chiến
Vạn dặm không bóng nhà
Ào ào gió rát mặt dầu mày dãi
Hun hút vực ghềnh ngựa nản chân bon
Trống trận gối đầu bờ cát trắng
Ôm yên ngủ cạnh nấm mồ xanh
Sáng nay binh Hán xuống Bạch-thành
Ngày tới quân Hồ rình Thanh-hải
Đèo Thanh-hải núi cao rồi thấp
Trước núi xanh, khe vừa đứt lại liền
Trên núi xanh, tuyết ngập đầu
Dưới khe xanh, nước ngập bụng
Thương ai mang giáp nặng còng lưng
Nhớ vợ con mặt rầu mày rĩ
Trướng gấm Vua cao nào có biết
Gian nan cám cảnh phận chinh phu
Thiếp tưởng đặt chân nơi chàng bước
Góc Hãn hải, hẻm Tiêu quan
Làng sương, quán ướt
Khe rắn, hang beo
Ăn uống phong sương
Tuyết băng râu bám
Lên cao nhìn mây xuống
Lòng thiếp luống xót thương
Từ độ chàng xuôi miền quan ải
Đông nam chinh chiến biết nơi đâu
Xưa nay thân người lính
Mạng rẻ như cỏ sâu
Gan góc gồng mình phải đâu vì thâm ơn Chúa
Loang loáng luỡi dao vung phận tráng sĩ mỏng
manh
Núi Kỳ trăng cũ mờ nhân ảnh
Sông Phì mả đắp gió chưa xanh
Hắt hiu gió lay động hồn tử sĩ
Dằng dặc trăng soi buốt mặt chinh phu
Mặt chinh phu, ai tô lại
Hồn tử sĩ, ai viếng thăm
Binh lửa nát nhầu giang sơn cũ
Người qua kẻ xót hỏi bao lăm
Chinh chiến xưa nay về mấy kẻ
Có về chắc tóc trắng như tơ
Chàng còn rong ruổi xa xa lắc
Gươm ba thước, ngựa lưng yên
Gió thu cỏ giạt
Trăng rõi ải xa
Tên vèo đầu ngựa
Thành vượt sào cao
Công danh dường khốn khó
Lao khổ để rồi sao ?
|
Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao.
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe, thế núi gần xa,
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như giội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu .
Thương người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên.
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi hãn hải thì miền Tiêu Quan.
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu.
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu.
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi .
|
IV Hoài tưởng
122.Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
Quân thân khởi học vi vương tôn
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
Khả kham lưỡng niên thiếu
Thiên lý các hàn huyên
136. Ức tích dữ quân tương biệt thời
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
Vấn quân hà nhật quy
Quân ước đỗ quyên đề
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
Ức tích dữ quân tương biệt trung
Tuyết mai do vị thức Ðông phong,
Vấn quân hà nhật quy
Quân chỉ đào hoa hồng
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
Lão mai giang thượng hựu phù dung
148. Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Lũng Tây sầm
Nhật trung hề bất lai
Trụy diệp đâu ngã trâm
Trữ lập không thế khấp
Hoang thôn huyên ngọ cầm
Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Hán Dương kiều
Nhật vãn hề bất lai
Cốc phong xuy ngã bào
Trữ lập không thế khấp
Hàn giang khởi mộ trào
160. Tích niên ký tín khuyến quân hồi
Kim niên ký tín khuyến quân lai
Tín lai nhân vị lai
Dương hoa linh lạc uỷ thương đài
Thương đài thương đài hựu thương đài
Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
Thư quy nhân vị quy
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
Tà huy tà huy hựu tà huy
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
|
Nỗi đớn đau, kể ai hay
Thiếp ngồi tựa cửa, chàng chân mây
Tựa cửa thiếp chờ, cam phận thiếp
Chàng cuối chân mây, hẳn kiếp này
Kiếp này ư, lẽ phải bên nhau, cá với nước
Phận này à, sao giờ cách trở, nước lìa mây
Thiếp xưa nào tưởng thân chinh phụ
Chàng nào lại ngỡ phận bèo mây
Nay kẻ đầu nam người cuối bắc
Sáng đến chiều theo, nhớ đuổi buồn
Một bên, đây khách trượng phu niên thiếu
Một bên, đây thục nữ chốn khuê môn
Kham sao đây, đôi trẻ
Ấm lạnh, cách ngàn trùng.
Nhớ xưa bên chàng giờ chia tay
Cành liễu chưa vang tiếng chim hót
Hỏi chàng ngày nào về?
Hẹn: ngày đỗ quyên kêu
Chim quyên nay đã vù bay mất
Liễu xanh đầu gác, én hót trêu
Nhớ xưa bên chàng giờ chia tay
Gió đông chưa vờn cành mai trắng
Hỏi chàng ngày nào về ?
Hẹn: hoa đào đơm bông
Hoa đào gió lạnh vù bay mất
Bơ thờ hoa súng nở ven sông
Nơi nao hẹn cùng thiếp
Hẹn cuối góc Lũng Tây
Trưa rồi, chàng chẳng tới
Đầu trâm lá rụng đầy
Thiếp đứng rơi nước mắt
Tiếng chim còn kêu trưa
Nơi nao hẹn cùng thiếp
Hẹn trên cầu Hán Dương
Ngày tàn chàng chẳng tới
Gió đùa vạt áo vương
Thiếp, hai hàng lệ xót
Sông lạnh nước triều buông
Năm xưa gửi tin nhắn chàng về
Năm nay lại tin mong chàng đến
Tin đến, người không về
Hoa dương rơi rắc lối xanh rêu
Rêu xanh rêu xanh, lối xanh rêu
Một bước sân tình ơi trăm mối
Năm xưa tin về nhắn thiếp đợi
Năm nay, tin báo thiếp ngày về
Tin về, người chẳng về
Rèm tơ xoay nghiêng tà bóng xế
Chiều tà, chiều tà, tà bóng xế
Mười lần tin hẹn, chín lần sai
|
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay.
Những mong cá nước sum vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn.
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm thì hôm những sầu.
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục, oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyện gió Đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ .
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm.
Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,
Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại, người không thấy lại,
Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.
Thư thường tới, người không thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.
|
V Cô lánh
172.Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
Hữu thân an khả tạm tương ly
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
Quân hữu lão thân mấn như sương
Quân hữu nhi lang niên thả nhụ
Lão thân hề ỷ môn
Nhi lang hề đãi bộ
Cung thân xan hề thiếp vi nam
Khóa tử thư hề thiếp vi phụ
Cung thân khóa tử thử nhất thân
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
Tư quân kim niên hề hựu mộ
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
An đắc tại quân biên
Tố thiếp trung trường khổ
194.Thiếp hữu Hán cung thoa
Tằng thị giá thời tương tống lai
Bằng thuỳ ký quân tử
Biểu thiếp tương tư hoài
Thiếp hữu Tần lâu kính
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
Bằng thùy ký quân tử
Chiếu thiếp kim cô lánh
Thiếp hữu câu chỉ ngân
Thủ trung thời tương thân
Bằng thuỳ ký quân tử
Vi vật ngụ ân cần
Thiếp hữu tao đầu ngọc
Anh nhi niên sở lộng
Bằng thuỳ ký quân tử
Tha hương hạnh trân trọng
|
Ngày qua tháng lại mang cộng sổ
Giật mình, sen đã ba lần nở
Dăm năm khốn khổ nơi dồn quân
Nghìn dặm gian nan thân lính thú
Đồn Tử Tái, mẹ cha ai chẳng có
Lính Hoàng Hoa, vợ trẻ ai lại không
Mẹ cha xa cách, niềm day dứt
Vợ con ly biệt, nỗi đau lòng
Mẹ chàng đây tóc sương trắng điểm
Con chàng đây trứng nước còn thơ
Mẹ đợi ngồi tựa cửa
Con miệng há cơm chờ
Thiếp thay chàng mẹ già phụng dưỡng
Thiếp thay chàng dậy dỗ con thơ
Nuôi mẹ dậy con thân một chiếc
Biết ai xót phận những nương nhờ
Đợi chàng năm trước, năm đi mất
Chờ chàng năm nay, năm dần trôi
Chàng còn xa,
hai năm, ba năm đến bốn năm
Thiếp lòng vò,
trăm mối, nghìn vòng, trăm vạn mối
Làm sao đến bên chàng
Nỗi đau này thiếp tỏ ?
Thiếp có thoa cung Hán
Kỷ vật chàng đưa ngày lấy nhau
Nhờ ai đem đến gửi
Để tỏ chút lòng đau
Thiếp có gương lầu Tần
Ngày xưa cùng chàng mình soi chung
Nhờ ai đem đến gửi
Nhắc thân này đơn chiếc
Thiếp có chiếc nhẫn bạc
Ngày ngày đeo trên tay
Nhờ ai đem đến gửi
Ân cần nhắc chàng hay
Thiếp còn chiếc trâm bạc
Thuở bé làm đồ chơi
Gửi để chàng giữ lấy
Cách mặt dạ khôn nguôi
|
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
Tiền sen này đã nẩy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
Nhớ chàng trải mấy sương sao,
Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư .
Kể năm đã ba tư cách diễn,
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,
Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi tới nơi,
Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
|
VI Vọng tưởng
210. Tích niên âm tín hữu lai thì
Kim niên âm hy tín diệc hy
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
Văn sương mạn tự chế miên y
Tây phong dục ký vô hồng tiện
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
Tuyết hàn y hề hổ trướng
Vũ lãnh y hề lang vi
Hàn lãnh ban ban khổ
Thiên ngoại khả liên y
220. Cẩm tự đề thi phong cánh triển
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
Kỷ độ hoàng hôn thời trùng hiên nhân độc lập
Kỷ hồi minh nguyệt dạ đơn chẩm mấn tà khi
Bất quan trầm dữ hàm hôn hôn nhân tự tuý
Bất quan ngu dữ nọa mộng mộng ý như si
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
Đăng tri nhược vô tri
Thiếp bi chỉ tự bi
|
Năm xưa tin chàng còn lúc về
Năm nay tin chàng ngày bằn bặt
Nhạn bay cánh vẫy thư chẳng buộc
Sương rơi, đã sắp sẵn chăn bông
Gió nổi, tin qua, chim hồng vắng
Thương chàng tuyết giá chốn xa xăm
Tuyết lạnh, chàng nơi trướng hổ
Mưa sa, chàng chốn màn lang
Giá buốt, ôi cơ khổ
Cõi xa thiếp xót chàng
Chữ gấm thơ đề, phong rồi mở
Tiền gieo, bói quẻ, vẫn trăm ngờ
Mấy độ hôn hoàng, bên hiên một mình tơ tưởng
Dăm đêm sáng trăng, gối lệch tóc thả bơ thờ
Chẳng đắm, cũng chẳng say, cứ li bì như ngủ
Đâu nào ngu nào nhác, vẫn ngây dại như mơ
Trâm lệch tóc xô, cài chẳng đặng
Lưng gầy quần lỏng giữ sao cho !
Đằng đẵng ngày, nhà trống đi chực ngã
Dằng dặc đêm, rèm tre cuốn rồi buông
Nhìn ra ngoài, nắng lên nhưng đâu chim Thước
Ngồi trong rèm, đêm về thủ thỉ ngọn đèn suông
Đèn biết, như chẳng biết
Mình biết, một mình buồn
|
Trải mấy Xuân, tin đi tin lại,
Tới Xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhạn, luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió Tây nổi không đường hồng tiện,
Xót cõi ngoài tuyết quyện mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Đề chữ gấm, phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai .
Há như ai, hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài, xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm Thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
|
Ý kiến bạn đọcVui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
|
|