Không tận xanh thơ thở trắng trời
ắng xiên khoai mặt người cố tình đánh chìm đời mình trong sóng rượu\... làm Thôi Hiệu bừng tỉnh.
Cơn buổi xế chiều thật não ruột. Chưa bao giờ Thôi Hiệu cảm thấy chiến bại như lúc này\. Cuộc đời như con thuyền rời bến Dương Châu hoa khôi hoà khói bỏ rơi kẻ nhỡ đò trên đất lạ\.
Văn hay chữ tốt mà làm gì...
Cái bằng tiến sĩ chỉ đem lại cho Thôi Hiệu một chức quan nhỏ với bao nhiêu hệ lụy\.
Tài hoa làm gì... Nếu tài hoa chỉ để làm những câu thơ đẹp đủ quyến rũ đám nữ nhân chuộng hư danh hay đám nhà thơ dễ tính. Nói chi so sánh với Lý Bạch, Đỗ Phủ, với Lưu Trường Khanh, Vương Xương Linh, Thôi Hiệu cũng còn xa mới với tới\.
Thôi vẫn nhớ đêm cầm ca mùa trăng ấy, đệ nhất giai nhân Tây Hồ chỉ hát toàn thơ Vương Chí Hoán. Danh sĩ đất Biện Châu bỗng có cái xót xa của một trượng phu thấy người yêu ngoại tình ngay trước mắt mình và chén bồ đào mỹ tửu đêm ấy đột nhiên đắng ngắt như có ai vô tình bỏ vào đó một trái bồ hòn. Người ta đã quên Thôi ngay lúc sinh thời\.
Cái giống nhà thơ kể cũng lạ, nếu không nói là hâm, chập mạch. Bao nhiêu đền đài, miếu mạo, lăng tẩm đồ sộ đã bị thời gian xóa sạch, thế mà bọn ngông cuồng không ngoằng vô dụng dám đánh một canh bạc lớn với thời gian, ôm cuồng vọng cầm giữ bất tử trong một kỳ trận chữ.
Và cũng thật trớ trêu, hình như không ít những giai nhân, những vương triều hùng mạnh, những chiến tích hiển hách thời xưa sở dĩ lưu lại hậu thế cũng là nhờ mấy con chữ gió thổi bay của đám cuồng sĩ kia\. Hay kiếp trước Thôi đã làm gì thất đức.
Mà nào ai có hiểu được nỗi lòng của Thôi. Một người bạn thân đã chỉ vào mặt nhà thơ quát lên khi rượu đã vơi trong bình:
"Mày là thằng không biết điều\... Cả vùng Giang Nam này bao nhiêu người chỉ thèm được một bài thơ như của mày cũng đã cho là tuyệt vời hạnh phúc !"
Biết nói thế nào với bạn bây giờ ?
Kể nhiều lúc ngồi múa bút giữa bầy cung văn một chữ thè lưỡi khen hay, hai chữ xuýt xoa khen tuyệt cũng khoái\... để lúc tỉnh đồng lại càng dằn vặt, càng xót xa với câu hỏi tàn nhẫn:
"Trong hàng trăm bài thơ này liệu có câu nào còn lại ?"
Ôi, trong cuộc chạy đua với thời gian không gì nản hơn sự cầm bằng tất cả những câu thơ của mình sẽ lần lượt bỏ cuộc.
Thôi nhìn mấy chữ đại tư. Hoàng Hạc Lâu nét bút gân guốc mà bay múa tựa nét bút Vương Hi Chi\. Ánh nắng chiếu vào nền thiếp vàng khiến những chữ lung linh như khởi động. Thôi Hiệu chua chát: một trăm năm sau công trình tuyệt tác này chỉ còn là gò đống và cỏ lác... Có lẽ cả tên Lầu Hạc Vàng cũng chẳng còn ai nhắc nhở tới nữa\...
Cảnh đẹp như thoát tục. Mây trắng bay cả vào chung rượu\. Xa kia là đất Hán Dương, những hàng cây đứng thẳng tắp như đạo quân vào lúc Hàn Tín điểm binh... và bãi Anh Vũ cỏ xanh mơn mởn lông tơ má thì con gái\.
Chẳng lẽ tất cả rồi sẽ bị thời gian tàn phá hết? Biết đâu tất cả sẽ còn sống mãi nhờ mấy dòng chữ của Thôi\. Nhà thơ đứng tuổi bỗng thấy lòng bồn chồn khó tả. Thành công, chí ít cũng được hưởng cái say của một giấc mộng lớn... Như người xưa, chắp hai cánh vào tay bay lên giữa man mác trời rộng... Và chết cùng mây trắng...
Thôi bỗng mỉm cười nửa hài hước nửa ngậm ngùi\. "Có khi làm xong bài thơ này mình sẽ từ trên lầu Hạc Vàng nhảy xuống... lấy cái chết thế mạng cho những con chữ bất đắc".
Và Thôi cầm bút. Viết gì bây giờ ? Những chữ đầu lòng mới khó làm sao ! Tay ông rùng rùng. Mồ hôi và rượu vã ướt đầm. Thôi cảm thấy người bừng bừng như say rượu\. Có lẽ còn say hơn rượu\. Ông không nhìn thấy ngọn lầu, không nhìn thấy dòng sông, không nhìn thấy cảnh vật chung quanh... Ông cố trấn tĩnh nhưng không trấn tĩnh được. Hình như có một ai đó nói trong đầu ông. Tiếng quen lắm. Nó nói gì vậy ? À, nó đọc thơ\. Ông có cảm giác một diễn viên quên lớp nghe tiếng người nhắc vở trong cánh gà. Tay ông cũng tuân theo mệnh lệnh của kẻ khác. Và nó lượn nó múa nó viết gì thế kia, dưới thôi thúc một mãnh lực kỳ bí không cưỡng lại được.
Bài thơ xong lúc nào Thôi cũng không hay\. Khi đọc lại ông bỗng bàng hoàng. Bài thơ tuyệt vời này có thật của chính ông hay của ai ? Làm sao ông có thể viết nổi những câu thơ trác tuyệt đến thế ! Chúng có thể sánh những câu thơ đẹp nhất từ ngàn xưa không chút xấu hổ. Ai đã gà cho ông ? Hay những chữ bỗng biến hóa, tung hoành, tự tin ở thân phận bất tử của chúng đã nhập vào bất cần ông. Nhà thơ đã tạo ra chúng hay chúng đã tạo ra nhà thơ ? Lòng tràn ngập một niềm hân hoan và tri ân vô hạn. Thôi Hiệu qùy xuống kính cẩn chắp tay lạy những con chữ đang lấp lánh trên tường. Chữ đã dẫn ông gặp bất tử trong khoản khắc kỳ ngộ\.
o0o0o0o
Thời đó chưa có hệ thống phát hành sách cũng như các hệ thống thông tin đại chúng hiện đại như bây giờ nhưng bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đã nhanh chóng truyền đi khắp lục địa Trung Hoa\. Những ăng-ten cực nhạy là tai của giới yêu thơ đã bắt ngay được tần số của nó và người ta lập tức phát miệng phủ sóng toàn quốc... mở đầu cho cơn dịch Hoàng Hạc Lâu\.
Tên tuổi Thôi Hiệu bỗng sáng chói như một thiên thạch bay trên nền trời, tưởng chừng át cả Lý, Đỗ.
Ở đâu cũng thấy nói đến "Hạc Vàng đi mất từ xưa\... Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay". Vô phúc cho kẻ nào không thuộc lòng bài này\. Anh ta lập tức bị xem khinh mười lăm phút và có thể vĩnh viễn bị khai trừ khỏi hàng ngũ tao nhân mặc khách.
Một hôm Thôi Hiệu đi thăm một người bạn tại một địa phương nọ. Gío mùa thu bay lá cuốn theo ngọn tửu kỳ xào xạc của một quán rượu khiến nhà thơ không đành lòng bước qua\. Ôi những lá cờ rượu, nó mới đình đám mời đón làm sao ! Hình như chỉ có ở Trung Hoa người ta mới treo cờ trước các cửa hàng rượu ngày nọ sang ngày kia như vậy\. Lá cờ lúc nào cũng bay\... cũng say\. Có phải câu "nam vô tửu như kỳ vô phong" là xuất xứ từ những lá cờ tưng bừng như cờ lễ hội này ?
Rượu ngon, cá nướng lại tuyệt. Thôi Hiệu mềm môi đánh chén mãi, cho đến lúc tửu nhị đến tính tiền, cho tay vào túi mới biết nó đã rỗng. Mặc dù nhà thơ hết lời nói khó và cam đoan rằng khi gặp người bạn là Vương tri phủ nhậm chức tại đây sẽ cho người đến thanh toán gấp đôi, ông cũng không lay chuyển được lập trường sắt đácủa tên hầu bàn. Cũng chẳng nên trách nó. Đời thiếu gì kẻ ăn quịt mặt mũi còn phương phi, ăn vận còn bảnh bao hơn Thôi Hiệu\.
Lý luận của nó rất đơn giản. "Ngài đã ăn thì phải trả tiền, không có tiền thì gửi khăn áo lại". Và nói đi đôi với làm, nó xấn tới lột khăn áo nhà thơ\.
Thấy ồn ào, chủ quán chạy tới\. Khi nghe khách nói là bạn Vương tri phủ và nhất là tự xưng danh Thôi Hiệu, chủ quán mừng líu cả lưỡi:
-- Ngài có phải là Thôi Hiệu\... ấy không ?
Và khi biết khách là Thôi chính hiệu, chủ quán bèn quát tiểu nhị bày thêm rượu và món nhậu thượng hạng ăn mừng thời cơ ngàn năm có một hạnh ngộ đệ nhất sĩ.
Thôi Hiệu đành nể tình một suất tiệc đúp... và viết tặng chủ quán một bài Hoàng Hạc Lâu\. Chủ quán xuýt xoa mãi như được một đặc ân, tất nhiên không dám tính tiền mà còn biếu nhà thơ lớn khoảng bạc vụn làm lộ phí.
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu gần như trở thành một tấm cạc-tín-dụng với taì khoản vô hạn cho phép Thôi chu du qua hầu hết các ca lâu tửu quán loại năm sao khắp miền tổ quốc. Và trung tâm nào không có bài thơ Hoàng Hạc Lâu do chính tay Thôi đề tặng trên vách sau những ngày hành lạc thoải mái và cả khoảng phong bì hậu hĩnh đương nhiên là bị hạ cấp xuống mấy sao\.
Thôi Hiệu đắt hàng qúa nên lập tức nảy sinh ra nạn Thôi Hiệu dỏm không sao dập tắt được. Bắt chước nét chữ Thôi Hiệu nào có khó khăn gì ! Sử chép thời đó nguyên vùng Giang Nam đã có ngót ngét một vạn Thôi vừa chính vừa giả hiệu\.
Không chỉ có giới chủ khách sạn và cao lâu mê Thôi Hiệu như một phương tiện quảng cáo đặc hiệu, giới trí giả cũng hâm mộ ông không kém. Thôi Hiệu đã trở thành một hiện tượng.
Ai cũng biết Đường Tư Không là một vị đại quan giàu sang nhất nước, cũng là một nhà nho nghiêm cẩn đến cố chấp. Nhất cử nhất động gia pháp ho. Đường đều như diễn tả những lời dạy của cu. Khổng. Nhưng ho. Đường lại có tật yêu thơ\. Ông muốn mời Thôi Hiệu đến chơi lắm. Nhưng tai tiếng của Thôi cũng đồng cân đồng lạng với danh tiếng của nhà thơ\. Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả đàn bà... Một nhà nho chính danh như Đường không thể tiếp Thôi Hiệu tại nhà mà không ảnh hưởng tiêu cực đến gia pháp. Họ Đường bèn xây dựng riêng một căn hộ thoáng mát với đầy đủ tiện nghi để tiếp một mình nhà thơ bạc hạnh. Thôi thì hắn ta có bậy bạ gì thì bậy bạ ra đó.
Để đền đáp mắt xanh của chủ nhân, Thôi lại chép tặng ông... lại\... một bài Hoàng Hạc Lâu\.
Dịch Hoàng Hạc Lâu ảnh hưởng không tốt đến giới làm thơ trẻ... những bài Hoàng Hạc Lâu con cháu chút chít sòn sòn đua nhau ra đời\. Cũng chẳng sao\... Với thời gian, nhà thơ trẻ nào có chân tài sẽ tìm thấy tiếng nói lập nghiệp của mình, như những người con đến tuổi trưởng thành từ biệt bố mẹ ra ở riêng. Điều đáng chú ý là nó ảnh hưởng ngay đến sáng tác của Thôi\. Từ sau bài Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu cũng viết rất nhiều nhưng bài nào cũng bị bài Hoàng hạc Lâu làm nghẹt thở như bị bóng đè. Bản thân Thôi Hiệu bỗng run... Ra bài này liệu nó có phương hại đến mình không ? Và ông lại xé... lại viết... lại xé... hàng chục năm trời Thôi Hiệu vẫn chỉ chép tặng tri kỷ thập phương một bài\... Hoàng Hạc Lâu\.
Vả lại người ta, cũng có đòi bài khác đâu !
Không ai biết thảng thốt hoặc vào những lúc canh khuya thức giấc Thôi uất ức bài Hoàng Hạc đến mức nào\. Bài thơ hình như đã chiếm đoạt cả cuộc đời làm thơ của ông. Nhưng có thật là ông uất ức nó không ? Thôi Hiệu thở dài\. Té ra mình đã về hưu từ buổi Lầu Hạc Vàng.
Thôi Hiệu cố vùng vẫy\. Nhưng vô hiệu\... Chiếc đĩa đã thành rãnh và đầu kim đành chạy theo lối cũ.
Nói thế thôi chứ Hạc Vàng vẫn còn ăn khách chán. Và Thôi Hiệu có thể sống suốt đời một cách sang trọng nhờ bài thơ\. Một nhà triệu phú quá hâm mộ còn mở một cuộc thi lớn: "Ai viết nổi một bài vịnh Lầu Hạc Vàng địch được với bài của Thôi Hiệu sẽ được tặng một nghìn cân vàng".
Hôm chung kết các tao nhân mặc khách đến đông chẳng khác gì một kỳ thi hoa hậu\. Nhất là khi mọi nngười được tin cả Lý Bạch cũng tham dự\.
Không ai biết lý do sâu xa gì đã dẫn Lý trích tiên tới đây\. Theo giới am hiểu thì đó là vì rượu\.
Triệu phú đã tinh quái đánh vào tín hiệu tửu của Lý. Nhà thơ này có thể xem khinh công danh phú quý, thậm chí coi thường cả tính mạng, nhưng ông xót từng giọt rượu quý.
Mà rượu của triệu phú thì còn trên mức quý, gần như độc nhất vô nhị\. Đó là rượu lồ ô hảo hạn cất từ Tây Vực phải vận chuyển trong mười chiếc túi da bọc ngoài đựng nước mỗi ngày thay một lần và phải mất một trăm con tuấn mã thay nhau đi nhật dạ không nghỉ và khi đến Vũ Xương lập tức phải hạ thủy sâu dưới mười thước nước để nhiệt không làm khê rượu\. Chính vì vậy mà người ta còn gọi nó là bách mã tửu\. Thứ rượu này tay cao thủ nhất cũng chỉ uống năm sáu chung là say đừ, ngủ một ngày mới tỉnh.
Quả như triệu phú đã dự đoán, không ai trên tài Thôi Hiệu\. Các nhà thơ đã làm đủ trò. Người thì cho đảo mây trắng trên hạc vàng, người thì thay "Hán Dương sông tạnh cây bày" bằng "chiều sông sương mù mịt" và "cỏ xanh Anh Vũ" bằng "thảm cỏ héo tàn mùa thu" đủ kiểu nhưng không bài nào thoát khỏi quỹ đạo bài Hoàng Hạc Lâu\. Tất cả dù đẹp đến đâu cũng phảng phất một mùi thức ăn hâm lại\.
Chỉ còn Lý Bạch. Mà sao đến giờ này Lý vẫn chưa tới ? Mọi người đều chờ đợi hồi hộp. Cái nhà thơ đánh vỡ chén ngọc trên trời phải đày xuống trần giới, người dám ngang nhiên giữa triều đình đưa chân sai cao lực sĩ cởi giày, bắt Dương Quý Phi mài mực...
Lý chưa tới nhưng huyền thoại về ông đã lừng lững giữa nhà như bộ phận tiền trạm hùng hậu\...
Cử tọa đang ồn ào bỗng im phăng phắc. Một ông già tóc râu lông mày trắng xóa như cước khoác một chiếc áo vàng bước vào nhà. Chủ nhân thân chinh ra giếng kéo rượu lên trịnh trọng đem đến trước mặt Lý. Ông mở nút hít một hơi dài, mặt hớn hở như trẻ được mẹ cho kẹo\.
Rượu thơm quá... Và ông rót uống luôn. Một chén rồi hai chén rồi ba chén... Cứ cái đà này thì có khi ông làm hết cả vò rồi lăn ra ngủ chưa biết chừng.
Thánh hiền bặt dưới cỏ xanh
Riêng phường bợm rượu nghìn năm để đời
Người đã xếp rượu trên cả tư tưởng của thánh hiền, người ấy dám làm việc ấy lắm.
Nhưng chủ nhân tinh ý đã bày giấy mực trước mặt ông. Lý cười: "Làm thơ hả ?". Rồi lại uống tiếp một chén nữa\. Chừng như rượu đã thấm, Lý cởi khuy áo, cầm bút lên tay, nhìn mọi người\. Thôi Hiệu cảm thấy ông hơi nheo mắt nhìn mình một cách tinh nghịch nhưng không biết có đúng thế không.
Kể cũng lạ, khi Lý uống rượu thì mọi người mãi mê tham quan ông như một kỳ tích thứ tám của thế giới\. Nhưng khi ông bắt đầu cầm bút, cử tọa lập tức chia làm hai phe\... phe chống Lý Bạch và phe chống Thôi Hiệu\. Và người ta bỗng nhìn nhau một cách khác lạ, nếu không phải là quyết liệt. Người ta bắt đầu chuyển chỗ tập hợp lực lượng. Có người đã xắn tay áo\.
-- Phen này Lý tiên sinh nhất định sẽ dạy cho Thôi Hiệu một bài học cho biết thế nào là lễ độ\.
-- Có lẽ lần này ông Lý kềnh cũng nên...
Còn Thôi thì căng thẳng như thủ quân đội bóng bất ngờ lọt vào chung kết một giải Mondial chờ hiệu còi trọng tài mở đầu cuộc tranh hùng với một đối thủ siêu hạng.
Riêng Lý Bạch vẫn thản nhiên... ông hỏi triệu phú:
-- Chủ nhân này, mấy chung thì say ? -- Dạ năm chung. -- À, thế thì còn hai nữa\...
Ông nghiêng vò rót luôn hai chung tợp hai hớp như người khát nước và bắt đầu động bút.
Nét bút sắc như toát ra hơi thép lạnh của một thanh kiếm báu, một số người rùng mình và hơi lùi lại\. Người ta chưa kịp đọc xem ông viết gì thì Lý Bạch đã quẳng bút nằm xuống sập ngủ.
Bài thơ vẻn vẹn có hai câu:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
(Trước mắt có cảnh không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu để trên đầu)
Bảo hơn bài Hoàng Hạc Lâu thì không phải\. Bảo kém thì không ai dám.
Vì nó khác, hoàn toàn khác.
Hơn một chục năm nay mới có một người làm thơ Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu khác lạ như vậy\.
Mọi người chưng hửng vi một trận đọ tài đã kết thúc ngoài dự kiến của tất cả. Họ tiếc cho nhiệt huyết, không có đất dụng võ, cho cuộc đấu có thể muôn phần quyết liệt, gay cấn, hào hứng... hứa hẹn những cú sút tuyệt vời\. Nhưng hầu như tất cả đều rưng rưng một lòng cảm phục vô hạn.
Nhún nhường mà khí phách. Dung dị mà kỳ lạ\. Khiêm cung mà siêu phàm. Vẻn vẹn hai câu mà bao la bài học về thi pháp.
Thôi sững sờ... tưởng như Lý Bạch không phải nói về ai khác mà về Thôi\. Chính bài Hoàng hạc Lâu đã để đè trên đầu Thôi Hiệu bao nhiêu năm như một nghiệp ách. Nhà thơ đã bị chính mình cầm tù.
Ông chợt nghĩ đến câu nói lạ tai của Đại sư Tuệ Giác: "Hãy quẳng mình đi như một cái bị rách".
Lý Bạch nằm ngủ, mồ hôi toát cùng hơi rượu thơm lừng, hình như cả người ông là một vò rượu quý, râu tóc phơ phất như mây trắng, chân gác lên mâm vàng đẩy những thỏi kim quý rơi xuống đất... Thôi Hiệu lẩm bẩm:
-- Người xưa cưỡi hạc bay đi\... Người xưa đã cưỡi hạc về nằm ngủ đây chăng ?
Ông bỗng nhắm mắt. Trong phút buông thả nhất, Thôi Hiệu vẫn chưa thoát khỏi bài Hoàng Hạc Lâu\.