Băng Ðình * đăng lúc 11:43:03 AM, Jul 01, 2008 * Số lần xem: 4016
70 Thu Chí
Hương Giang nhất phiến nguyệt Kim cổ hứa đa sầu Vãng sự bi thanh trủng Tân thu đáo bạch đầu Hữu hình đồ dịch dịch Vô bệnh cố câu câu Hồi thủ Lam Giang phố Nhàn tâm tạ bạch âu
Thu Đến
Một mảnh trăng trên sông Hương. Xưa nay gợi bao nhiêu mối sầu. Chuyện cũ bi thương nấm mồ cỏ xanh, Thu mới đến trên đầu tóc bạc. Có thân hình chỉ vất vả, Không bệnh mà lưng lom khom. Ngoảnh về bến sông Lam, Lòng muốn nhàn đành phải tạ từ cùng chim âu trắng
Chú Thích: Năm 1805 (Ất Sửu) Nguyễn Du được thăng Đông Các Học Sĩ, tước Du Đức Hầu và làm việc tại Kinh Đô Huế.
Thu Tới
Hương Giang một mảnh trăng treo Xưa nay gợi biết bao nhiêu mối sầu Chuyện xưa cỏ mộ xanh mầu Một mùa thu mới mái đầu bạc phơ Hữu thân hữu khổ ai trừ Vốn không bệnh hoạn sao giờ lưng khom Ngoảnh nhìn về phía sông Lam Thua chim âu một chữ nhàn hỡi ơi
71 Điệu Khuyển
Tuấn mã bất lão tử Liệt nữ vô thiện chung Phàm sinh phụ kỳ khí Thiên địa phi sở dung Niệm nhĩ thuộc thổ súc Dữ thân mao cốt đồng Tham tiến bất chi chỉ Vẫn thân hàn sơn trung Vẫn thân vật thán uyển Sổ thí vô toàn công
Thương Con Chó
Ngựa hay không chết già, Gái trinh liệt không chết được yên lành. Phàm sinh ra mang khí phách khác thường, Thì trời đất không có chỗ dung. Nghĩ mày thuộc giống gia súc, Lông xương cũng giống như người. Ham tiến không biết dừng, Bỏ mình trong núi lạnh. Bỏ mình chớ oán than, Bao lần thử sức mà không thành công.
Chú thích: Có lẽ là con chó săn được nói trong câu “Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ”. Đây là một con chó quý, chó hay, chết vì ham tiến, không biết dừng - Nguyễn Du gợi lên một triết lý: tri túc tri chỉ (biết đủ biết dừng). Cũng vẫn là ý không nên ham tiến thủ trên đường công danh.
Thương Chó
Ngựa hay chẳng sống tới già Gái trinh liệt cũng khó mà chết yên Chót sinh phẩm chất siêu nhiên Đất trời chẳng hẹn một miền dung thân Xót mi chó ngựa sống gần Lông xương cũng khá giống phần người ta Ham chi tiến mạnh tiến xa Chẳng ngừng đến nỗi làm ma góc rừng Bỏ mình thôi chớ oán thương Bao phen thử sức thiếu đường thành công
72 Ngẫu Thư Công Quán Bích
I Triêu xan nhất vu phạn Mộ dục nhất bồn thủy Bế môn tạ tri giao Khai song kiến kinh kỷ Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường Mỹ nhân du du cách cao tường (1) Đỗ Vũ (nhất) thanh (xuân) khứ hĩ (2) Hồn hề qui lai bi cố hương
II Xương hạp môn tiền xuân sắc lan Cách giang dao đối Ngự Bình san (3) Xuân tòng giang thượng lai hà xứ Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan Mạn địa phồn thanh văn dạ vũ Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn Đào hoa mạc trượng đông quân ý (4) Bàng hữu phong di (5) tính tối toan
III Đông vọng giang đầu vọng cố giao Phù vân vô định thủy thao thao Phong xuy cổ trủng phù vinh tận Nhật lạc bình sa chiến cốt cao Sơn nguyệt giang phong như hữu đãi Nham thê cốc ẩm bất từ lao Bình sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng (6) Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao
Tình Cờ Đề Thơ Trên Vách Công Quán
I Sáng sớm ăn một bát cơm, Chiều tắm một chậu nước Đóng cửa tạ từ không tiếp bạn thân, Mở cửa thấy cây kinh cây kỷ. Ngoài cửa sổ, cây kinh cây kỷ mọc tràn lan và dài Người đẹp vời vợi cách tường cao Trong tiếng cuốc kêu xuân đã qua, Hồn ơi về đi thương cố hương.
II Trước cửa Hoàng Thành sắc xuân đang tàn, Cách sông xa nhìn núi Ngự Bình. Xuân theo dòng sông đến nơi nào? Người nương chốn chân trời, một chức quan cột chặt. Đêm mưa nghe tiếng mưa sầm sập khắp mặt đất, Trên một chiếc giường, nỗi buồn đơn côi chọi lại cái rét đêm xuân. Hoa đào chớ cậy chúa xuân yêu, Bên cạnh có dì gió rất chua ngoa.
III Hướng về bến sông ở phía đông trông về quê cũ, Mây nổi trôi vô định nước chẩy cuồn cuộn. Gió thổi vào nấm mồ xưa, vinh hoa hư ảo tan hết, Mặt trời tà trên bãi cát, đống xương chiến trận đã cao. Trăng núi gió sông dường như có ý đợi chờ, Sống trong núi uống nước khe chẳng nề gian lao. Bình sinh đã dứt giấc mộng bay lên mây xanh, Chỉ e người bên cạnh hỏi đến lông cánh.
Chú thích: (1) Mỹ nhân: Người đẹp. “Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương” ám chỉ vua.. Nhưng mỹ nhân cũng có thể chỉ là người đẹp thôi. “Mỹ nhân quyển châu liêm” (Oán Tình – Lý Bạch). Chưa biết Nguyễn Du nói đến “mỹ nhân” nào. Cũng có thể là một người đẹp ở cách tường cao nhà công quán. (2) Có thể tác giả dùng cả câu thơ cổ “Đỗ Vũ nhất thanh xuân khứ hĩ”. Và bớt hai chữ “nhất”, “xuân”. (3) Ngự Bình san: Núi Ngự Bình, phía nam sông Hương, cách kinh thành chừng 5 km, như một tấm bình phong che trước hoàng thành, nơi vua ngự, nên gọi là Ngự Bình. (4) Đông Quân: Thần mùa xuân. Ở đây chỉ vua. (5) Phong di: Dì gió tức thần gió. Ở đây ám chỉ các quan trong triều (6) Vân tiêu mộng: Mộng mây xanh, tức là mộng công danh phú quý. Câu này có ý chua chát. Mình làm gì có “lông cánh” (vũ mao) mà bay lên “vân tiêu” (mây xanh).
Nguyễn Du được Gia Long biết tài, trọng dụng, nhưng ông là kẻ mới theo về, “hàng thần lơ láo”, nên hết sức giữ mình “xảo toàn” như chữ của Nguyễn Hành (1771-1824) trong bài thơ làm khi nghe ông mất: “Văn thúc phụ Lễ Bộ Tham Tri phó âm cảm tác”
Tình Cờ Đề Thơ Trên Vách Công Quán
I Điểm tâm một bát cơm đầy Chiều về tắm một chậu này cũng xong Cài then từ tạ bạn lòng Cỏ hoa tươi tốt hé song ngắm hoài Cây bò lan ngọn vươn dài Cách tường người đẹp gót hài gần xa Cuốc kêu xuân lặng trôi qua Về thôi hồn hỡi quê nhà xót thương
II Trước hoàng môn sắc xuân tàn Cách sông nhìn Ngự Bình San hững hờ Về đâu nước cuốn xuân mơ Chân trời cột chặt ai ngờ chức quan Đêm mưa sầm sập nhân gian Giường đơn nỗi nhớ nỗi hàn ở chung Hoa đào chớ cậy xuân nưng Đừng quên dì gió vô cùng chua ngoa
III Hướng đông bến ấy vọng quê Mây trôi nước chẩy lê thê dạt dào Mồ xưa phú quý chiêm bao Bóng tà xương trận đã cao bằng đầu Gió sông trăng núi bạn bầu Ở hang tắm suối có đâu nhọc nhằn Bình sinh dứt mộng mây xanh E người lối xóm hỏi mình cánh lông
73 Tống Nhân
Hương Cần (1) quan đạo liễu thanh thanh Giang bắc giang nam vô hạn tình Thượng uyển (2) oanh kiều đa đố sắc Cố hương thuần (3) lão thượng kham canh Triều đình hữu đạo thành quân hiếu Trúc thạnh đa tàm phụ nhĩ minh Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh
Tiễn Người Đi
Trên đường cái quan Hương Cần, liễu xanh xanh. Kẻ đi về phía bắc sông, người ở lại phía nam sông, tình vô hạn. Những con oanh đẹp trong vườn thượng uyển ghen nhau vì sắc đẹp, Rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu canh được, Triều đình có đạo khiến anh tròn được đạo hiếu, Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi phụ lời thề với nó. Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng, Nghe mưa dầm đầy giường không sao chịu nổi. Chú thich: (1) Hương Cần: Làng cách Huế 4 km về phía bắc, nổi tiếng vì trồng quit. Đường thiên lý chạy ngang qua đấy. (2) Thượng uyển: Ngự uyển, vườn vua. Câu này nói lên tình cảnh Nguyễn Du vì có tài mà bị ganh ghét trong triều. (3) Thuần: Loài thủy quỳ, tức một loài sen, lá non có thể ăn được. Trương Hàn ở đất Ngô quận đời Tấn, làm quan tại đất Lạc, một buổi gió thu bắt đầu thổi, nhớ nhà bèn treo ấn từ quan. Bạch Cư Dị có thơ rằng: Thu phong nhất trợ lô ngư khoái Trương Hàn dao đầu hoán bất hồi (Gió thu thổi, nhớ tới gắp đũa gỏi cá lô, Trương Hàn lắc đầu, gọi cũng không quay trở lại)
Tiễn Người Đi
Hương Cần đường liễu thanh thanh Bờ nam bến bắc hữu tình biết bao Ngự Viên oanh yến ồn ào ghen tuông Quê cũ rau nào cũng ngon Vua hiền tôi hiếu vuông tròn Thẹn cùng trúc đá người khôn vẹn thề Đèn khuya đối bóng não nề Mưa dầm giăng mắc khó bề khuây khoa
74 Ngẫu Hứng
I Tam nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiêu Chủ nhân tại lữ bất quy khứ Khả tích Hồng Sơn thuộc vãn tiều
II Lô hoa sơ bạch cúc sơ hoàng Thiên lý hương tâm dạ cộng trường Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt Lục âm trùng diệp bất di quang
III Nhất đái ba tiêu lục phú giai Bán gian yên hỏa tạp trần ai Khả liên đình thảo sam trừ tận Tha nhật xuân phong hà xứ lai
IV Cố hương cang hạn cửu phương nông Thập khẩu hài nhi (1) thái sắc đồng Thí tự thuần lô tối quan thiết Hoài quy nguyên bất đãi thu phong
V Hữu nhất nhân yên lương khả ai (2) Phá y tàn lạp sắc như khôi Tị nhân đãn mịch đạo bang tẩu Tri thị Thăng Long thành lý lai
Ngẫu Hứng
I Tháng ba xuân, đậu và lúa lớn Cáo vàng béo múp, cáo trắng kiêu căng. Chủ nhân ở nơi đất khách không về, Đáng tiếc cho Hồng Sơn thuộc về ông tiều hái củi chiều hôm.
II Hoa lau vừa bạc hoa cúc vừa vàng Lòng nhớ quê nơi ngàn dặm xa cùng dài với đêm dài, Gượng dậy đẩy song cửa ngắm trăng sáng Bóng cây xanh trùng điệp làm ánh trăng không lọt qua được.
III Một dãy cây chuối màu xanh che trùm thềm nhà, Nửa gian nhà lửa khói bếp đầy bụi, Đáng thương cỏ trên sân đã bị dẫy sạch, Mai mốt gió xuân biết từ nơi nào đến?
IV Quê hương nắng hạn lâu làm hại việc nông, Mười miệng trẻ đói mặt cùng xanh như rau. Giá như rất tha thiết canh rau thuần gỏi cá lô, Thì lòng muốn về vốn chẳng cần đợi gió thu nổi
V Có một người kia thật đáng thương, Áo rách nón xơ sắc mặt xám như tro. Tránh người chỉ tìm ven đường mà bước, Biết là người trong thành Thăng Long đến.
Chú thích: (1) Thập khẩu hài nhi: Mười miệng trẻ thơ. Nguyễn Du có ba vợ. Vợ cả là con Đoàn Nguyễn Thục và là em Đoàn Nguyễn Tuấn, sinh một con: Nguyễn Tứ. Bà vợ kế họ Võ sinh một trai là Nguyễn Ngũ. Vợ thiếp sinh được mười trai sáu gái và ở lại quê nhà.
(Bài số V) Học giả Đào Duy Anh cho rằng đây chính là Nguyễn Du. Dịch giả e rằng không đúng. Khi mới theo Gia Long, Nguyễn Du đã được ban một quan chức (Tri huyện Phù Cừ (Phù Hoa), Hưng Yên). Vả lại con người tài tử hoa gấm Tố Như đâu có thể bệ rạc như vậy.
(2) Nguyễn Du từng sống thời vàng son ở Thăng Long, rồi sau đó gia đình tan tác đên nỗi cháu là Nguyễn Hành phải than: “Tha niên hải nội tri danh sĩ Kim nhật thành trung khất thực nhân” (Minh Quyên thi tập) (Năm xưa cả nước đều biết tiếng danh sĩ, mà nay là người ăn xin ở trong thành Thăng Long). Có thể nhà thơ Nguyễn Hành đã dùng thể thậm xưng cực tả cái nghèo của chú.
Ngẫu Hứng
I Tháng ba lúa đậu lớn mau Cáo vàng cáo trắng đua nhau mập phì Quê người ông chủ còn đi Tiếc thay Hồng Lĩnh thuộc về tiều phu
II Sơ sơ lau bạc cúc vàng Nhớ quê muôn dặm đêm càng dài thêm Gượng kề song ngắm trăng êm Cây cao bóng cả khó xuyên ánh ngà
III Tầu tiêu che phủ thềm nhà Nửa căn bếp lửa khói pha bụi mù Đáng thương cỏ dẫy sân trơ Mai kia xuân đến biết nhờ lối ai
IV Quê nhà đồng áng hạn khô Mười con miệng đói xanh như lá chè Ví mê canh nhút gỏi mè Gió thu chẳng đợi mới về cố hương
V Có người thật đáng xót thương Nón mê áo rách mặt dường xám tro Tránh quen mé lộ lò dò Biết ngay khách ở cố đô mới vào
75 Ngẫu Đề
Bạch địa đình trì dạ sắc không Thâm đường tiễu tiễu há liêm lung Đinh đông châm chử thiên gia nguyệt Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông Tri giao quái ngã sầu đa mộng Thiên hạ hà nhân bất mộng trung
Ngẫu Đề
Sân thềm trống trơn, màn đêm tĩnh lặng, Nhà sâu lặng lẽ, rèm buông xuống. Tiếng chày đập vải thình thịch dưới bóng trăng soi nghìn nhà, Gió đầy cả phòng, tàu chuối tiêu điều xào xạc, Mười miệng kêu đói ở phía bắc Hoành Sơn. Một thân nằm bệnh ở phía đông Hoàng Thành, Bạn bè thân thiết, lấy làm lạ rằng sao ta hay sầu mộng Nhưng thiên hạ ai là người không ở trong mộng?
Ngẫu Đề
Thềm trơ canh vắng tịch liêu Thâm nghiêm lặng lẽ trướng điều rủ buông Tiếng chầy nện vải trăng suông Chiếu soi ánh nguyệt trăm muôn nóc nhà Gió đầy phòng viện bao la Tầu tiêu xào xạc âm ba lạnh hồn Đói mười miệng bắc Hoành Sơn Đông Hoàng Thành một người ôm bệnh nằm Lạ lùng thân hữu hỏi thăm Rằng sao sầu mộng tháng năm rã rời Xin thưa đã chót vào đời Là vô cõi mộng ai người chẳng mơ
76 Thủy Liên (1) Đạo Trung Tảo Hành
Bi mạc bi hề hành đạo nan Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan Bách niên cổ đạo giai thành hác Nhất đái bình lâm bất kiến san Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ Ngũ canh tàn mộng tục hương quan Ngẫu phùng quy khách hướng dư thoại Tạc tuế triều thiên sạ phóng hoàn
Đi Sớm Trên Đường Thủy Liên
Không gì buồn bằng đường đi khó, Đêm ngủ trên sương đầu ngọn cỏ làm mặt mày hốc hác thêm. Đường xưa trải trăm năm biến thành khe ngòi, Một dải rừng bằng phẳng không thấy núi non. Tấm thân nhiều bệnh giao phó cho đường sá Trong giấc mộng tàn canh nằm vẫn còn mơ về quê hương. Tình cờ gặp người khách trên đường về nhà nói chuyện cùng ta: Năm ngoái vào chầu vua bỗng lại được cho về!
Chú thích: (1) Thủy Liên, chưa rõ. Ở Lệ Thủy, Quảng Bình có tổng Thủy Liên (nhưng viết “liên” là sen, khác với “liên” trong bài là liền. Nếu Nguyễn Du đi qua đấy, thì đây có thể là bài thơ làm lúc đến Quảng Bình nhận chức Cai Bạ (1809) chăng?
Sáng Sớm Ra Đi Trên Đường Thủy Liên
Buồn chi hơn nỗi gay go đường dài Ngọn cỏ ngủ nhờ đêm sương Sáng ra mặt mũi lươm nhươm Trăm năm lối cũ thành mương thành ngòi Rừng xanh che khuất núi đồi Tấm thân bệnh hoạn gửi nơi lộ trình Mơ quê thoáng mộng tàn canh Tình cờ gặp khách đồng hành chuyện nghe Năm qua bệ kiến triều nghi May sao Ngài Ngự cho về điền viên
77 Tân Thu Ngẫu Hứng
Giang Thành (1) nhất ngọa duyệt tam chu Bắc vọng gia hương thiên tận đầu Lệ Thủy (2) Cẩm Sơn (3) giai thị khách Bạch vân hồng thụ bất thăng thu Thử nhân dĩ tác phàn lung vật Hà xứ trùng tầm hãn mạn du Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc Hà nam (4) kim thị đế vương chu
Ngẫu Hứng Thu Mới
Nằm ở thành bên sông chốc đã ba năm, Trông về bắc quê nhà ở tận cuối trời. Ở Lệ Thủy ở Cẩm Sơn mình vẫn chỉ là khách; Màu mây trắng màu cây hồng đượm biết bao vẻ thu. Thân này đã làm chim trong lồng, Biết tìm đâu lại cuộc chơi phóng lãng? Chớ nhìn cuối trời mà than luân lạc, Vì phía nam sông nay là đất nhà vua rồi.
Chú thích: (1) Giang Thành: Thành Động Hải (Đồng Hới) bên sông Nhật Lệ, Quảng Bình, nơi Nguyễn Du làm Cai Bạ tù 1809 đến 1813. (2) Lệ Thủy: Tên sông. (3) Cấm Sơn: Núi Cẩm Thúy, nơi sản sinh ra bạc trắng, nên còn gọi là Ngân Sơn. (4) Hà nam: Phía nam sông, tính từ sông Nhật Lệ vào nam ( kể cả Gia Định ) nay thuộc nhà Nguyễn cả rồi. Có về vườn cũng vẫn trong đất nhà vua.
Tân Thu Ngẫu Hứng
Giang Thành thấm thoắt ba năm Trông quê nẻo bắc xa xăm cuối trời Cẩm Sơn Lệ Thủy xứ người Cây hồng mây trắng bời bời dáng thu Đem thân sống kiếp chim tù Tìm đâu phiêu lãng phiếm du những ngày Đừng than luân lạc đọa đầy Nam hà cũng đã vào tay vua rồi
78 Dạ Tọa
Tứ bích cùng thanh náo dạ miên Ải sàng di hướng khúc lan biên Vi phong bất động sương thùy địa Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu Thuần lô hương tứ tại thu tiên Bạch đầu sở kế duy y thực Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên
Đêm Ngồi
Ban đêm dế kêu quanh bốn vách làm rộn giấc ngủ, Dời chiếc giường thấp đến bên cạnh lan can. Gió nhẹ không lay động, màn sương rũ xuống mặt đất, Trăng tà không sáng, sao đầy trời. Nỗi buồn man mác về xưa nay, lại đến sau khi say. Nhớ đến hương vị rau thuần cá vược ở quê nhà lúc đầu thu. Đầu bạc chỉ lo chuyện cơm áo. Làm thế nào được hát ngông như thời niên thiếu?
Dạ Tọa
Quanh tường dế rúc trêu ngươi Dời giường tới tận đầu hồi lan can Gió im sương nhẹ rủ màn Trăng mờ sao hiện vô vàn cõi đêm Buồn man mác phút say quên Món quê vị thuộc mùi quen thu đầu Tóc sương cơm áo dãi dầu Hát ngao thèm được vài câu thiếu thời
79 Tặng Nhân
Doanh doanh nhất thủy giới cô thôn Trung hữu cao nhân bất xuất môn Tiêu lộc mộng (1) trường tâm bất cạnh Tần Tùy vãng sự (2) khẩu năng ngôn Xuân vân mãn kính quần mi lộc Thu đạo đăng trường đốc tử tôn Ngã dục quải quan tòng thử thệ Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn
Tặng Người
Một dòng nước đầy ngăn một xóm hẻo lánh, Trong xóm có một cao sĩ không hề ra khỏi cửa. Giấc mộng “lấy lá chuối dấu hươu” lòng không ganh đua, Chuyện cũ đời Tần Tùy có thể nói được. Mây xuân đầy đường nhỏ làm bạn cùng hươu nai Mùa thu gặt lúa, ra đốc thúc con cháu. Ta cũng muốn từ đây treo mũ áo từ quan mà ra đi, Cùng ông hưởng thọ vui với đàn với rượu.
Chú thích: (1) Tiêu lộc mộng: “Giấc mộng lá chuối dấu hươu”. Liệt Tử: Có người hái củi, thấy hươu chạy, đón đánh chết, sợ người ta thấy, đem dấu vào hang, lấy lá chuối phủ kín, sau quên không biết dấu nơi nào, ngỡ là mình chiêm bao. (2) Tần, Tùy vãng sự: Chuyện cũ đời Tần, Tùy. Có lẽ tác giả nhắc đến “Đào Hoa Nguyên Ký” của Đào Tiềm: Những người tránh loạn ẩn cư trong núi không biết đên chuyện đời nay, nhưng nhớ chuyện đời xưa.
Tặng Người
Ngòi sâu ngăn cách cô thôn Vị cao sĩ chẳng lìa cồn tre xanh Dấu hươu không ý đua tranh Luận bàn riêng chỉ đời Tần Tùy thôi Mây xuân lối nhỏ chơi vơi Hươu nai bạn với con người ẩn cư Đốc con cháu gặt lúa thu Ta thèm mũ áo tạ từ cáo quan Cùng nhau an hưởng tuổi nhàn Chung vui chén rượu tiếng đàn xóm quê
80 Tái Thứ Nguyên Vận
Trạm (1) nguyên lưu thủy phát sơn thôn Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn Thanh Vị trọc Kinh đồng bất tức (2) Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn (3) Tuế thu truật mễ kham cung khách Thiền giả tùng niên cập bão tôn Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn
Lại Họa Nguyên Vận Bài Trước
Nguồn sông Trạm bắt nguồn từ xóm núi, Ở cửa biển Nhật Lệ sóng triều cường vỗ mạnh. Sông Vị trong sông Kinh đục đều chảy không ngừng, Hoa vàng và trúc xanh cả hai đều quên nói. Hàng năm thu hoạch nếp đủ để đãi khách Trời cho tuổi thọ như cây tùng để kịp bế cháu, Cuộc đời phù sinh đã trải qua bao phen ruộng dâu biến thành ruộng muối. Đầu giường luôn có nậm rượu đầy như cũ.
Chú thích: (1) Trạm: Sông Trạm, tức Bình Giang, chảy từ núi Bang Môn, qua 18 thác và vực Yên Sinh rồi vào phía Hạt Hải, có một chi qua xã Cẩm La mà vào sông Nhật Lệ để ra biển ở phía đông thành Quảng Bình (chú theo Đào Duy Anh). (2) Kinh, Vị: Sông Kinh và Sông Vị, hai nhánh của Hoàng Hà, nước sông Kinh đục, nước sông Vị trong, khi hai sông hợp lưu thì trong đục thấy rõ. Ở đây muốn nói dòng đời trong đục. (3) Hoàng hoa lục trúc: Cúc vàng trúc xanh. Vong ngôn: Quên nói. “Vong thân vong thế dĩ đô vong”(Thơ Huyền Quang đời Trần) (Quên thân quên đời quên tất cả). “Dục ngữ hốt hoàn vong” (thơ Nguyễn Trãi): “Muốn nói bỗng lại quên”. Lấy tâm truyền tâm, ngộ đạo bằng trực giác, không dùng ngôn ngữ và văn tự… Đó là những yếu chỉ của Thiền Tông. Ở đây ý nói cả hai người, Nguyễn Du và bạn đều muốn “thiền”.
Lại Họa Nguyên Vận Bài Trước
Núi nguồn sông Trạm chẩy ra Hải quan Nhật Lệ phong ba chập trùng Vị trong Kinh đục chẳng ngừng Cúc vàng trúc biếc đã ngưng mạn đàm Nếp thu hoạch đủ đãi đằng Kịp bồng bế cháu tuổi bằng tùng cao Đời dâu biển giấc chiêm bao Nậm đầu giường chẳng khi nào rượu vơi
81 Tạp Ngâm
Bạch vân sơ khởi Lệ Giang thành (1) Thử khí tài thu thiên khí thanh Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc Giang đầu thụ thụ các thu thanh Tha hương bạch phát lão bất tử Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch Tái vô diện mục kiến đồng minh
Tạp Ngâm
Mặt trăng vừa nổi trên thành sông Nhật Lệ Khí nóng vừa hết khí trời trong. Các ngọn núi ngoài thành đều nhuốm sắc hoàng hôn, Hàng cây đầu sông đều vang vọng tiếng thu. Bạc đầu nơi đất khách, già nhưng chưa chết. Cúc vàng năm ngoái năm nay lại nở. Vì ta hãy tạ từ với cây tùng tảng đá ở Hồng Sơn, Ta không còn mặt mũi nào trông thấy các bạn đồng minh nữa.
Chú thích: (1) Lệ Giang thành: Thành bên sông Nhật Lệ tức tỉnh thành Quảng Bình, còn gọi là Lũy Thày, do Đào Duy Từ ( thế kỷ XVIII ) xây trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, chạy dọc theo bờ sông Nhật Lệ lên chân núi Đâu Mâu, tức lũy Trường Dục.
Tạp Ngâm
Giang Thành mây trắng nổi lên Nóng nung vừa hết trời thêm trong lành Núi đồi nhuộm sắc chiều xanh Cây đầu bến bãi vọng thanh mùa buồn Bạc đầu đất khách chưa chôn Cúc vàng năm ngoái vẫn còn nở hoa Cội tùng đá núi Hồng xa Tạ từ thôi nhé lòng ta thẹn thùng
82 Giang Đầu Tản Bộ
I Tản phát cuồng ca tứ sở chi Lục tần phong khởi tịch dương vi Bạch vân lưu thủy đồng vô tận Ngư phủ phù âu lưỡng bất nghi Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách (1) Bất tài đa khủng tốc quan phi (2) Niên niên thu sắc hồn như thử Nhân tại tha hương bất tự tri
II Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng Tế giản thủy thanh lưu tích vũ Bình sa nhân ảnh tại tà dương Quyên ai mạc báo sinh hà bổ Nhi nữ thành quần tử bất phương Hồi thủ cố hương thu sắc viễn Hoành Sơn vân thụ chính thương thương
Dạo bước Bên Sông
I Xõa tóc hát ngâm đi khắp nơi, Gió thổi trên đám rau tần xanh, bóng chiều nhạt. Mây trắng nước trôi đều vô tận, Ông chài chim âu không nghi ngờ nhau. Không lụy nên chưa chuốc lấy sự trách móc của quỷ, Bất tài nên hay sợ rước lấy sự sai lầm trong việc quan. Năm này qua năm khác sắc thu vẫn như thế, Người ở đất khách chẳng tự biết mà thôi.
II Hát mau tiếng ngân ngắn, hát chậm tiếng ngân dài. Tóc bạc phơ bên con đường xưa. Lạch nhỏ mưa nhiều tiếng nước reo, Bóng người trên bãi cát phẳng lúc chiều tà. Ơn nước chưa báo được mảy may sống ích gì. Ngoảnh đầu nhìn quê nhà, màu thu xa Khói mây cây cối trên Hoành Sơn đương một màu xanh xanh.
Chú thích: (1) Không lụy vì danh lợi, nên chưa rước lấy sự trách móc của ma quỷ ( có thể ám chỉ bọn người xấu ). (2) Đại Nam Thực Lục Chính Biên chép: “ Khi ra làm quan ông thường bị quan trên quở trách, nên lấy làm uất ức, bực chí”. Nhưng cũng theo sách này chép, khi làm quan ở Quảng Bình, Nguyễn Du “ chính sự giản dị” được lòng dân, có “ chính tích “.
Tản Bộ Bên Sông
I Nghêu ngao xõa tóc dạo chơi Rau tần gió thổi chiều trời nhạt phai Nước mây vô tận trôi hoài Chim âu cùng với bác chài tương tri Lụy không nên quỷ chưa chê Bất tài luống sợ lỗi nghề làm quan Sắc thu muôn thủa hanh vàng Sống lâu đất khách nên chàng không hay
II Hát mau cho ngắn lời ca Càng chầm chậm tiếng ngân nga càng dài Đường xưa tóc bạc u hoài Nước dâng lạch nhỏ mưa dai tiếng đều Bóng ai trên bãi cát chiều Ân chưa báo đáp thọ nhiều ích chi Con đông chết chẳng tiếc gì Ngoảnh đầu nhìn lại sắc quê thu mờ Hoành Sơn mây khói tiêu sơ Đó đây rải rác cây bờ xanh xanh
83 Ngẫu Đắc
Cô thành nhật mộ khởi âm vân Thanh thảo man man đáo hải tần Khoáng dã biến mai vô chủ cốt Thù phương độc thác hữu quan thân Sự lai đồ lệ giai kiều ngã Lão khứ văn chương diệc tị nhân Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lý Tương tòng hà xứ vấn tiền lân
Ngẫu Nhiên Nẩy Ý Thơ
Chiều tà trên thành lẻ loi mây đen nổi, Cỏ xanh rờn lan tận bờ bể. Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ, Phương xa một mình gửi cái thân làm quan. Khi gặp việc bọn đầy tớ lính hầu đều lên mặt với ta, Gìa đến rồi, văn chương cũng xa lánh người. Trông ra Hồng Sơn cách ngoài ba trăm dặm. Biết chốn nào hỏi thăm láng giềng cũ?
Ngẫu Đắc
Mây đen nổi mặt cô thành Cỏ lan bãi biển cỏ xanh ruộng đồng Xương tàn vô chủ vùi nông Miền xa hạt nhỏ một ông quan nghèo Công sai nha lại ra điều Già nua thơ cũng có chiều lánh ta Hồng Sơn dặm cách xa xa Biết đâu mà hỏi cho ra láng giềng
84 Pháo Đài
Nam Bắc xa thư khánh đại đồng (1) Pháo đài hư thiết thổ thành đông Sơn băng thạch liệt thành do tráng Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không (2) Tạc giả đại khuy sinh vật đức Nhĩ lai bất quý sát nhân công Thanh bình thời tiết vô tranh chiến Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông
Pháo Đài
Xe và chữ viết Nam và Bắc mừng đã cùng một thể thức, Pháo đài đã thành vật bỏ không ở phía đông thành đất. Núi lở đá tan, thành vẫn còn vững, Chuyện Hán cướp Tần tranh đã thành không, Trước kia đã thương tổn rất nhiều đến cái đức hiếu sinh của tạo hóa, Từ nay không quý cái công giết người nữa. Trong buổi thanh bình không có chiến tranh, Trâu bò cày bừa, chính là lúc coi trọng nhà nông.
Chú thích: (1) Xa thư đại đồng: “Xa đồng quỹ, thư đồng văn” (Trung Dung) xe cùng khoảng cách đôi bánh (trục xe), chữ viết cùng kiểu chữ; nói lên sự thống nhất của Trung Quốc thời xưa. Ở đây ý nói dưới thời Nguyễn, Nam Bắc đã không còn phân tranh, đã thống nhất. (2) Hán, Tần: chỉ Trịnh Nguyễn.
Pháo Đài
Bắc Nam một mối đã gom Pháo đài vô dụng mỏi mòn lũy đông Đá tan núi lở mịt mùng Thành trơ trơ đứng thị hùng ích chi Hiếu sinh thương tổn gớm ghê Bây giờ ai nữa chuộng nghề sát nhân Bình ca quốc thái dân an Trâu cầy thôn xóm yên hàn ruộng nương
85 Thành Hạ Khí Mã
Thùy gia lão mã khí thành âm Mao ám bì can sấu bất câm Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản Sa trường nhật mộ trận vân thâm Cơ lai bất tác cầu nhân thái Lão khứ chung hoài báo quốc tâm Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính Mạc giao ky trấp (1) tái tương xâm
Con Ngựa Thải Dưới Chân Thành
Con ngựa già nhà ai thải bỏ dưới chân thành? Lông sạm da khô gầy quá thể, Trên lũy đá hơi thu lạnh cỏ ở đường ngắn, Chốn bãi cát trời chiều mây kéo dày đặc. Bụng đói nhưng không tỏ ý cầu xin người, Già rồi vẫn ôm tấm lòng báo nước. Chịu được gió sương giữ trọn tính tự nhiên của mày, Chớ để cho dàm và bịt móng lại phạm vào thân.
Chú thích: (1) Ky trấp: Ky là dàm buộc mõm ngựa. Trấp là vật bịt chân ngựa.
Con Ngựa Thải Dưới Chân Thành
Ngựa hoang ai bỏ dưới thành Lông tro da xạm thân hình trơ xương Lạnh hơi thu ngắn cỏ đường Hoàng hôn mây kéo tà dương bãi chiều Đói lòng miệng chẳng kêu rêu Tuổi già vẫn nặng tình yêu sơn hà Gió sương âu cũng chỉ là Móng dàm xin chớ phạm ta hai lần
86 Vọng Thiên Thai Tự
Thiên Thai sơn tại đế thành đông (1) Cách nhất điều giang tự bất thông Cổ tự thu mai hoàng diệp lý Tiên triều tăng lão bạch vân trung Khả liên bạch phát cung khu dịch Bất dữ thanh sơn tương thủy chung Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo Cảnh Hưng do quải cựu thời chung (2)
Trông Chùa Thiên Thai
Núi Thiên Thai ở phía đông Hoàng Thành, Cách một dòng sông dường như không đến được. Mùa thu, chùa cổ như vùi trong lá vàng, Vị sư triều trước già trong mây trắng. Khá thương mình đầu bạc rồi vẫn phải chịu để người sai khiến, Không cùng với núi xanh giữ được thủy chung. Nhớ năm trước ta từng một lần đến đây, Còn thấy có treo quả chuông đá thời Cảnh Hưng ngày xưa.
Chú thích: (1) Thiên Thai: Tên một ngôi chùa ở phía đông nam Nam Giao, Huế. (2) Cảnh Hưng: Niên hiệu của Lê Hiển Tông (1740 – 1786).
Ngắm Chùa Thiên Thai
Thiên Thai dựng phía đông thành Cách sông tưởng khó du hành thiền môn Thu về chùa lá vàng ôm Tiền triều sư cụ sớm hôm mây trời Thương ôi mái tóc bạc rồi Trào ca mình vẫn cuộc đời tay sai Thủy chung lỗi hẹn núi này Nhớ năm trước đã qua đây một lần Tiếng chuông ngày cũ còn ngân Cảnh Hưng niên hiệu ân cần nhắc nhau
87 Giản Công Bộ Thiêm sự Trần (1)
I Thanh sơn ngoại hữu bất quy nhân (2) Sơn bắc sơn nam tẫn bạch vân Thất nguyệt hựu phùng thu đáo nhãn Thiên nhai không đái lão tùy thân Bách niên cổ lũy yên hà hợp (3) Nhất đái hàn sa thảo thụ phân Ỷ biến lan can vô dữ ngữ Kỷ hồi kinh tọa ức Trần Tuân (4)
II Thanh phong niểu niểu tự giang tân Minh nguyệt thanh sơn thướng hải tần Nan đắc tương phùng như thử dạ Khả liên đồng thị vị quy nhân Âm phù tuế vãn sinh tiên đố (5) U thất thu hàn hiện quỷ lân Dạ độc minh minh Chiêu Ẩn phú (6) Hồng Sơn tàm phụ nhất sơn vân
Gửi Ông Thiêm Sự Bộ Công Họ Trần
I Ngoài dẫy núi xanh có người chưa trở về, Phiá bắc núi phía nam núi thẩy đều đầy mây trắng. Tháng bẩy lại gặp mùa thu đến trong tầm mắt, Nơi chân trời chỉ đeo cái già theo mình. Trên lũy xưa trăm năm khói ráng tụ lại, Một dải cát lạnh chia cách cỏ cây. Tựa khắp lan can không cùng ai trò chuyện, Bao lần tưởng nhớ Kinh Tọa Trần Tuân.
II Gió mát hiu hiu từ bến sông thổi đến, Trăng sáng núi xanh hiện trên bãi bể. Khó được gặp nhau như đêm nay, Đáng thương hai ta đều là người chưa về được. Kinh Âm Phù đến cuối năm không xem sinh mọt tiên, Ngôi nhà tối mùa thu lạnh sẽ hiện đom đóm ma. Đêm đọc rõ bài phú Chiêu Ẩn, Thẹn mình đã phụ làn mây núi Hồng.
Chú thích: (1) Theo câu cuối bai I thì ông Thiêm Sự họ Trần này có lẽ là Trần Văn Tuân, làm Tham Tri bộ Lại dưới triều Gia Long đồng thời với Nguyễn Du. (2) Tự nói về mình. (3) Bài này làm lúc ở Quảng Bình nên nói đến “bách niên cổ lũy” (lũy cũ trăm năm), chỉ Lũy Thầy. (4) Trần Tuân: Người đời Hán, tự Mạnh Công, tính mến khách, thường tháo chốt xe của khách ném xuống giếng để lưu khách lại. Ông người cao lớn, vạm vỡ, đi đến đâu, ai cũng trọng vọng. Hồi đó có một người trùng tên họ với ông, mỗi khi đến nhà ai, xưng là Trần Mạnh Công, mọi người đều kinh động, nhưng khi vào đến nơi thì không phải, do đó có người đặt cho cái tên là “kinh tọa” (làm mọi người kinh động). Câu này ý nói: Người mình nhớ trùng tên với Trần Tuân, người đời Hán. (5) Âm (âm) Phù: Tức Âm (âm) Phù kinh , một bộ sách cổ của Trung Quốc nói về Đạo Giáo. (6) Chiêu Ẩn phú: Bài Chiêu ẩn sĩ của Hoài Nam Tiểu Sơn chép trong phần sáu của Sở Từ, đại ý kêu gọi các bạn cao sĩ ở ẩn để nhớ Khuất Nguyên mà họ ví như người còn ở ẩn trong chằm núi. Dụng ý kêu gọi các cao sĩ ra theo giúp Hoài Nam Vương Lưu An.
Ý Nguyễn Du cho mình đã nghe theo lời “chiêu ẩn” mà ra làm quan nhà Nguyễn, phụ cái chí nguyện ở ẩn non Hồng.
Gửi Ông Thiêm Sự Bộ Công Họ Trần
I Núi xanh người vẫn chưa về Phía nam phía bắc mây che trắng trời Gặp mùa tháng bẩy thu rơi Cái già lại buộc theo người chân mây Lũy xưa khói ráng phủ đầy Bình sa một dải cỏ cây chia lìa Tựa lan can chẳng nói gì Nhớ thương thương nhớ ai kia họ Trần
II Hắt hiu gió tự sông lên Núi xanh trăng sáng bãi liền bờ sâu Đêm nay mình khó gặp nhau Hai ta tội nghiệp còn lâu mới về Âm Phù Kinh chẳng kịp nghe Cuối năm mọt sách gặm bìa thành tiên Thu buồn nhà tối nhá nhem Từng đàn đom đóm soi đêm mịt mùng Chiêu Ẩn Phú tai đã từng Nước non đành phụ núi Hồng mây bay
88 Thu Nhật Ký Hứng
Tây phong tái đáo bất quy nhân Đốn giác hàn uy dĩ thập phần Cố quốc hà sơn khan lạc nhật Tha hương thân thế thác phù vân Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị Hà xứ thu thanh tạc dạ văn Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân
Ngày Thu Gởi Hứng
Gió thu mới vừa thổi đến người chưa được trở về nhà, Chợt cảm thấy trời đã rất lạnh. Sông núi quê nhà nhìn trong cảnh mặt trời lặn, Thân thế nơi đất khách gửi đám mây nổi. Sáng nay chợt kinh sợ cho cảnh già, Đêm qua nghe tiếng thu ở chốn nào. Tự cười đầu bạc vụng thu xếp, Đầy sân lá vàng rụng tơi bời.
Ngày Thu Gởi Hứng
Gió tây nổi vẫn chưa về Trời thu đã thấy lạnh tê tái rồi Quê nhà trong ánh chiều rơi Thân ngoài đất khách mây trời phiêu du Sáng nay cám cảnh già nua Đêm qua nghe vẳng tiếng thu chốn nào Cười ta đầu bạc vụng sao Đầy sân lá rụng ào ào như mưa
89 Sơn Trung Tức Sự
Điệp điệp tằng loan thạch tác đôi Yên la bố địa mật nan khai (1) Hốt phùng hãi thú thụ gian xuất Tri hữu tiều phu lâm hạ lai Thiêu dã tân ngân thanh thảo tận Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôi Sơn linh cố tuyệt khinh phì lộ (2) Biến liệt nguy cương dữ hiểm nhai
Tả Cảnh Trong Núi
Núi trùng điệp, đá chất thành đống, Dây leo bò khắp đất chật chội khó mở lối đi. Bỗng gặp con thú sợ hãi trong lùm cây chạy ra, Biết là người hái củi ở dưới rừng đi đến. Đồng cháy, vết cháy còn mới, cỏ xanh cháy hết, Lối đi cũ ven núi, mây trắng đùn lên. Thần núi cố ý dứt tuyệt con đường người đi tìm phú quý. Bày khắp nơi gò cao và vách đá hiểm.
Chú thích: (1) Yên la: Tên một loài dây leo, bò lan trên mặt đất. (2) Khinh phì: (Khinh cừu phì mã), mặc áo cừu nhẹ , cưỡi ngựa béo, ý nói đời sống phong lưu
Tả Cảnh Trong Núi
Điệp trùng núi đá nhấp nhô Lối mòn mất hút bụi bờ kín bưng Thú hoang khiếp sợ tách vùng Biết người hái củi dưới rừng ghé đây Đồng khô vệt cháy còn đầy Lối men vách núi mây bay trên đầu Sơn Thần cố ý chọc nhau Con đường phú quý vực sâu hiểm nghèo
90 Độ Linh Giang (1)
Bình sa tận xứ thủy thiên phù Hạo hạo yên ba cổ độ thu Nhất vọng tân nhai thông cự hải Lịch triều cương giới tại trung lưu Tam quân cựu bích phi hoàng diệp (2) Bách chiến tàn hài ngọa lục vu Bắc thượng thổ dân mạc tương tị (3) Táp niên tiền thị ngã đồng chu (châu)
Qua Đò Sông Gianh
Cuối bãi cát phẳng là chỗ trời và nước nổi bập bềnh, Khói sóng mênh mang, vẻ thu trên bến đò xưa. Ngước trông bến sông thông ra biển lớn, Cương giới các triều đại phân chia ở giữa dòng sông. Trên lũy cũ ba quân lá vàng bay lả tả, Xương tàn trăm trận đánh nằm trong bãi cỏ xanh Thổ dân vùng Bắc chớ nên xa lánh nhau, Ba mươi năm trước cũng là người đồng châu với ta.
Chú thích: (1) Linh Giang: Là tên chữ của sông Gianh, thuộc Quảng Bình, là con sông Đàng Trong – Đàng Ngoài chia ranh giới thời Trịnh Nguyễn phân tranh. (2) Cựu bích: Lũy cũ, chỉ Lũy Thầy. (3) Trước khi Tây Sơn khởi nghĩa thì miền bắc sông Gianh thuộc châu Bắc Bố Chính, về địa phận Đàng Ngoài, tức dân ở đây còn là cùng một châu với người miền Bắc người Nghệ Tĩnh, cho nên thấy người về Bắc dân miền này đừng có tránh.
Qua Đò Sông Gianh
Nước trời cuối bãi liền nhau Khói mênh mông vẻ thu đầu bến xưa Sông tìm biển lớn sóng xô Giữa dòng triều cũ cõi bờ Bắc Nam Ba quân cổ lũy lá vàng Hàng trăm trận đánh xương tàn vùi nông Thổ dân bờ bắc biết không Ba mươi năm trước ta cùng một châu
91 Nễ Giang (1) Khẩu Hương Vọng
Vọng vọng gia hương tự nhật biên Hoành Sơn chỉ cách nhất sơn điên Khả lân quy lộ tài tam nhật Độc bão hương tâm dĩ tứ niên Yến Đảo (2) thu hàn thanh nhập hải Nễ Giang trào trướng bạch hàm thiên Ngoại châu (3) kim dữ ngô châu biệt Khán khán nhân phong bất tự tiền
Ở Cửa Sông Ròn Nhìn về Quê
Trông ngóng quê nhà xa tựa như ở bên mặt trời Nhưng chỉ cách một ngọn núi trong dẫy Hoành Sơn. Khá thương đường về nhà chỉ mất có ba ngày, Mà riêng ôm lòng nhớ nhà đã bốn năm, Hòn Yến hơi thu lạnh, sắc xanh chiếu xuống biển Cửa sông Ròn nước triều lên, sóng trắng xóa như ôm lấy trời, Châu ngoài này khác với châu ta, Nhìn xem phong tục người dân không giống trước.
Chú thích: (1) Nễ Giang khẩu: Cửa sông Nễ, một con sông phía bắc tỉnh Quảng Bình, còn gọi là cửa Ròn, cũng gọi là cửa Cảnh Dương. Hán tự chữ Nễ còn đọc là Di. (2) Yến Đảo: Hòn Én, một đảo nhỏ ngoài cửa Ròn, có nhiều tổ én. (3) Ngoại châu: Châu Ngoài tức là Bố Chính Ngoại Châu. Từ thời đầu Nguyễn thì miền này thuộc về tỉnh Quảng Bình khác với miền Nghệ An là quê của Nguyễn Du.
Từ Cửa Sông Ròn Nhìn Về Quê
Quê xa xa tựa mặt trời Hoành Sơn chỉ một ngọn đồi cách ngăn Ba ngày đường mấy xa xăm Mà ôm sầu nhớ bốn năm quê nhà Hơi thu lạnh nét thu già Chiều xanh Hòn Yến trời pha biển chiều Cửa Ròn sóng bạc ầm reo Châu ngoài này cũng khác nhiều châu quê Nhìn xem phong tục thói lề Người dân nay đã khác đi quá chừng
92 Y Nguyên Vận Ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên (1)
Nhất dạ tây phong đáo hải mi Đồng niên giao nghị thượng y y Đại canh hữu thiệt sinh thường túc Khứ quốc hà tâm lão bất quy Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh (2) Mộng hồn dã nhập Thiếu Lăng thi (3) Lâm Giang vị cảm đề Anh Vũ (4) Hoàn hữu Trung Nguyên nhất đại nhi
Y Theo Nguyên Vận Gửi Ông Ngô Tứ Nguyên Ở Thanh Oai
Một đêm gió tây thổi đến bờ biển, Tình bạn thủa còn thơ vẫn y như cũ. Thay cái cầy bằng cái lưỡi, sinh kế thường đủ, Xa quê hương lòng nào già không muốn về? Bệnh đái đường của Tư Mã Tương Như của anh ngày một thêm nặng, Hồn mộng tôi đêm đêm nhập vào thơ Đỗ Thiếu Lăng. Đứng trên bờ sông chưa dám đề thơ Anh Vũ Bởi vì đất Trung Nguyên có một nhà thơ lão luyện
Chú thích: (1) Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên: Chưa rõ là ai. Thanh Oai là tên làng quê Ngô Thì Nhậm, vậy vị họ Ngô này hẳn có quan hệ với Ngô Thì Nhậm. Xét trong gia phả họ Ngô chỉ có ông Ngô Thì Hoàng (1768 – 1814) tục gọi là ông Tú Chùa, em ruột Ngô Thì Nhậm là cỡ tuổi Nguyễn Du, có thể hồi nhỏ hai gia đình họ Ngô và họ Nguyễn Tiên Điền lúc đó ở Thăng Long có đi lại , nên thân thiết với nhau (đồng niên giao nghị). Nhưng ông này chỉ đậu Tú Tài, có làm thơ văn, nhưng không phải là người đỗ đầu bốn khoa (đầu xứ, giải nguyên, hội nguyên, đình nguyên) được. Vậy chữ tứ nguyên còn có vấn đề. Ông Tú Chùa cũng không ra làm quan, sống gắn bó với làng quê, nên câu “đại canh hữu thiệt”(thay cái cầy bằng cái lưỡi) hiểu là làm ông đồ dạy học. (2) Tiêu khát: Bệnh đái đường, Tư Mã Tương Như mắc bệnh này. (3) Thiếu Lăng: Bút hiệu Đỗ Phủ , đại thi hào đời Đường. (4) Anh Vũ: Tức Anh Vũ Châu trong thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. “Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu” (cỏ thơm xanh rờn trên bãi Anh Vũ). Bãi Anh Vũ ở giữa sông Trường Giang, tây nam thành phố Vũ Xương.
Vì Lý Bạch thấy Thôi Hiệu đề thơ Hoàng Hạc Lâu hay quá, gác bút, nên đây nhắc lại “không dám đề Anh Vũ”, để nói ý đã có thơ hay.
Không có bài nguyên xướng của ông Ngô Tứ Nguyên
Y Theo Nguyên Vận Gửi Ông Ngô Tứ Nguyên Ở Thanh Oai
Gió tây đêm thổi lay bờ Tình thơ tình vẫn đẹp như thủa nào Lưỡi thay cầy kiếm cháo rau Ly hương tóc bạc nao nao ngày về Tương Như bệnh bác nặng nề Hồn tôi mộng nhập tựa đề Thiếu Lăng Thơ Anh Vũ quả khó khăn Bởi Trung Nguyên đại thi nhân có rồi
93 Tống Ngô Nhữ Sơn (1) Công Xuất Trấn Nghệ An
Cẩm La (2) giang thượng khấu chinh an Bái hội phi nan tích biệt nan Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc (3) Nhất xa cao vũ nhuận toàn Hoan (4) Nhân tòng đạm bạc tư vi chính (5) Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn Bắc vọng Hồng Sơn khai Đức diệu (6) Thiên nhai cử tửu khánh hương quan
Tiễn Ông Ngô Nhữ Sơn Ra Trấn Thủ Nghệ An
Trên cửa sông Cẩm Giang tôi gò yên ngựa của người đi xa lại, Gặp nhau không khó nhưng khó là luyến tiếc khi chia biệt nhau. Văn của ông hay như văn của tám nhà văn lớn đời Đường Tống làm đẹp cho cả hai nước, Mưa móc theo xe của ông thấm nhuần châu Hoan. Tánh tình ông đạm bạc, ông sẽ đem nó vào chính sự, Trời vì dân nên chưa cho ông hưởng nhàn, Trông về Hồng Lĩnh ở phía bắc thấy ngôi sao đức mọc lên, Ở nơi chân trời tôi nâng chén rượu mừng cho quê hương tôi.
Chú thích: (1) Ngô Nhữ Sơn tức Ngô Nhân Tĩnh (? - 1816). Ông tự là Nhữ Sơn, gốc người Trung Quốc, sang ở Gia Định, học trò xử sĩ Võ Trường Toản, cùng với Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định nổi tiếng là “Gia Định tam gia”. Thơ ông thâm trầm, nhiều ẩn ý, nhiều trăn trở trước những nghịch cảnh của xã hội và con người đời Nguyễn. Ông có đi sứ Trung Quốc (1802 và 1807) được nhân sĩ Trung Quốc ngợi khen tài văn chương. Tháng giêng năm Gia Long thứ 10 (1811) ông từ Tham Tri bộ Hộ được bổ Hiệp Trấn Nghệ An. Lúc đó Nguyễn Du đang làm Cai Bạ Quảng Bình, có bài thơ này tặng Ngô Nhân Tĩnh. Năm 1816, bị Gia Long nghi kỵ, lo buồn thành bệnh, ông mất trong sự ghẻ lạnh của triều đình. (2) Cẩm La: Bến Cẩm La tức bến đò Hàn trên sông Nhật Lệ ở phía nam thành Quảng Bình. (3) Bát Đại Kỳ Văn: Tám nhà văn lớn đời Đường Tống gồm: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng, Vương An Thạch
Ít thấy trong thơ Nguyễn Du những lời tán tụng thù tạc, nên sự đánh giá này cũng chứng tỏ tài năng của Ngô Nhân Tịnh.
(4) Hoan Châu: Tức Nghệ An Ngô Nhân Tịnh đem mưa đến cho dân Nghệ An. Năm ấy, dân Nghệ Tĩnh đói kém, thuế tô, thuế điền thiếu kể đến mười vạn. Khi Nhân Tĩnh đến nơi có tâu về triều đình hoãn thu thuế. (5) Người xưa thích chính sự giản dị, đạm bạc, không thích phiền hà.. (6) Ví Ngô Nhân Tĩnh như ngôi sao Đức trên bầu trời Hồng Lĩnh.
Tiễn Ông Ngô Nhữ Sơn Ra Trấn Thủ Nghệ An
Cẩm La gò ngựa khách đi Gặp nào khó chỉ khó khi chia đường Một tay Đường Tống văn chương Móc mưa nhuần gội ruộng vườn châu Hoan Tính trời đạm bạc vỗ an Vì dân chưa hưởng chữ nhàn trời cho Hồng Sơn sao Đức mới nhô Xa quê hương chén rượu nho chúc mừng
94 Đại Tác Cửu Thú Tư Quy
I Quan ngoại thu phong tống địch xuy Ban Siêu đầu bạch vị thành quy (1) Thập niên khứ quốc quân ân trọng Thiên lý ly gia lữ mộng trì Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi Lũng thiên tuế tuế qua điền thục (2) Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ
II Thiên Nhẫn Hoành Sơn nhất đái hà Bạch vân hồi thủ cách thiên nha Tân thu khí hậu thôi hàn chử Cố quốc quan sơn ký dạ già Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu Phong trần vạn lý quốc vong gia Nguyệt trung hoành địch thái vô lại Bán dạ Giang Thành xuy “Lạc Hoa” (3)
Làm Thay Người Đi Thú Lâu Năm, Nhớ Nhà
I Gió thu ngoài cửa ải đưa tiếng sáo đi xa, Ban Siêu bạc đầu mà chưa được về. Mười năm dâng mình cho nước vì ơn vua nặng, Xa nhà ngoài ngàn dặm, giấc mộng đất khách dài. Vinh hoa như mặc áo gấm đi đêm, chỉ là ảo mộng ngoài thân, Danh lợi như mây buổi sớm, đổi khác ngay trước mặt. Năm này qua năm khác ruộng dưa lại chín, Hết khổ đến sướng còn có ngày về.
II Hoành Sơn và Thiên Nhẫn cùng trên một dải sông, Ngoảnh nhìn mây trắng xa cách tận bên trời. Thu mới sang khí lạnh thúc dục người ta nên giặt vải may áo, Tình sông núi quê hương gửi vào tiếng kèn ban đêm. Một thân trong trời đất lấy trung đổi hiếu, Muôn dặm gió bụi, vì nước quên nhà. Cầm ngay chiếc sáo thổi dưới trăng, buồn thiu, Nửa đêm bên giang thành, thổi khúc “Hoa Mai Rụng”.
Chú thích: (1) Ban Siêu: Tướng đời Đông Hán, đời Hán Minh Đế đi sứ Tây Vực được phong Định Viễn Hầu, vì có công thu phục 50 nước, giữ chức Đô Hộ ở Tây Vực, khi về tính ra xa nhà đã 31 năm. (2) Qua điền thục: Ruộng dưa chín. Tả Truyện: Liên Xưng và Quản Chi Phủ đi thú đất Quỳ Khâu, khi đi là mùa dưa chín, hẹn đến mùa dưa chín năm sau sẽ được về. Đây nói: Năm nào cũng thấy dưa chín nhưng chưa được về. (3) Lạc Hoa: Tức Mai Hoa Lạc, tên một khúc địch do Lý Diên Niên đời Hán sáng tác, diễn tả nỗi sầu cảm nhớ quê hương của chinh phu, lữ khách.
Làm Thay Người Đi Thú Lâu Năm, Nhớ Nhà
I Gió thu quan ngoại sáo ngân Ban Siêu chưa được một lần về quê Mười năm đầu bạc nguyện thề Xa ngàn muôn dặm giấc ly hương buồn Vinh hoa áo gấm đêm trường Lợi danh mây sớm trên đường mau qua Năm nay năm tới dưa già Cam lai khổ tận về nhà có khi
II Hoành Sơn Thiên Nhẫn cùng bên Ngó sông mây trắng tận trên đỉnh trời Thu sang thu lạnh thu ngời Dục nhau nện vải cho người áo may Tình quê gửi tiếng kèn bay Một thân đổi chữ hiếu này thành trung Quên nhà vì nước muôn trùng Sáo nâng thổi dưới trăng trong điệu buồn Nửa đêm réo rắt bi thương Giang Thành “Hoa Rụng” sầu vương bốn bề
Nguyễn Du
BẮC HÀNH TẠP LỤC (1813 – 1814) Băng Đình Lược Dịch
95 Long Thành Cầm Giả Ca (Phụng sứ thời tác)
Tiểu Dẫn:
Long Thành cầm giả, bất tri tính thị. Văn kỳ ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kỳ nhân lưu lạc thị triền, hiệp kỹ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai Ngự tiền Cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kỹ. Dư thiếu thời, thám huynh đế kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kỳ bang Tây Sơn chư thần, đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kỳ nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường, phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo, xác thưởng dĩ đại bạch, triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy mãn địa. Dư thời nạc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân, khoát hiểm, ngạch đột, diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hý lăng hước, nhãn hoắc hoắc, khuôn trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi, bất tuất dã. Hậu sổ tải, dư tỷ gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược can niên hỹ. Kim xuân, tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành, chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kỳ nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kỳ trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy ư cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, nhất chi nhạc nhân, tức kỳ nhân dã. Ta hồ! thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thăng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kỳ khả lượng da! Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.
Long thành giai nhân Tính thị bất ký thanh Độc thiện Nguyễn cầm (1) Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến Giám hồ hồ biên dạ khai yến (2) Kỳ thời tam thất chính phương niên Hồng trang yểm ái đào hoa diện Đà nhan hám thái tối nghi nhân Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến Hoãn như sơ phong độ tùng lâm Thanh như song hạc minh tại âm Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch (3) Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm (4) Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện Tiện thị Trung Hòa đại nội âm (5) Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo Triệt dạ truy hoan bất tri bão Tả phao hữu trịch tranh triền đầu Nê thổ kim tiền thù thảo thảo Hào hoa ý khí lăng vương hầu Ngũ Lăng (6) thiếu niên bất túc đạo Tính tương tam thập lục cung xuân Hoạt tố Trường An vô giá bảo Thử tịch hồi đầu nhị thập niên Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên Chỉ xích Long Thành bất phục kiến Hà huống thành trung ca vũ diên Tuyên phủ (7) sứ quân vị dư trùng mãi tiếu Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu Tịch mạt nhất nhân phát bàn hoa Nhan sấu thần khô hình lược tiểu Lang tạ tàn mi bất sức trang Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự Giám hồ tịch trung tằng kiến chi Thành quách suy di nhân sự cải Kỷ xứ tang điền biến thương hải Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong Ca vũ không di nhất nhân tại Thuấn tức bách niên năng kỷ thì Thương tâm vãng sự lệ triêm y Nam Hà (8) quy lai đầu tận bạch Quái để giai nhân nhan sắc suy Song nhãn trùng trùng không tưởng tượng Khả liên đối diện bất tương tri
Long Thành Cầm Giả Ca
Người đẹp thành Thăng Long, Họ tên không được rõ. Riêng thạo ngón đàn Nguyễn Cầm Người trong thành lấy chữ “Cầm” gọi tên nàng Nàng học được khúc “Cung Phụng” trong cung vua triều trước. Đó là khúc nhạc hay nhất tưởng chừng như từ trên trời đưa xuống trần gian. Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp một lần, Bên hồ Giám trong một cuộc dạ yến Lúc ấy nàng còn trẻ, tuổi chừng hai mốt, Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào. Má hồng men rượu, dáng ngây thơ, rất đáng yêu, Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu. Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông, Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc đêm khuya. Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc, Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau. Người nghe mê mệt không biết mỏi, Đó là khúc nhạc trong đại điện Trung Hòa .Các quan Tây Sơn trong tiệc thẩy đều nghiêng ngả, Suốt đêm vui chơi không biết chán. Phía tả phía hữu đua nhau ném thưởng, Tiền bạc coi rẻ như đất bùn. Ý khí hào hoa của họ lấn lướt cả bậc vương hầu, Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng chi sá kể! Tưởng đem ba mươi sáu cung xuân, Tạo thành một vật báu vô giá của kinh đô Trường An. Tiệc ấy nhớ lại đến nay đã hai mươi năm, Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi dời vào Nam. Long Thành trong gang tấc, không được thấy lại, Huống gì tiệc múa hát ở trong thành. Quan Tuyên Phủ vì tôi lại bầy cuộc mua vui, Trong tiệc các cô đào hát thẩy đều trẻ. Riêng ở cuối chiếu có một người tóc đã hoa râm, Nét mặt võ vàng thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ, Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm. Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa. Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi Tôi lắng nghe, lòng đau xót Chợt nhớ lại chuyện hai mươi năm trước, Từng gặp nàng trong tiệc bên hồ Giám. Thành quách đổi dời, việc người đã khác, Biết bao nơi ruộng dâu đã biến thành biển xanh. Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi, Chỉ còn sót lại một người ca múa! Trăm năm như chớp mắt có là bao, Đau lòng việc cũ lệ thấm áo. Tôi từ Nam Hà trở về đầu bạc trắng hết, Chẳng trách nhan sắc người đẹp tàn phai. Đôi mắt mở trừng trừng luống tưởng chuyện ngày xưa, Thương thay giáp mặt mà chẳng nhận ra nhau!
Chú thích: (1) Nguyễn cầm: Cây đàn nguyệt. Đàn này do Nguyễn Hàm đời Tấn chế, nên gọi Nguyễn cầm. (2) Nguyễn Du viết bài này năm 1813 và cho biết tiệc bên hồ Giám ( hồ trước nhà Giám , Văn Miếu, Hà Nội) hai mươi năm về trước, 1793. Năm ấy Nguyễn Du đến thăm anh là Nguyễn Đề lúc ấy làm quan với Tây Sơn. (3) Tiến Phúc Bi: Bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu tỉnh Giang Tây, chữ đẹp nổi tiếng. Đời Tống, Phạm Trọng Yêm làm Thứ Sử Nhiêu Châu, một hôm có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho dập một ngàn bản văn bia bán lấy tiền. Chưa dập xong thì một đêm kia bia bị sét đánh vỡ. (4) Trang Tích: Xem chú thích ở bài My Trung Mạn Hứng, tập Thanh Hiên. (5) Trung Hòa: Điện của Triều Lê ở Thăng Long. (6) Ngũ Lăng: Nơi có năm lăng tẩm đế vương đời Hán tại Trường An, nơi bọn quý tộc cư ngụ. Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu “Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu” (Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau gieo thưởng). (7) Nha Tuyên Phủ: Tức Dinh Tổng Trấn Bắc Thành thời Nguyễn. (8) Nam Hà: Phía nam sông Gianh.
Bài Ca Người Gẩy Đàn Ở Thành Thăng Long (Làm Trên Đường Đi Sứ).
Tiểu dẫn: Người gẩy đàn ấy không rõ tên họ là gì, chỉ nghe thủa nhỏ nàng đã theo học đàn Nguyễn trong bộ nữ nhạc cung vua Lê. Tây Sơn dấy binh, đội nhạc cũ chết chóc, tản mác. Nàng lưu lạc nơi đầu chợ, ôm đàn hát rong. Những bài nàng đàn đều là những khúc gẩy hầu nhà vua, người ngoài không ai được nghe, cho nên nàng được khen là “tuyệt kỹ” của một thời. Tôi, hồi trẻ đến kinh đô thăm anh tôi, đêm trọ ở quán bên hồ Giám. Cạnh đấy các quan Tây Sơn tụ hội bọn con hát; con hát nổi tiếng không dưới vài chục người. Nàng riêng thạo đàn Nguyễn, hát cũng hay, lại khéo pha trò. Người xem đều mê mẩn, nhiều lần thưởng cho nàng những chén rượu lớn, nàng tức thì uống cạn, tiền lụa thưởng nhiều vô số kể, chất đầy mặt đất. Tôi lúc ấy nấp trong bóng tối, không trông rõ lắm. Sau gặp nàng ở nhà anh tôi. Nàng không đẹp lắm, người thấp, má phính, trán dô, mặt gẫy, người đẫy đà, khéo trang điểm, mày nhạt phấn đậm, áo màu hồng, quần lụa đen biếc, phong nhã tươi tắn. Nàng hay uống rượu, thích hài hước, mắt long lanh, chẳng hề để ý đến một ai. Ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu đều say, nôn mửa cả ra, nằm dài trên đất, bạn bè cũng không để tâm chê trách. Sau đó vài năm tôi dời vào Nam, và từ đó không trở lại Thăng Long nữa. Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ phương Bắc, trên đường qua Thăng Long, các quan có đặt tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ nên cho gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát trẻ đến mấy chục người, tôi đều không biết mặt biết tên. Họ thay nhau ca múa. Rồi nghe vút lên khúc đàn Cầm trong trẻo, nghe khác hẳn các khúc nhạc đương thời. Tôi lấy làm lạ nhìn người đàn, thì thấy người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, xấu như quỷ, quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ ở cuối chiếu, không nói không cười, hình dáng khó coi quá. Tôi không biết là ai, duy nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi đến người chơi đàn thì ra chính người gẩy đàn ngày xưa ấy. Than ôi! người ấy sao đến nỗi này! Tôi bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, khôn xiết cảm thương cho sự đổi thay xưa và nay. Đời người trăm năm, vinh nhục buồn vui khó có thể nào lường được. Sau khi từ biệt, suốt trên đường đi tôi cảm xúc vô hạn nên làm bài ca để gửi mối cảm hứng.
(Theo Mai Quốc Liên, Nguyễn Du toàn tập)
Cố Nhân
Em kiều mị đào tơ sen ngó Khắp Long Thành ai rõ tên em Phím đàn dìu dặt tay tiên Tiếng đàn thay tiếng gọi riêng nàng Cầm Triều xưa lảnh lót huyền âm Cung xưa Phượng Khúc nhập tâm những ngày Ngón đàn đệ nhất nhường ai Lòng ta nhớ thủa trẻ trai năm nào Giám hồ dạ tiệc đêm nao Tuổi em mơn mởn hoa đào hoa lê Má hồng men rượu đê mê Năm cung một biến tràn trề đầu tay Tiếng khoan gió thoảng rừng cây Tiếng trong cánh hạc vương đầy quãng đêm Tiếng ầm sét đánh bia nghiêng Tiếng thương giọng Việt rỉ rên tuổi già Càng nghe càng quẩn đường hoa Dẫn về cõi nhạc Trung Hòa điện xưa Tây Sơn thực khách tửu đồ Nghiêng say suốt sáng chưa vừa cuộc vui Đua nhau ngọc chiếc vàng đôi Bạc tiền rẻ rúng đất trời vãi vung Hào hoa vượt bực vương tôn Ngũ Lăng chàng trẻ thôi còn kể chi Cung xuân ăm ắp xuân thì Kết tinh báu vật dâng về Trường An Tiệc tàn kể hai mươi năm Tây Sơn nghiệp tận miền Nam ta vào Long Thành hun hút chiêm bao Huống chi dạ vũ độ nào hoa hương Phủ Tuyên hoan tống lên đường Tiễn nhau tiệc rượu Bắc Phương sứ trình Ca nhi muôn vẻ đẹp xinh Tóc sương ai đó một mình chiếu xa Võ vàng gầy guộc phôi pha Mày thô má kệch nhạt nhòa phấn son Đâu ngờ một thủa hoa thơm Cố đô đệ nhất tay đờn cung vua Khúc xưa điệu mới lệ mưa Tai nghe lòng tưởng lòng như muối chà Hai mươi năm thoảng trôi qua Giám hồ tiệc cũ đôi ta tuổi hồng Thành đô thế cuộc mịt mùng Nương dâu phút chốc chập chùng biển xanh Tây Sơn cơ nghiệp tan tành Còn trơ lại một tài danh về chiều Trăm năm chớp mắt bao nhiêu Càng đau chuyện cũ càng nhiều lệ rơi Biệt phương Nam tóc bạc rồi Trách chi nhan sắc em tôi héo tàn Mắt trừng dõi mộng vừa tan Thương ôi người cũ tấc gang lạ lùng
96 Thăng Long (1)
I Tản Lĩnh Lô Giang (2) tuế tuế đồng Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long Thiên niên cự thất thành quan đạo Nhất phiến tân thành (3) một cố cung Tương thức mỹ nhân khan bão tử Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung
II Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành Do thị Thăng Long cựu đế kinh Cù hạng tứ khai mê cựu tích Quản huyền nhất biến tạp tân thanh Thiên niên phú quý cung tranh đoạt Tảo tuế thân bằng bán tử sinh Thế sự phù trầm hưu thán tức Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh
Thăng Long
I Núi Tản sông Lô hằng năm vẫn thế, Đầu bạc rồi còn được thấy Thăng Long. Những ngôi nhà lớn nghìn xưa nay thành đường cái quan, Một tòa thành mới xóa đi cung điện cũ. Những cô gái xinh đẹp mà ta quen biết trước kia nay đã thành những bà mẹ ẵm con, Những bạn trẻ hào hiệp cùng chơi với nhau nay đã thành bố cả rồi. Suốt đêm bận lòng khổ tâm không ngủ được, Tiếng sáo vẳng từng hồi trong ánh trăng sáng.
II Mảnh trăng sáng ngày xưa chiếu xuống tòa thành mới, Đây vẫn còn là Thăng Long kinh đô cũ Đường phố mở khắp bốn bề làm lạc dấu vết cũ, Tiếng đàn sáo nhất loạt thay đổi chen vào những âm điệu mới. Giàu sang tự nghìn xưa chỉ để cung cấp cho sự tranh đoạt, Bà con bạn bè thời trẻ nay kẻ mất người còn. Việc đời nổi chìm, thôi đừng than thở, Chính mình đầu cũng đã bạc lốm đốm
Chú thích: (1) Bài này làm trên đường đi sứ qua Thăng Long 1813 nên xếp vào Bắc Hành. Nguyễn Du cũng chỉ xa Thăng Long khoảng mười năm, nhưng ông thấy dường như tất cả đều đã biến đổi, tất cả đều tàn lụi và buồn. Chỉ có một niềm vui chua chát:”Bạc đầu còn được thấy Thăng Long”. (2) Tản Lĩnh: Núi Tản Viên. Lô Giang: Sông Lô. Vào thời Lý Trần, sông Lô chỉ khúc sông Hồng. (3) Tân thành: Thành mới. Gia Long năm thứ tư (1805) hạ lệnh phá thành Thăng Long cũ để xây một thành mới nhỏ hơn.
Thăng Long
I Bạc đầu trở lại Thăng Long Ngàn năm núi Tản soi dòng sông Lô Cung Vua phủ Chúa ngày xưa Thành cao lộ thẳng bây giờ đổi thay Nàng thơ ẵm trẻ trên tay Bạn thơ con cái đông đầy trước sau Đêm dài thao thức đớn đau Sáo khuya réo rắt cung sầu thổi trăng
II Bâng khuâng cổ nguyệt tân thành Còn soi muôn thủa bóng hình cố đô Khuất chìm lối cũ đường xưa Nhạc thiều trầm bổng tiếng mùa biển dâu Giầu sang đua trước tranh sau Thân bằng quá nửa kéo nhau lìa đời Nín đi thân phận con người Mái đầu sương sớm nhuộm rồi còn chi
97 Ngô Gia Đệ Cựu Ca Cơ (1)
Phồn hoa nhân vật loạn lai phi Huyền hạc (2) quy lai kỷ cá tri Hồng tụ (3) tằng văn ca uyển chuyển Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly Phúc bồn dĩ hĩ nan thu thủy Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử Khả liên do trước khứ thời y
Gặp Nàng Hầu Cũ Của Em
Nhân vật phồn hoa từ khi loạn lạc đã khác trước, Chim hạc đen về chốn xưa mấy người biết. Đã từng nghe giọng ca uyển chuyển khi nàng mặc áo hồng, Đầu bạc gặp nhau khóc nỗi lưu ly. Thôi rồi, chậu nước đã đổ, khó mà thu lại được, Thương ôi, ngó sen tuy gẫy, nhưng tơ vẫn chưa dứt. Nghe nói nàng lấy người khác đã có ba con, Đáng ái ngại là vẫn còn mặc chiếc áo ngày ra đi.
Chú thích: (1) Nguyễn Du có một người em cùng mẹ là Nguyễn Ức (1767 – 1823), được tập ấm chức Hoàng Tín Đại Phu Trung Thành Môn Vệ Úy. Năm Kỷ Dậu (1789) Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, ông về ở quê vợ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1811 dưới triều Gia Long được bổ Thiêm Sự bộ Công, tước hầu. Năm 1822 (Minh Mệnh) được bổ Giám Đốc coi việc ở Nội Tào Phủ, phàm các miếu điện xây ở kinh thành đều do ông thiết kế. Sau ông mất ở quê vợ năm 1823, thọ 57 tuổi. (2) Huyền hạc: Hạc đen. Hạc sống 1000 tuổi, lông đổi sắc xanh; 2000 tuổi đổi sắc đen gọi là huyền hạc. Điển Đinh Linh Uy hóa làm chim hạc, đỗ trên cột hoa biểu than: “Có con chim tên là Đinh Linh Uy, đã ba ngàn năm mới trở về”. Ý câu thơ nói: Mình như con chim hạc đen xa Thăng Long lâu, nay mới trở lại. (3) Hồng tụ: Tay áo mầu hồng, chỉ áo đào nương thường mặc.
Gặp Em Dâu Cũ
Khách phồn hoa thủa loạn ly Ngó phong cách quả khác đi ít nhiều Hạc xưa về lại trời yêu Hạc tìm chốn cũ chẳng nhiều người hay Từng nghe giọng mật ngọt này Lời ca uyên ảo rộng tay áo hồng Bạc đầu ta lại trùng phùng Khóc cho nhau nỗi đường cùng thảm thê Thôi rồi chén nước đổ đi Gom sao lại được thôi thì đành thôi Ngó sen lìa ngó sen rồi Mà tơ vương vấn ngậm ngùi vấn vương Theo chồng nay đã ba con Ngày đi mầu áo lên đường chưa phai
98 Giáp Thành (1) Mã Phục Ba Miếu
Lục thập lão nhân cân lực suy Cứ an bị giáp tật như phi (2) Điện đình chỉ bác quân vương tiếu (3) Hương lý ninh tri huynh đệ bi (4) Đồng trụ cận năng khi Việt Nữ (5) Châu xa tất cánh lụy gia nhi (6) Tính danh hợp thướng Vân Đài họa (7) Do hướng Nam trung sách tuế thì (8)
Miếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp Thành
Người già sáu mươi tuổi thì gân sức suy, Mà ông mặc áo giáp nhẩy lên yên nhanh như bay. Chỉ chuốc được nụ cười nhà vua ở sân điện, Đâu biết nỗi buồn của anh em ở xóm làng. Cột đồng trụ chỉ có thể lừa đàn bà đất Việt, Xe ngọc châu rốt cuộc làm lụy con cái trong nhà. Họ tên chỉ đáng được ghi ở gác Vân Đài, Sao còn ngoảnh về nước Nam đòi hỏi việc cúng tế hàng năm?
Chú thích: (1) Giáp thành: Thành Kép, chỉ thành lũy ở khoảng Giáp Đông thuộc châu Lạng Giang ở phía nam ải Chi Lăng. Địa điểm quân sự quan trọng ở miền này phải là ở khoảng Kép ngày nay. Kép, Giáp và Giáp là phe giáp là đồng âm. Nếu ở đây có đền thờ Mã Viện (Phục Ba tướng quân) thì là do người đời sau tưởng lầm rằng Mã Viện đã tiến quân theo đường Lạng Sơn. (2) Mã Viện đã ngoài 60 tuổi, mà còn xin đi đánh dẹp ở Man Động Ngũ Khê tỉnh Hồ Nam. (3) Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhẩy ngựa tỏ mình còn khỏe. Vua cười khen: “Quắc thước tai thị ông!” (Ông này quắc thước lắm!). (4) Em họ của Mã Viện là Thiếu Du đã từng nói với ông ta rằng:”Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, làm người tốt trong làng mà giữ mồ mả vườn tược, không cần phải vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân, ngoài cơm áo ra là thừa cả. (5) Truyền thuyết nói rằng Mã Viện dẹp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thì dựng cột đồng để đánh dấu cương giới và ghi rằng nếu cột đồng này gẫy thì Giao Chỉ sẽ diệt vong. (6) Mã Viện ở Giao Chỉ hay ăn hạt ý dĩ (bo bo) để chống chướng khí, khi trở về nước có chở về một xe ý dĩ để dùng. Người ta đồn đó là hạt trai (châu) ở phương Nam. Sau khi Mã Viện chết có người tố cáo là Viện đã chở về nhà một xe hạt trai. Vua Hán nổi giận. Vợ con Viện phải chôn cất ông ở phía tây thành chỗ Mã Viện đang đóng quân ở Hồ Nam, không dám đem xác về. (7) Hán Quang Vũ cho vẽ hình 28 công thần ở Vân Đài, Vì Mã Viện có con gái làm Hoàng Hậu nên vua không cho vẽ tượng Mã Viện Để tránh tiếng. (8) Sau khi Mã Viện chết, bọn quan lại Trung Quốc cai trị nước ta bắt nhân dân ta lập đền thờ hắn nhiều nơi. Câu này chỉ Mã Viện chết rồi mà còn muốn bòn cúng tế của nhân dân phuơng Nam.
Miếu Mã Viện Ở Giáp Thành
Sáu mươi thể lực suy rồi Lên yên mặc giáp vút trời tên bay Vua cười quắc thước kém ai Xót em quê cũ đêm ngày nhớ thương Cột đồng lòe gái Nam Phương Hạt trai để lụy cho phường hậu sinh Đài Mây đáng mặt vẽ hình Sao đòi dân Việt cúng mình xuân thu
99 Quỷ Môn Quan (1)
Liên phong cao sáp nhập thanh vân Nam Bắc quan đầu tựu thử phân Như thử hữu danh sinh tử địa Khả liên vô số khứ lai nhân Tắc đồ tùng mãng tang xà hổ Bố dã yên lam tụ quỷ thần Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt Kỳ công hà thủ Hán Tướng Quân (2)
Ải Quỷ Môn
Núi liền nhau đỉnh cao vút tận mây xanh, Đầu cửa ải này là nơi phân ranh giới Nam Bắc. Nơi đây có tiếng là đất hiểm nguy, Đáng thương cho vô số người đã từng qua lại. Bụi rậm lấp đường, rắn cọp ẩn nấp, Khí lam chướng đầy đồng, quỷ thần tụ tập. Suốt từ xưa nay gió lạnh thổi vào xương trắng, Tướng nhà Hán lấy gì để được tiếng kỳ công?
Chú thích: (1) Quỷ Môn Quan: Ải thuộc tỉnh Lạng Sơn. Xem thêm chú thích ở bài Quỷ Môn Đạo Trung, Thanh Hiên thi tập. (2) Hán Tướng Quân: Chỉ Mã Viện. Xưa nay, theo sử sách Trung Quốc, chiến công của Mã Viện đánh Giao Chỉ là “Kỳ công”. Nhưng Nguyễn Du cho rằng rốt lại chỉ còn có “Gió lạnh thổi vào xương trắng” nơi chiến trường xưa, thì có gì là “Kỳ công”.
Quỷ Môn Quan
Núi liền núi ngọn tiếp mây Bắc nam cương giới là đây ải đầu Tiếng đồn hiểm địa từ lâu Đáng thương bao kẻ dãi dầu vãng lai Lấp đường bờ bụi chông gai Cọp beo rắn rết nhắc ai coi chừng Lam sơn chướng khí đầy đồng Quỷ thần tụ tập mịt mùng suối khe Xương khô gió lạnh thổi về Thưa rằng Hán Tướng công kỳ nơi nao
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.