Jan 31, 2025

Thơ dịch

Đọc lại Thơ Đỗ Phủ
Nguyễn Khôi * đăng lúc 09:27:14 PM, Jul 06, 2010 * Số lần xem: 2650
Hình ảnh
Cù Đường hiệp
#1



Đỗ Phủ sinh năm 712; năm 30 tuổi đi thi Hương không đỗ Cử Nhân.Năm 40 tuổi nhân dịp Đường Minh Hoàng đi Tế Giao,Đỗ Phủ được gặp dâng Nhà Vua bài " phú Tam Đại Lễ" được Vua khen là "tài Lạ ",vời vào thi văn chương rồi bổ làm "Thị chế Viện Tập hiền" ...Đương thời trong 1 thời gian dài, Đỗ Phủ khá bị lạnh nhạt,thơ ông ta cơ hồ không được người ta chấp nhận.Ông sống 1 đời trong loạn lạc,lận đận,chết trong đói nghèo không ai quan tâm -chết ở tuổi 59.Qua nửa thế kỷ,đến niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường Hiến Tông (806-820) mới có Nhà Thơ Nguyên Chẩn ( bạn của thi hào Bạch Cư Dị ) làm Tiết độ sứ Vũ Xuyên đứng ra bảo vệ thơ Đỗ Phủ ,đã làm bài văn khắc vào bia mộ Đỗ Phủ cho rằng thơ Đỗ Phủ xa hơn thơ Lý Bạch,viết " Tới như Tử Mỹ,trên vượt Phong- Tao,dưới hơn Thẩm-Tống ,lời lấn Tô-Lý,khí nuốt Tào-Lưu,,che Nhan-Tạ mà cô cao,hợp Từ-Dữu mà đệp đẽ,được hết thể thế trong cổ kim mà gồm cả sở trường của mọi kẻ...Thi nhân xưa nay chưa có ai được như Tử Mỹ ". Thi văn của Đỗ Phủ để lại cho Đời sau thu thập được 1405 bài. NK xin giới thiệu 2 bài mà bạn đọc còn ít người biết :


众水会涪万,瞿塘争一门。
朝宗人共挹,盗贼尔谁尊。
孤石隐如马,高萝垂饮猿。
归心异波浪,何事即飞翻。
浩浩终不息,乃知东极临。
众流归海意,万国奉君心。
色借潇湘阔,声驱滟滪深。
未辞添雾雨,接上遇衣襟。


TRƯỜNG GIANG- nhị thủ

*-Kỳ nhất

Chúng thủy hội Phù Vạn
Cù Đường tranh nhất môn
Triêu(triều) tông nhân cộng ấp
Đạo tặc nhĩ trùng tôn

Cô thạch ẩn như mã
Cao La thùy ẩm Viên
Quy tâm dị ba lãng
hà sự tức phi phiên.

*-Kỳ nhị

Hạo hạo chung bất tức
Nãi tri đông cực lâm
Chúng lưu quy hải ý
Vạn Quốc phụng Quân tâm

Sắc tá Tiêu Tưong khoát
Thanh khu Diệm Dự thâm
Vị từ thiêm vụ vũ
Tiếp thượng quá y khâm.

Chú thích :
-Cù Đường còn gọi "Quy môn" là 1 "hiệp" (hẻm sông chảy giưã 2 núi ).trên sông Trường Giang có Tam Giáp-Tam Hiệp là : Vu, Cù Đường,Tây Lăng, trong đó Cù Đường hiệp chảy từ Thành Bạch Đế đến Phụng Tiết dài 8 cây số,có chỗ hẹp100 mét,bờ đá cao vút 500-700 mét rất hiểm trở...Thơ Lý Bạch,trong bài " Trường Can hành " có câu :
Cù Đường ,Diệm Dự đôi
ngũ nguyệt bất khả xúc

Đỗ Phủ cũng đã viết về Cù Đương Hiệp như sau :

Cù Đường giáp khẩu Khúc Giang đầu
Vạn lý phong yên tiếp tô thu...

-câu 5 :phiến đá cô độc như con ngựa ẩn mình ( trong nước )
-câu 6 :Nữ la (dây leo) cao rủ xuống như con Vượn thả mình từ trên cây cao xuống uông nước.

Tạm dịch :

TRƯỜNG GIANG
( Sông Dương Tử )- 2 bài

*-bài thứ nhất :

Bao dòng về Phù Vạn
tranh ra cửa Cù Đường
Trung thần lui ẩn nhẫn
"Tặc" nào đáng biểu dương ?

Đá lẻ như ngựa lẩn
Dây leo bóng Vượn xao
Nhớ Quê cồn cào sóng
Cớ gì rượt lên cao ?

*- Bài thứ hai

Mênh mông tuôn cuồn cuộn
biết hướng chảy về đông
muôn dòng đều ra biển
Vạn Quốc chầu Thánh Quân

Ngỡ Tiêu Tương cảnh đẹp
Vang Diệm Dự thẳm xanh
Chợt mưa giăng mù mịt
thấm vạt áo ướt đầm.

Nguyễn Khôi - ( dịch) tại Nam Kinh 6-2006
Thơ Đỗ Phủ chữ nghĩa tinh luyện,lời lẽ hàm xúc,mượn cảnh tả tình (gửi gắm nội tâm 1 cách kín đáo ) nên khó dịch 1 chút...Xin mời các Thi hữu thử bút dịch tiếp để có một bản dịch hoàn hảo .

Góc thành Nam -Hà Nội 6-7-2010
Nguyễn Khôi

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
Đây là phần trích dẫn tại Wiki về Tam Hiệp:
Hue Thu Jul 06, 2010
(huệthu sưu tầm)

"Tam Hiệp (tiếng Trung: 三峡, với nghĩa tam là 3, hiệp/hạp là khe, hẻm núi) bao gồm 3 khe sông là: Cù Đường hiệp (瞿塘峡), Vu hiệp (巫峡), Tây Lăng hiệp (西陵峡). Chúng là một phần với phong cảnh đẹp và hùng vĩ của sông Dương Tử, được tạo lên bởi sự hợp lưu của hai con sông Dương Tử và Gia Lăng tại Trùng Khánh kéo dài đến thành phố Nghi Xương (宜昌) tỉnh Hồ Bắc, dài tổng cộng 204 km, trong đó ba hiệp này chiếm khoảng 120 km. Người Trung Quốc khi nói về Tam Hiệp có câu "瞿塘雄, 巫峡秀, 西陵奇" (Cù Đường hùng, Vu hiệp tú, Tây Lăng kì)

Cù Đường hiệp: bắt đầu từ Bạch Đế thành thuộc huyện Phụng Tiết tới Đại Tây?. Cù Đường là khe hẹp nhất và cũng là hùng vĩ nhất, có nơi sông chỉ rộng 100 m. Hai bờ núi đá có độ cao khoảng 500-700 m tạo ra cho người đi trên sông trong hẻm núi một cảnh tượng vô song của thiên nhiên hùng vĩ. Trong ba hiệp thì Cù Đường ngắn nhất, chỉ dài chừng 8km,
Vu hiệp: dài 46 km, chảy dưới chân núi Vu Sơn, từ huyện Vu Sơn tới Ba Đông, là nơi giáp ranh giữa Tứ Xuyên và Hồ Bắc.
Tây Lăng hiệp: dài 66 km, là khe dài nhất trong cả ba, bắt đầu từ Tỉ Qui và kết thúc tại Nghi Xương. Khe này có nhiều đá ngầm, nước xoáy và là hiệp nguy hiểm nhất. Đập Tam Hiệp được xây dựng tại Tam Đấu Bình, đoạn ở giữa của Tây Lăng hiệp, và công việc xây dựng đã hoàn thành vào ngày 20 tháng 5 năm 2006.

Còn đây là một đoạn viết về Trường Giang Tam Hiệp của Nhà văn Nguyễn Tường Bách

TRƯỜNG GIANG TAM HIỆP

Trung Quốc có bốn biểu tượng lớn, đó là Hoàng Hà, Trường Giang, Hoàng sơn và Vạn Lý trường thành. Hoàng Hà và Trường Giang có cùng một quê hương là cao nguyên Tây Tạng, đó là suối nguồn của nhiều con sông lớn khác của châu Á, trong đó có sông Cửu Long của chúng ta. Giữa Trường Giang và Hoàng Hà thì Trường Giang có lẽ quan trọng hơn trong đời sống kinh tế và xã hội, lịch sử và văn hóa của Trung Quốc.
Trường Giang (Changjiang) cũng còn có tên là Dương Tử Giang với 6600km là con sông dài nhất châu Á, đứng hàng thứ ba (36) trên thế giới, chảy qua tám tỉnh của Trung Quốc, chia sơn hà xứ này ra hai miền nam bắc. Trường Giang quá rộng nên ngày xưa không có cầu nào bắc qua nổi, người ta chỉ đi bằng thuyền. Người vượt Dương Tử nổi tiếng nhất có lẽ là Bồ-đề Đạt-ma, ông qua sông bằng một chiếc lá con, đi từ Nam Kinh lên núi Thiếu Lâm tại Tung sơn, sau khi truyền ý chỉ cho Lương Vũ Đế không thành. Đó là thế kỷ thứ năm. Ngày nay tại Nam Kinh, Vũ Hán và Trùng Khánh đã có cầu bắc ngang sông.

Bắt nguồn từ một độ cao 5600m, vượt qua bao thác ghềnh núi non để chảy ra biển ở Thượng Hải, sông Trường Giang dẫn nước luồn lách đi qua bao nhiêu miền linh địa kỳ dị, là kẻ chứng kiến biết bao điều đã nằm trong bóng tối của lịch sử, là nguồn cảm khái vô tận của các thi hào. Từ Trường Giang sinh ra khoảng 700 con sông con mà tới nhìn tận mắt tôi mới hay chúng chẳng nhỏ bé chút nào. Những sông hồ đó cũng rất nổi tiếng như sông Mịch La của Khuất Nguyên, Tiền Đường của nàng Kiều, Động Đình Hồ của Lý Bạch.

Sông Trường Giang cũng là chứng nhân của các cuộc chiến đấu trong lịch sử đầy nội chiến và ngoại xâm của Trung Quốc, từ thời Tam Quốc xa xưa đến thời cận đại này. Con sông này với lưu lượng khủng khiếp đã hòa máu của bao người trong dòng chảy của nó, nó đã ghi hình ảnh đầy gió và lửa tại Xích Bích của đầu công nguyên này và với việc Trung Quốc dời đô về Trùng Khánh trên, Trường Giang không quên một nước Trung Quốc suy nhược bị Nhật chiếm cứ và xâu xé.

Thế nhưng vượt lên tất cả những uẩn khúc của lịch sử là phong cảnh lạ lùng của Trường Giang vì dòng chảy từ tây sang đông của nó đã dẫn dòng sông uốn lượn dưới những hẻm núi hiểm trở với những vách đá hầu như dựng đứng tới mây. Đó là những vùng núi non trùng điệp của Vu sơn mà Trường Giang đã tìm đường len lỏi dưới những hẻm sâu. Những đoạn sông nằm giữa hai vách núi dựng đứng được gọi là "hiệp" và từ đó mà sinh ra "Trường Giang tam hiệp", ba hẻm sông nổi tiếng xưa nay đã thu hút hàng thế hệ đến viếng và ngày nay trên thế giới nó đã thành một điểm tụ hội của du khách, chỉ đứng sau Vạn Lý trường thành. Đi qua tam hiệp này cũng là sống lại một thời lịch sử của Trung Quốc, cũng là nơi đọc lại vài trang huyền sử và nhiều bài thơ tuyệt diệu của các thi hào bất tử.

Muốn ngắm Trường Giang tam hiệp ta không có nào khác hơn là đi tàu dọc đường thủy, đó là khoảng giữa Phong Đô và Nghi Xương, đoạn sông dài khoảng 200km. Thế nhưng tôi lên tàu từ Trùng Khánh và về đến Kinh Châu, đoạn dài hơn 500km để được ngắm Trường Giang nhiều hơn và nhớ một thời của Tam Quốc Chí. Đây là con sông hiểm yếu của nước Thục, cả Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi đều chết trên bờ sông này cách đây 18 thế kỷ.

Dương Tử Giang ! Con sông ghi dấu trong tôi từ thời thơ ấu là đây. Sông rộng mênh mông, hai bờ xa lắc. Nước sông chảy không mạnh như tôi tưởng, về sau tôi biết ở hạ lưu có đê đập để điều hòa dòng chảy. Màu nước đục ngầu, nước đặc quánh phù sa, nhìn như nước sông Cửu Long. Thế nhưng nếu sông Cửu Long đầy lục bình thì ở đây không có bèo củi trôi sông, chỉ nước và nước. Dọc dòng sông này là vô số chuyện cổ tích.

Trùng Khánh là nơi hợp lưu của hai sông Dương Tử và Gia Lăng, là cảng sông quan trọng, có một lịch sử khoảng 3000 năm. Xung quanh Trùng Khánh ngày xưa có địa danh là Quỳ Châu, nơi Khổng Minh xếp đá lập Bát trận đồ, lạc vào đó thì khỏi ra. Lục Tốn, tướng nhà Ngô cũng chẳng ra được, may nhờ có nhạc phụ của Khổng Minh chỉ đường mới thoát. Ra khỏi Trùng Khánh khoảng hơn 100km ta đến Phong đô, ở đó có một ngôi đền được mệnh danh là "Quỉ thành phong đô" nằm ở bờ bắc sông Dương Tử, được xây cách đây 2000 năm. Tới đây ta sẽ thấy cầu Nại Hà, Quỉ môn quan, Aâm tào địa phủ. Thần thoại Trung Quốc cho rằng hồn phách con người sẽ đến đây sau khi chết, đi qua cầu và tái sinh lại làm người. Sau Quỉ môn quan khoảng 100km, trên bờ bắc ta sẽ đến Thạch bảo trại. Đây là một kiến trúc được xây trong thời Vạn Lịch nhà Minh, cách đây khoảng 400 năm. Bảo trại là một đền 12 tầng xây trên núi đá, cao 56m, thờ Phật. Nơi đây từ trong một lỗ đá có gạo chảy ra liên tục để nuôi tăng ni. Từ đó mà đền được mang tên "bảo trại". Thế nhưng do tăng ni tìm cách đục đẽo cho lỗ đá rộng ra hầu có thêm gạo, từ đó gạo hết chảy !

Trên bờ nam sông Dương Tử ta sớm đến đền thờ Trương Phi. Đây là nơi vị đại tướng mặt đen bị ám hại năm 220. Đền của ông được xây vào đời Tống (960-1127), nằm trong rừng núi xanh tươi với vô số tranh tượng và bia đá. Xuôi dòng Dương Tử cách đó không đầy 80km nằm trên bờ bắc là Bạch Đế thành, như ta đã biết, là nơi Lưu Bị từ trần hai năm sau khi Trương Phi chết. Đó là chỗ Lưu Bị rút về chốn an toàn của nước Thục sau khi đánh Ngô thất bại. Vì thế xuôi dòng từ Dương Tử về phía đông, thành Bạch Đế là cửa ngõ bước vào khu vực hiểm yếu của sông, vào "hiệp" thứ nhất, Cù Đường hiệp. Cù Đường hiệp là hiệp hẹp nhất và cũng là đẹp nhật, có nơi sông chỉ rộng 100m. Hai bờ núi đá có độ cao khoảng 500-700m tạo người đi trên sông trong hẻm núi một cảnh tượng vô song của thiên nhiên hùng vĩ. Trong ba hiệp thì hiệp Cù Đường ngắn nhất, chỉ dài chừng 8km, nhưng để lại ấn tượng to lớn nhất. Đỗ Phủ viết về Cù Đường hiệp:

Cù Đường giáp khẩu khúc giang đầu,
Vạn lý phong yên tiếp tố thu
(Cửa Cù Đường ở đầu sông Khúc,
Khói và gió thu liên tiếp muôn dặm)

Sau Cù Đường Hiệp, sông Dương Tử đi vào địa phận của Vu sơn. Vu sơn là một miền núi non mênh mông với 12 đỉnh núi quanh năm mây mù. Chảy dưới chân Vu sơn là Vu Hiệp, dài 46km. Đi trong hẻm núi này khách rời địa phận Tứ Xuyên để qua tỉnh Hồ Bắc. Trong cảnh mây mưa của Vu sơn đó có một chỏm đá cao 7m, đứng mãi với trời đất từ 2000 năm nay. Đó là đỉnh Thần nữ phong. Ngày nọ cáh đây cả hai ngàn năm, vua nước Sở lên Vu sơn để tìm phương án trị thủy vì con sông Dương Tử tâm tư bất thường, thường hay nổi giận dâng nước phá hoại mùa màng. Trên đỉnh Vu sơn đó có một nàng con gái đến với vua, không ai xa lạ, nàng là con gái của Tây Vương Mẫu. "Thiếp ở phía nam Vu sơn, trên đá Cao Khâu, buổi sớm làm mây, buổi chiều làm mưa, sớm sớm chiều chiều ở chân núi Dương Đài". Tại Cao Đường trên Vu sơn, nàng chỉ cho vua cách trị thủy và hơn thế nữa, tặng vua nhiều đêm chăn gối. Ngày nay Cao Đường còn đền thờ Thần nữ nhưng nay đã tàn phế. Đi tàu dưới sông, tôi thấy được hình dáng nàng trên cao, nhỏ như ngón tay út, lòng nhớ đến cuộc tình của nàng Lý ngư. Đi thêm một đoạn, tại Vu Hiệp này ta thấy một bia đá tương truyền do Khổng Minh tự tay viết, nét chữ vô cùng mạnh mẽ.
Sau đó, tại một nơi trong Vu Hiệp này có người quả quyết với tôi đây là chỗ trận Xích Bích đã diễn ra. Xích Bích là trận đại thắng của Chu Du, dùng kế hỏa công mà phá "hơn tám mưoi vạn" quân Tào Tháo. Ngày nay không ai biết đích xác Xích Bích nằm ở đâu trên sông Dương Tử vì có đến 4 địa danh mang tên này. Tôi nghe lòng ngẩn ngơ vì lúc đó gió cực mạnh trên bong tàu, hai bên là vách núi. Xuyên qua các "hiệp" ở đâu cũng thế, không nhất thiết chỗ này, gió mạnh đến nỗi người ta khó đứng lâu trên bong tàu được, nó thổi thốc giữa các hẻm núi dài vài chục cây số như một ống bệ khổng lồ. Dùng kế hỏa công trong các hẻm núi cỡ này thì thật là tàn khốc nhưng cũng thật lợi hại vì chỉ cần gió đổi chiều thì đó mới là Quỉ môn quan. Đây phải là một cảnh tượng long trời lỡ đất mà tại Bạch Đế thành tôi thấy được vẽ lại hết sức sinh động. Ghê gớm thay, mưu trí của người xưa, biết kết hợp cả trời đất trong mưu đồ của mình. Ngày nay trên sông không còn khói mù, cờ lệnh, khí giới, thuyền bè...Xích Bích đã chìm trong lịch sử.