CHUYỆN KỂ NGÀY CUỐI NĂM 2000
Kính tặng gia đình
Kazimierz Kwiatkowski
Nhà kiến trúc sư Lê Hiệp có chú mèo già
Cuối đời tìm được tri âm Kazik
Họ nhận ra nhau không bằng cách chúng-ta từng biết
Dự cảm, giác quan, cánh sóng cao tần
Chỉ thoáng thôi
Khật khưỡng bước chân
Kazik đã tới gần
Bụi bậm và đồ sộ.
Đã quen hơi, họ bằng tay và lưng thổ lộ
Chủ nhân mời họ vào bàn
Trên đi-văng Kazik co chân không tất
Xếp bằng
(Một kiểu ngồi khó thấy ở Ba Lan)
Dành giầy làm chiếc đĩa
Cho mèo
Dường như bị lãng quên dưới đất.
Vụng về nhón mẩu sườn chiên thơm lựng
Kazik đặt vào chiếc-đĩa-giầy.
Ông trước hết mời mèo,
Ở Mỹ Sơn lâu không có món này
Những tháng ròng mỳ chay
Ông lắng nghe đồng vọng
Từ cổ thành phế tích Chàm xưa
Ông bới tìm. Còn nhân loại dõi chờ
Cứ đắm chìm như kẻ mộng du
Ông làm nguội món sườn cùng chủ nhân lặng lẽ
Đến khi ngón tay mèo gãi vào ông nhè nhẹ
Là lúc trên bàn món cá nóng vừa thay
Mỉm cười biết ơn, ông lại đặt cá vào giầy.
Với chú mèo già, thú gì hơn bằng cá
Ông cũng thế.Ta với nhau đâu lạ
Ông đã mê
Những con cá lớn lên bằng sóng Cửa Hội- An
(Người ta gọi tên riêng là cá Hội An)
Con sóng ấy vỗ từ bao thế kỷ
Từng áp mạn những hải thuyền
Còn âm vang huyền bí
Khi cập bờ này-một thương cảng Phương Đông
Người đầu tiên lại là ông
Phát hiện những chân giá ẩn tàng,
Đòi bảo vệ Hội An
Nơi độc nhất con người đang sinh sống trong lòng di sản.
...
Kazik ở Việt Nam
Đó, chiều Hà Nội cuối cùng
Ông đến thăm hai người bạn
*
Bây giờ chú mèo đã về già
Kazik sớm đi xa
Tôi ngồi trên chiếc đi-văng có thể thành cổ vật
Nhớ về con người thế giới đã tôn vinh đẳng cấp
Một dòng máu Ba Lan
Sao nỡ quá vội vàng
Khi còn đợi ông đây biết mấy tầng văn hóa.
Nhà thờ Cửa Bắc,31-12-2000
* Kazik : Tên gọi thân mật của Kazimierz Kwiatkowski,kiến trúc sư người Ba Lan, chuyên gia có tên tuổi về trùng tu, phục chế các di sản văn hóa. Ông đã làm việc 17 năm ở Việt Nam cho việc phát hiện, tôn tạo, đưa vào danh mục Di sản văn hóa thế giới các khu di tích cố đô Huế, Tháp Chàm Mỹ Sơn, Hội An. Ông mất tại Việt Nam. Phần mộ ông hiện ở nghĩa trang thành phố Lublin, quê hương ông. Nhà nước Việt Nam đã trao tặng Huân chương cao quý ghi nhận công lao to lớn của ông.
BÊN THỀM THIÊN KỶ MỚI
Một đêm trắng nửa mái đầu
Một đời thơ viết nửa câu chưa tròn
Bôn ba một nửa lối mòn
Trăm năm khát vọng hãy còn ngàn năm.
Thăng Long, ngày cuối thế kỷ XX
(Bài thơ này có hai bản dịch chữ Hán,
xin được giới thiệu :
1- của Nhà thơ Ngô Văn Phú :
Nhất dạ đầu bán bạch
Vị thành nhất cú thi
Cựu đồ hoàn bôn tẩu
Khát vọng tại hà thì.
2- của tác giả :
Nhất dạ bạch đầu ký bán biên
Mãn đại thành thi bán cú phiền
Cựu đồ bôn tẩu hoàn trung lộ
Bách niên khát vọng hựu thiên niên.
Thăng Long, Canh Thìn trọng đông)
(Trở về tóc đã phai màu/ Năm 2000/ Một cái mốc nhắc thời gian khép lại/ Nhưng cũng báo một khởi đầu sẽ mở/ Có thể nào tuổi ấy lại bắt đầu.)
DÂU TẰM
Tặng Đào Quang Vinh
Vì chưa viết hãy còn để viết
Như tằm đang lên né nhả chưa xong
Chợt kinh sợ khi tơ lòng đã hết
Dâu làm sao cứu nổi dẫu đầy nong.
Phùng, nơi xưa ngút bãi dâu, 15-10-2000
VƯỜN VẢI Ở CÔN SƠN
Ai đưa 'lệ chi' lên Côn Sơn
Sớm nay tán lá vẫn u buồn
Chậm bước hành hương lòng sầu muộn
Gió từ hàng vải nghẹn từng cơn.
Tỵ hiềm như nấm phục ngự thuyền
Cập bờ phát án Lệ Chi Viên
Quân vương mệnh yểu. Đầu ba họ
Lưỡi gươm sát phạt mấy tầng hoen.
Ai đặt tên em là Lệ Chi
Cho tay nặng trái, đẫm hàng mi
Ta đang mê mải 'tương lai học'
Mà vết đau xưa mảng nghĩ suy.
Côn Sơn, 16 tháng 8 Kỷ mão (24-10-1999)
----------------
-Ngày 4/8ÂL (1442): Lê Thái Tông chết ở Trại Vải (Gia Lương, Bắc Ninh)
-Ngày 16/8ÂL kế ngay đó : Nguyễn Trãi bị hành hình cùng Nguyễn Thị Lộ. Lập tức lệnh chu di tam tộc họ Nguyễn.
BÁT TRÀNG
Tặng Phùng Liên Đoàn (Mỹ)
Than đắp đen tường bốn phía
Cao lanh rời cốt chờ men
Họa tiết tay em gọt tỉa
Hẹn cùng qua lửa hoàn nguyên.
Sông Hồng phù sa vẫn đỏ
Những con thuyền nặng vẫn về
Vẫn bóng mờ xa thành phố
Vẫn con trâu thả ven đê.
Có một người con cách biển
Nhớ quê sớm ấy bay về
Muốn góp một tay sang sửa
Mà làng bàn tính chưa nghe.
Thăm bạn quê cho tặng vật
Mười hai con giáp tượng hình
Năm nay Rồng khoanh bình đất
Đường về đoạn thẳng đoạn quành.
Chương Dương, 2-2000
NỤ CƯỜI EM BÉ PHI
Một góc rừng Phi ở cuối trời
Hạnh phúc là gì em bé ơi ?
Hộp đầu xương xẩu hai tròng mắt
Mẩu bánh mỳ con. Bé nhoẻn cười.
1-6-2000,ảnh thoáng từ TV
EM TRONG TRANH LỤA
Tặng em Như, và tưởng nhớ
cố họa sĩ Trần Đông Lương
Thiên thần vén lụa bước vào tranh
Có thật không đây em gái anh
Khi đã hóa thân thành bất tử
Tóc tơ đâu nữa của riêng mình.
5-2000
ĐI TÀU HỎA
Tặng Việt Bằng
Trong một khoang tàu
Đôi ta đối diện
Ghế tựa hai đầu
Mà ra trận tuyến
Lao tới bằng lưng
Lùi về quá khứ
Gà gật kiệt cùng
Người mơ dấu cũ
Thuận hướng tàu đi
Người bay tới trước
Gió lộng kể gì
Chân trời nao nức
Khoảng cách đôi ta
Gần trong gang tấc
Xa thật bao la
Trong khoang tàu chật.
Trên tàu xuyên Việt,30-3
NGƯỜI KHÓC MƯỚN
Em theo thân chủ lên tàu ngược
Một chuyến hành nghề huyện rẻo cao
Khóc cho chủ tịch đưa thân mẫu
Câu chuyện nghề nghe lại ngọt ngào.
Cứ ngỡ tóc tang thì bi lụy
Ngỡ sầu ngỡ hận ngỡ đau thương.
Ra để khóc cười đều 'Lưu thủy'
Hỷ tấu 'Hành vân', thảm 'Đoạn trường'.
Lào Cai, 12-5
ĐẦU DỐC GIA SÀNG
Khuất vào ngách nhỏ dốc Gia Sàng
Bán dạo xe lăn nhạc mở vang
Mách rằng phố núi xưa heo hút
Nay rộn đường lên đất thép gamg.
Gia Sàng, 3-12-2000
SÔNG BIÊN GIỚI
Ngồi lại đông Gu-bin
Tiễn bạn đêm qua Đức.
Tựa bờ nam Bắc Luân
Lát nữa sang Trung Quốc.
Lạnh lùng thế sông ơi
Dòng sông xanh biên giới
Nước cứ mải mê trôi
Giữa đôi bờ đứng đợi.
Nhìn bên ấy bên này
Hàng cây quen trên phố
Cùng rợp một làn mây
Cùng dương ô mưa đổ.
Sản phẩm của đôi bờ
Ánh mắt cười giọng nói
Như vậy tự bao giờ
Mà giống nhau quá đỗi.
Chờ chi nữa sông ơi
Những giòng sông biên giới
Nước thì mải mê trôi
Và đôi bờ mãi đợi.
Sông Bắc Luân, 20-8
THẤT THƯỜNG
Lạy Trời...
Lời Mẹ cầu mong
Còn Trời,
Trời trút nơi không ai cầu
Mới nên trắng xóa một màu
Đât màu hồng thủy
Kia màu cát bay. Chỉ đau cho trái đất này
Đã tìm nguyên thủy ngay ngày hồng hoang
Và buồn cho ánh dương quang
Gieo mầm xanh xuống
Địa đàng héo hon.
Những ngày nước ngập ngang trời
miền Nam, 10-2000
BÊN VỈA HÈ VIẾT VỘI
Tặng các bạn tôi còn bươn chải
ở Đông Âu
Giúp trông chiếu hàng hè phố
Bần thần bên đống hàng đầy
Ví đây toàn người xứ lạ...
Tha hương chạnh nhớ những ngày
Chiều đông ảo mờ sương khói
Muộn rồi đường đã lên đèn
Bên ấy tầm này chưa vội
Em còn nán đợi khách quen.
Xếp bút nhập dòng bươn chải
Xuất dương xóa đói giảm nghèo
Lênh đênh bỗng giây kinh hãi
Bao giờ tàu mới buông neo...
Hà Nội khép lòng thế kỷ
Đêm nay còn ngổn ngang nhiều
Sao vẫn thương trời xa thế
Thời gian ai đợi ai chiều.
Láng Thượng, 12-2000
GẶP BẠN
Tặng Chu Tuấn Nhạ
Hơn bốn mươi năm mới gặp nhau
Ba quãng đời Kiều mấy bể dâu
Bạn lo việc nước. Ta về xóm
Thoắt đó mà đây trắng mái đầu.
12-2000
TIẾNG VỌNG CA TRÙ
Sáu ba tuổi con lầm rầm tập hát
Khúc ca trù 'Tuyết tuyết hồng hồng'
Còn vẳng tiếng điểm chầu tom...chát!
Những giọt buồn Cha thả lên không.
Mẹ đồng áng suốt cả đời 'Tần Tảo'
Phút lâm chung không một con về
Đau đớn thực mà đành coi hư ảo
Nhập quan nêm tiếng...chát!.. não nề
Sau lặn lội nhiều nẻo đường tuyết trắng
Con trở về tìm tiếng vọng xưa
Nghe trong trống đọng giọt cay giọt đắng
Mà sinh thời Cha tuyệt không phô.
26-8-2000
TRƯỚC CÂY CHÒ NGÀN TUỔI
Xưa gần vậy đâu biết Chò ngàn tuổi
Chồi nhánh nào ngày ấy mới li ti
Thoắt đã ngót năm mươi năm rong ruổi
Sớm nay về tựa gốc lặng vân vi.
Cúc Phương, 25-5