Jan 31, 2025

Thơ mới hiện đại VN

Thơ Bàng Bá Lân Hay Ca Dao ?
Nguyễn Khôi * đăng lúc 02:16:00 PM, Jun 17, 2010 * Số lần xem: 2511
Hình ảnh
#1


 
Bàng Bá Lân (1912-1988),quê phố Kép (Bắc Giang) nguyên chủ thi phái Sông Thương(trước 1945),phó chủ tịch Hội Văn Bút VNCH(Sài Gòn-trước1975)...Năm 1934,nhân về Kép để tự học thi Tú Tài,lúc thư giãn thích chụp ảnh và làm Thơ;Tháng 12-1934,ở tuổi 22 Bàng Bá Lân trình làng thi tập"Tiếng thông reo" và lập tức nổi tiếng...Đây là tập thơ Thi sĩ viết từ hồi"tâm hồn còn trong trắng-NK xin trích giới thiệu 1 bài :
 
        TRĂNG QUÊ
 
Trời cao,mây bạc,trăng tròn
Đê than hiu quạnh,tre buồn nỉ non
Diều ai gọi gió véo von
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi ?
 
BÌNH :Cũng như truyện Kiều của Nguyễn Du...những vần thơ hay đã đi vào cuộc sống của dân tộc thì nó là của mọi người Việt Nam ta như kiểu "Truyện Kiều còn,tiếng ta còn...", 2 câu kết là 2 câu thần cú,lâu nay đã được "dân gian hóa" thành Ca dao (một thứ Kinh thi Đại Việt) :
 
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?
 
Chữ "ánh"xem ra có vẻ phi lý ? nhưng nó lại làm cho hình tượng Thơ đẹp hẳn lên-mà ĐẸP lại là tuyệt đích của thơ ca"vì thơ thấy đẹp phải tìm theo" mà ! Có ý kiến cho là : thêm chữ "ánh" làm NON hẳn lời thơ,nhưng còn giữ được chữ "múc",nghĩa là còn giữ được gần trọn thi vị. Hai câu lục bát này tất cả duyên dáng thi vị của nó là ở mấy chữ "múc" và "đổ",nhất là "múc",nếu mất chữ đó là mất hết cả thi vị...Nó giúp ta hình dung đựoc động tác(tát nước đêm ở Vùng Kinh Bắc xưa ) mà còn gợi được cả cái tiếng "xịch xòm"... Ở trên là tả cảnh sáng trăng ở thôn quê để xuống dưới có thể "hạ"chữ "múc trăng" mà không đột ngột.Chữ "lại" ngụ ý trách móc : trăng vàng đẹp thế mà sao cô lại cố tình múc đổ đi ?
  Ta hãy trở lại xem xét 2 câu thơ độc đáo naỳ :
 
 Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại MÚC...
 
đọc đến đây,theo tư duy thuận chiều ta đã "tát nước" ở câu lục,nên ta dễ nghĩ sẽ tiếp theo là chữ "múc" thường là chữ"nước"- thế nhưng Nhà Thơ đã không viết xuôi như vậy.mà là :
                      ...Trăng vàng đổ đi ?
 
thì có sự "vênh" hẳn khỏi sự dự đoán trước thông thường.Bàng Bá Lân đã dùng "trăng vàng" đặt đắc địa vào chỗ vốn là của "nước" làm cho sự ức đoán( của bạn đọc" bị hẫng-Và do đó lượng thông tin dánh cho "từ " này thật là to lớn.Chúng ta (bạn đọc) bị bất ngờ và cái kết hợp giả định đó (múc+trăng vàng) đã cho ta một sự hứng khởi(sự thưởng thức của một "tứthơ" lạ với một hình tượng thơ đẹp) của một sự mới mẻ"múc trăng vàng"-một cảm xúc đầy tình thẩm mỹ của thơ mới.
 Cái sống mãi với thời gian,cái để đời(của sự nghiệp thơ Bàng Bá Lân) mà ta không thể dửng dưng  cái sự bất ngờ mà Thi sĩ đã xuất hiện một cảm xúc thơ tuyệt vời là vậy ! Một đời làm thơ,tối thiểu chỉ gặt hái được 2 câu thơ như thế âu cũng la hạnhphúc lắm rồi ?
                    
               Viết tại Quê Đình Bảng (Từ Sơn-Bắc Ninh) 26-12-2006
                            Nguyễn Khôi

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
Hai câu thơ của nhà thơ Bắc Giang:
Hue Thu Jun 17, 2010
Hai câu thơ của nhà thơ Bắc Giang: Bàng Bá Lân; và nguyên văn của nó chắc chắn là: “Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi” chứ không phải “Múc ánh trăng vàng đổ đi”.

Năm 1972, một anh bạn rủ tôi đến thăm nhà thơ Bàng Bá Lân ở một cái hẻm lớn trên đường Công Lý, Sài Gòn. Hôm ấy là Chủ nhật, ông không phải lên lớp (ông dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn).

Thực ra, trước khi gặp ông, tôi cũng đã biết đến ông, một nhà thơ tiền chiến quê Bắc Giang, ông nói với tôi là đồng hương. Tôi còn biết ông phụ trách một tiết mục trên đài truyền hình Sài Gòn hồi đó.

Tiết mục mà ông phụ trách là trưng ra nhiều bức hình tư liệu về đời sống, sinh hoạt của mọi tầng lớp dân chúng ở miền Bắc trước năm 1955 như: xe thồ, đi dân công, chống lụt ở vùng chiêm trũng…

Ông có vóc người trung bình, nhanh nhẹn, trang phục bình dân, giản dị. Ông nói chuyện với chúng tôi về thời sự, kinh tế, rồi văn học, văn chương truyền miệng, thơ…

Ông thuộc rất nhiều, giọng đọc thơ rất hay. Ông đọc từ thơ tiền chiến đến thơ Đường, thơ Pháp. Nghe ông đọc, như bị thôi miên. Chờ khi ông ngừng nghỉ một lát, tôi mới nói chen vào, rằng trong ca dao Việt Nam tôi rất thích hai câu:

“Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc trăng vàng đổ đi”.

Tức thì nhà thơ ngắt lời tôi. Ông bảo hai câu thơ đó là trích trong một bài thơ lục bát gồm 12 câu của ông. Rồi ông đọc liền một mạch cả bài thơ đó. Nhưng ông sửa lại câu 8 mà tôi vừa dẫn trên là:

“Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi”

Và ông giải thích: Người ta không thể “múc ánh trăng vàng” mà là “múc trăng vàng” ở dưới nước. Khi cái gầu của cô gái trong câu ca dao, dìm xuống nước thì mặt trăng tan vỡ ra trong nước, hòa với nước, sóng sánh cùng với nước.

Thế là cô gái múc nước tát lên ruộng cao cũng đồng thời múc luôn cả vầng trăng tan vỡ trong đó. Trường hợp này cũng tương tự trong bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.

Bài thơ có câu: “Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Ở đây con hổ không hề đứng ngửa mặt lên trời để uống ánh trăng trong không khí mà là uống trăng tan trong dòng suối sau khi đã “say mồi”.

Nghe nhà thơ giảng nghĩa như vậy, chúng tôi từ chỗ ngỡ ngàng đến khâm phục. Hai câu thơ trên là của nhà thơ Bắc Giang: Bàng Bá Lân; và nguyên văn của nó chắc chắn là: “Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi” chứ không phải “Múc ánh trăng vàng đổ đi”.

Mãi về sau này cũng có một vài người lên tiếng công nhận hai câu ca dao trên là của Bàng Bá Lân, trong đó có Giáo sư Huyền Viêm có bài đăng trên “Kiến thức ngày nay”.

Tuy nhiên, chưa có ai chỉ rõ sự khác nhau giữa: “Múc ánh trăng vàng” và “Lại múc trăng vàng” như vừa nêu trên. Theo thiển nghĩ của chúng tôi, sở dĩ có sự lầm lẫn trên là do tam sao thất bản.

Rằng, quyển “Ca dao tục ngữ Việt Nam” của tác giả Vũ Ngọc Phan có in hai câu ca dao trên được xuất bản sau năm 1955 ở miền Bắc, còn tác giả của nó tức là nhà thơ Bàng Bá Lân lại di cư vào Nam từ năm 1954. Vì thế nhà thơ không được đọc quyển sách biên khảo của Vũ Ngọc Phan, không thấy sự nhầm lẫn đáng tiếc kể trên để lên tiếng cải chính.

Từ đó đến khi ông mất (1988), tôi chưa hề được gặp lại nhà thơ Bàng Bá Lân. Thỉnh thoảng gặp vài người bạn cố tri có lòng yêu mến văn chương, tôi lại đem tâm sự trên kể cho họ nghe. Suốt thời gian dài ấy, tôi cứ lòng dặn lòng bất cứ khi nào có dịp tôi sẽ đưa niềm tâm sự đó lên mặt báo. Rằng, nếu chưa làm được điều này thì tôi còn day dứt chưa yên. Rằng, món nợ tinh thần với nhà thơ đồng hương vẫn chưa trả được.

Bắc Giang, tháng 6/2007
Hoàng Chí Quang
06 Lê Lợi, T.T Chũ Lục Ngạn, Bắc Giang
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)