Nhà thơ Thôi Hiệu sanh cùng thời với Lý Bạch, quê ở Biện Châu, đổ Tiến sĩ vào năm Khai Nguyên thứ 11, đời vua Đường Huyền Tông. Thôi Hiệu( Thôi - Hạo ) làm thơ rất hay; đến đổi nhà thơ Lý Bạch phải nể nang.Tương truyền, khi ông Lý Bạch lên lầu Hoàng Hạc chơi, thấy cảnh sơn thủy hữu tình muốn chấp bút đề thơ, chợt thấy trên vách đã có bài Hoàng Hạc Lâu( HHL ) của Thôi Hiệu liền đọc , rất mực khen ngợi, và than: " Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc; Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu", tạm dịch:"Trước mắt có cảnh đẹp mà không thể làm thơ được, vì ở trên đã có bài thơ của Thôi Hiệu rồi ". Vậy bài HHL của Thôi - Hiệu hay như thế nào, xin chép ra đây để qúi độc giả thưởng lãm.Chữ Nho:
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
HOÀNG - HẠC LÂU
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán - Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh - Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
THÔI - HIỆU
Đây là bài thơ Đường cấu trúc hơi đặc biệt: "phá thể", lai cách điệu Cổ Phong, vì chữ cuối của câu thứ nhứt"KHỨ" thanh "trắc",và chữ áp cuối "HẠC"đúng ra phải là thanh "bằng".Tuy nhiên bài HHL rất nổi tiếng.Ngoài ra, cũng có người cho rằng chữ "KHỨ", quê của Thôi Hiệu đọc là"KHÂU",hoặc"KHƯ",vẫn là thanh "bằng", đúng vận.Nói thế chỉ đúng một mà thôi;bởi vì còn chữ"HẠC"thanh "trắc",lý giải cách nào cho ổn?!
Và đặc biệt hơn nữa, bài HHL có rất nhiều người dịch ra quốc ngữ.Xin đơn cử một số danh sĩ đã dịch bài HHL:
LẦU HOÀNG - HẠC
Người xưa cưỡi hạc đã bay cao
Lầu hạc còn suông với chốn nầy
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh , lớp cỏ dày
Trời tối quê hương đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây
NGÔ - TẤT - TỐ
Tiếp theo cụ Trần - Trọng - Kim có lời dịch HHL :
LẦU HOÀNG HẠC
Người đi cưỡi hạc từ xưa
Đất nầy Hoàng - Hạc còn lưa một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông
Hán - Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh - Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu
TRẦN - TRỌNG - KIM
Bản dịch của Trần Trọng San :
LẦU HOÀNG HẠC
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất,
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời mây trắng bay.
Hán-Dương sông tạnh, cây in thắm,
Anh-Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy ;
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.
TRẦN TRỌNG SAN
Nhà thơ Tản - Đà đã dịch bài HHL theo thể thơ Lục Bát:
LẦU HOÀNG HẠC
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
TẢN ĐÀ
Kính thưa qúi độc gỉa, còn nhiều, rất nhiều người dịch bài thơ trên.Và gần đây, được biết nhà thơ Vũ - Hoàng - Chương cũng có bản dịch bài HHL :
LẦU HOÀNG - HẠC
Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Đây lầu Hoàng - Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mất
Trắng môt màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán - Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh - Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!
VŨ - HOÀNG - CHƯƠNG
Riêng tôi,hậu học (N M T), cũng mạo muội bắt chước người đi trước, xin phỏng dịch bài HHL y cách điệu Cổ Phong của nguyên tác như sau:
LẦU HOÀNG - HẠC
Cưỡi hạc người xưa bóng mờ mịt / mịt mờ (đúng vận Thơ Đường)
Để lầu Hoàng - Hạc đứng trơ vơ
Hạc vàng một thoáng mù tăm tích
Mây trắng ngàn năm mãi lửng lơ
Sông biếc Hán - Dương cây lộng bóng
Bãi xanh Anh - Vũ cỏ ươm mơ
Chiều rồi quê cũ phương nào nhỉ?
Khói sóng ơ hờ... ai ngẩn ngơ..!!
NGUYỄN - MINH - THANH
LẦU HOÀNG - HẠC
Người xưa cưỡi hạc vàng đi
Ngậm ngùi Hoàng - Hạc lầu ghi chốn này
Hạc vàng một thoáng mù bay
Lửng lơ mây trắng thương hoài ngàn năm
Hán - Dương lộng bóng cây nằm
Bãi xa Anh - Vũ cỏ sâm sẩm màu
Chiều rồi quê cũ nơi đâu?
Sông khơi khói sóng đọng sầu hồn ai..!!
NGUYỄN - MINH - THANH
Mùa trăng Nguyên Tiêu,GA, 2007,NMT.
**Hoàng - Hạc - Lâu, lầu tên Hoàng - Hạc ở Tây Bắc thành Vũ - Xương, tỉnh Hồ - Bắc(Trung - Hoa) . Tương truyền ông Phí - Văn - Vi, sau khi tu luyện thành Tiên, thường cỡi hạc đến lầu ấy nghỉ - ngơi, do đó mới đặt tên là HHL. Tài liệu trích dẫn từ TNĐT& DNTĐ của G/S Trịnh - Vân - Thanh và các trang điện báo.