Ngô Chi Lan còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ, tự là Quỳnh Hương, tục danh là Ngô Thị Hĩm (không rõ năm sinh, năm mất), là một nữ sĩ dưới triều vua Lê Thánh Tông trong lịch sử Việt Nam.
Bà người làng Phù Lỗ (tục gọi làng Sọ), huyện Kim Hoa (sau đổi là Kim Anh), trấn Kinh Bắc (nay là huyện Sóc Sơn, thuộc ngoại thành Hà Nội).
Tương truyền, Ngô Chi lan là cháu gái thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao, người vợ thứ năm của vua Lê Thái Tông.
Khi người cô này được tuyển vào cung, lúc ấy Ngô Chi Lan tuổi hãy còn nhỏ nhưng cũng được đi theo hầu.
Đến khi Ngọc Dao mang thai (sau sinh ra thái tử Lê Tư Thành, tức vua Lê Thánh Tông), trong nội cung xảy ra lắm chuyện lục đục, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ phải đưa Ngọc Dao đi trốn, thì Ngô Chi Lan cũng được vợ chồng này đem về cho ở trong nhà, nhận làm con nuôi, cải thành họ Nguyễn và đổi tên là Hạ Huệ.
Năm 1442, bị vu tội giết vua, cha mẹ nuôi phải nhận án tử hình. Ngô Chi Lan liền cải dạng, đổi lại tên thật, trốn đi ở nhiều nơi, cho đến khi thái tử Lê Tư Thành nối ngôi vua bà mới dám trở về.
Bà nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc và viết chữ đẹp. Chính vì vậy, mà bà đã được vua Lê Thánh Tông ban hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ, là Phù Gia nữ học sĩ; cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn, và cho bà đảm đương việc dạy lễ nghi và văn chương cho các cung nhân.
Chồng của bà là Phù Thúc Hoành (? - ?), người làng Phù Xá, tuy không đỗ đạt, nhưng nhờ tài văn chương, ông được cử làm giáo thụ chuyên giảng Kinh Dịch ở trường Quốc Tử Giám, sau chuyển sang Viện Hàn lâm, thụ chức Đông các Đại học sĩ. Hiện ông còn hai bài thơ chữ Hán được chép trong Trích diễm thi tập của danh sĩ Hoàng Đức Lương.
Buổi ấy, vợ chồng bà kết giao với nhiều bạn thơ ở chốn kinh kỳ và thường tổ chức những buổi gặp gỡ bình luận văn chương.
Nữ sĩ Ngô Chi Lan mất năm nào không rõ. Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ bà, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ với tên đề “Kim Hoa nữ học sĩ”. Ngôi đền đó hiện nay được đặt ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình nữ sĩ.
Ngô Chi Lan chỉ có một tập thơ duy nhất là Mai trang tập (Tập thơ vườn mai). Ở thời Hoàng Đức Lương, Mai trang tập hãy còn lưu hành, sau đã thất truyền cho đến nay (2010).
Hiện thơ bà chỉ còn lại trên dưới mười bài in rải rác trong các sách Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam chích quái, Kiến văn tiểu lục và Trích diễm thi tập. Tạm liệt kê ra như sau:
-Chùm thơ vịnh bốn mùa: gồm 4 bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Hán.
-Chùm thơ vịnh bốn mùa: gồm 4 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Nôm (dịch Nôm 4 đoạn đầu của 4 bài thơ chữ Hán trên, tuy nhiên không biết do tác giả tự dịch hay do người đời sau).
-Vịnh núi Vệ Linh (tức núi Sóc): viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt.
-Thái liên khúc: gồm 2 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán.
-Thơ vịnh truyện Tô Vũ: viết bằng chữ Nôm, chưa có thông tin chi tiết.
-Thơ điếu Lê Thánh Tông: viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú, được chép trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa trong Truyền kỳ mạn lục.
Xét chung, thơ của Ngô Chi Lan mang bản sắc riêng, không khuôn sáo, gò ép, đẹp cả ý và lời, thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cảnh vật với những chi tiết chân thực của đời sống và có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời và con người. Nửa sau thế kỉ 15, Ngô Chi Lan là một tài thơ được người đương thời đánh giá cao. Có thể coi bà là nhà thơ nữ đầu tiên có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam.
Thiên truyền kỳ Kim Hoa thi thoại (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa) trong Truyền kì mạn lục, tác giả Nguyễn Dữ đã dựng lên câu chuyện thơ giữa Ngô Chi Lan và nhà thơ Thái Thuận (1440-?, phó nguyên súy Tao đàn Nhị thập bát Tú), để qua đó giới thiệu mấy vần thơ hay của Ngô Chi Lan, luận về văn chương và các tác giả nổi tiếng đương thời, như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Trãi... Chuyện tuy hư ấu hoang đường, song nó chứng tỏ vị trí của Ngô Chi Lan trong văn học và lòng thành kính của hậu thế đối với bà.
Cũng theo câu chuyện trên thì "năm ngoài 40 tuổi nàng (tức Ngô Chi Lan) mất, táng ở cánh bãi Tây Nguyên".
GS. Trịnh Vân Thanh (tr. 787) ghi Ngô Chi Lan mất năm 41 tuổi, còn Ngô Văn Học trong một bài viết trên báo Hà Nội mới (số ngày 28 tháng 12 năm 2009) ghi bà mất khi tuổi ngoài 50. Nếu bà đúng là cháu gái của thứ phi Ngọc Dao và bài thơ "Điếu vua Lê Thánh Tông" cũng đúng là của bà, thì thông tin của Ngô Văn Học xét ra là phù hợp hơn cả, vì bà sinh trước vua Lê Thánh Tông (vua mất ở tuổi 55) và mất sau ông vua này.
Giới thiệu một bài thơ của nữ sĩ:
Bài thơ sau đây sáng tác theo kiểu từ khúc, đã được khắc in trong Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương và Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.
Nguyên văn
采蓮曲
相看綠鬢年
無事采溪蓮
小姑嬌不語
帶笑學撐船
蓮花遠近香
采采總山娘
莫遣風吹鬢
冰肌原自涼
Phiên âm:
Thái liên khúc
1. Tương khan lục mấn niên,
Vô sự thái khê liên.
Tiểu cô, kiều bất ngữ,
Ðái tiếu học sanh thuyền.
2. Liên hoa viễn cận hương,
Thái thái tổng sơn nương.
Mạc khiển phong xuy mấn,
Băng cơ nguyên tự hương.
Dịch nghĩa:
Khúc hát hái sen
1. Xem cô em có mái tóc xanh,
Nhân thong thả ra khe hái sen.
Cô rất duyên dáng và lặng lẽ,
Miệng chúm chím tập chèo thuyền.
2. Hương sen thoang thoảng tỏa chung quanh,
Cô em ở chốn quê hái nơi này sang nơi khác
Chẳng cần gió thổi lồng mái tóc cô,
Vì riêng làn da trắng thôi đã tự mát mẻ.
Dịch thơ:
1. Kia kìa cô gái tóc xanh
Trong khi nhàn rỗi ra ghềnh hái sen.
Dịu dàng kín đáo thuyền quyên,
Miệng hoa chúm chím ngồi thuyền tập bơi.
2. Xa gần thoang thoảng mùi sen
Hái hoa nhan nhản cô em quê mùa.
Tóc mây đừng để gió đưa,
Nước da băng tuyết vẫn thừa hương bay.
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Sách tham khảo:
* Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục (bản dịch của Trúc Khê). Nxb Văn nghệ, 1968.
* Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển (bản in lần thứ 9). Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất bản, 1968.
* Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển. Nxb Hồn thiêng, Sài Gòn, 1967.
* Nhiều người soạn, Từ điển Văn học (bộ mới, mục từ do Đặng Thị Hảo soạn). Nxb Thế giới, 2004.
* Trần Thị Băng Thanh, Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 4). Nxb KHXH, Hà Nội, 2004.