Đáp Bùi Địch 答裴迪
• Trả lời Bùi Địch
答裴迪
淼淼寒流廣,
蒼蒼秋雨晦。
君問終南山,
心知白雲外。
Đáp Bùi Địch
Miểu miểu hàn lưu quảng,
Thương thương thu vũ hối.
Quân vấn Chung Nam sơn,
Tâm tri bạch vân ngoại.
Dịch Thơ:
Trả lời Bùi Ðịch
Mênh mang nước lạnh rộng trôi
Xanh xanh mù mịt kín trời mưa thu
Anh thãm hỏi núi Nam ý
Tâm tôi ngoài đám mây mờ nào hay
Ðông A
Lộc Trại
Không sơn bất kiến nhân ,
Ðản văn nhân ngữ hưởng .
Phản cảnh nhập thâm lâm ,
Phục chiếu thanh đài thượng .
Dịch nghĩa :
Trại Hươu
Trong núi vắng ,không thấy người , chỉ nghe thấy tiếng người nói vang lại . Ánh phản chiếu dọi vào trong rừng sâu , rồi lại soi lên trên đám lá rêu xanh .
Dịch thơ :
Trại Hươu
Núi trống vắng tanh người ,
Chỉ nghe vọng nói cười .
Nắng vào trong núi thẳm ,
Lên đám rêu xanh soi .
Bản dịch Trần Trọng San
MẠNH THÀNH AO
Tân gia mạnh thành khẩu,
Cổ mộc dư suy liễu .
Lai giả phục vi thuỳ ?
Không bi tích nhân hữu .
Dịch nghĩa:
Thung Mạnh Thành (1 )
Mới dời nhà đến cửa thung Mạnh Thành
Cây cổ còn lại vài gốc liễu cỗi
Sau ta, người ở đây làm gì ?
Xót xa làm gì khi thấy những cái của người trước
Dịch thơ:
Mạch thành dựng một ngôi nhà,
Dấu xưa còn lại năm ba liễu gầy.
Biết sau ai ở chốn này,
ích gì buồn cảnh trước ngày có ta .
(K.D)
(1) Nơi ở của Vương Duy trong thung lũng núi Vơng Xuyên
Sống trên đời cần có một tấm lòng...
...để gió cuốn đi...
ĐIỂU MINH GIẢN
Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không .
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung .
Dịch nghĩa :
Khe chim kêu
Người thảnh thơi hoa quế rụng,
Đêm im lặng non sông vắng không .
ánh trăng ló lên làm chim núi giật mình,
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối .
Dich thơ:
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lạnh ngắt trái đồi vắng tạnh
Trăng lên chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi .
( Ngô Tất Tố )
*************************
Người nhàn hoa quế rụng,
Đêm xuân núi vắng teo .
Trăng lên chim núi hãi,
Dưới khe chốc chốc kêu
( Tương Như )
Tống xuân từ
Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh quy
Tương hoan hữu tôn tửu
Bất dụng tích hoa phi.
Dịch nghĩa:
Ngày lại ngày, người cứ già thêm
Năm qua năm, xuân lại trở về
Cùng vui có chén rượu đây
Thương tiếc hoa bay nào có ích gì.
Dịch thơ: Lời tiễn mùa xuân
Mỗi ngày người mỗi già thêm
Năm qua năm tới lại đem xuân về
Vui say vò rượu sẵn kia
Công đâu mà tiếc làm gì hoa bay.
Trần Trọng Kim dịch.
Chung Nam Biệt Nghiệp
Trung thế phả hiếu đạo
Vân gia Nam sơn thùy
Hứng lai mỗi độc vãng
Thắng sự không tự tri
Hành đáo thủy cùng xứ
Tọa khan vãn khởi thì
Ngẫu nhiên tri lâm tẩu
Ðàm tiếu vô hoàn kỳ
Vuơng Duy
Nhà Riêng Ở Núi Chung Nam
Trẻ từng yêu mùi đạo
Già ở núi Nam này
Lúc hứng riêng mình dạo
Khi vui chỉ tự hay
Ði theo nguồn nước đổ
Ngồi ngắm áng mây bay
Chợt gặp ông già núi
Quên về, nói chuyện say
Lê Nguyễn Lưu dịch
Thu Dạ Ðộc Tọa
Ðộc tọa bi song mấn
Không đường dục nhị canh
Vũ trung sơn quả lạc
Ðăng hạ thảo trùng minh
Bạch phát chung nan biến
Hoàng kim bất khả thành
Dục tri trừ lão bệnh
Duy hữu học vô sinh .
Vương Duy
Ðêm Thu Ngồi Một Mình
Ngồi chạnh thương làn tóc
Canh hai, nhà lặng yên
Trong mưa rừng trái rụng
Dưới nến dế giun rền
Tóc trắng thay nào được
Thuốc vàng luyện khó nên
Bệnh già mong dứt tuyệt
Vô sinh hãy học chuyên .
Lê Nguyễn Lưu dịch
Ðiểu Minh Giản
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung .
Vương Duy
Khe Chim Kêu
Người nhàn, hoa quế rụng
Ðêm vắng, núi xuân xa
Trăng lên chim rừng dậy
Khe xuân vẳng giọng ca .
Theo Lê Nguyễn Lưu
Bài dịch 2 :
Người nhàn trông cánh quế rơi
Ðêm xuân vắng vẻ núi đồi lặng yên
Chim rừng chợt thấy trăng lên
Giật mình kinh sợ kêu bên khe này .
Ðỗ Bằng Ðoàn & Bùi Khánh Ðản
Ca Hồ
Suy tiêu lăng cực phủ
Nhật mộ tống phu quân
Hồ thượng nhất hồi đạo
Sơn thanh quyển bạch vân
Dịch Thơ
Ao Ca Hồ
Sáo thổi vọng qua bờ
Trời chiều chia tay bạn
Trên hồ đường về còn
Núi xanh mây trắng cuộn
Bản dịch: Vũ Thế Ngọc
Câu Trúc lãnh
Ðàn loan ánh không khúc
Thanh thúy dạng liên y
Âm nhập cách sơn lộ
Tiều nhân bất khả tri
Dịch Thõ
Ðỉnh Câu Trúc
Bạt ngàn cây trời rộng
Nhấp nhô lá xanh lồng
Âm thầm đường núi biếc
Tiều nhân nào biết không
Bản dịch: Vũ Thế Ngọc
Hàn Thực ti thượng tác
Quảng Vũ thành biên phùng mộ xuân
Nam Dương quy khách lệ chiêm cân
Lạc hoa tịch tịch đề sơn điểu
Dương liễu thanh thanh độ thủy nhân
Dịch Thơ
Sáng tác trên sông trong ngày Hàn Thực
Bên thành Quảng Vũ chiều xuân muộn
Quy khách Nam Dương khăn lệ nhòa
Lặng lẽ hoa rơi chim núi hót
Xanh rờn dương liễu khách sông.
Vũ Thế Ngọc
Hỷ đề bàn thạch
Khả liên bàn thạch lâm tuyền thủy
Phục hữu thuỳ dương phất tửu bôi
Nhược đạo xuân phong bất giải ý
Hà nhân xuy tống lạc hoa lai
Dịch Thơ
Vui đề lên bàn đá
Khá thương bên suối thạch bàn
Lại thêm cành liễu lân la chén quỳnh
Gió xuân ví chẳng cố tình
Cớ sao lại thổi đến mình hoa rơi
Vũ Thế Ngọc
Hoa Tử cương
Phi điểu khứ bất cùng
Liên sơn hậu thu sắc
Thượng hạ Hoa Tử cương
Trù thướng tình hà cực
Dịch Thơ
Gò Hoa Tử
Chim bay đi không dứt
Núi liền đượm màu thu
Gập ghềnh gò Hoa Tử
Bâng khuâng tình bao la
Vũ Thế Ngọc
Kỳ thượng tống Triệu Tiên Chu
Tương phùng phương nhất tiếu
Tương tống hoàn thành khấp
Tổ trướng dĩ thương li
Hoang thành phục sầu nhập
Thiên hàn viễn sơn tĩnh
Nhật mộ trường hà cấp
Giải lãm quân dĩ dao
Vọng quân do tồn lập
Dịch Thơ
Trên sông Kỳ tiễn biệt Triệu Tiên Chu
Gặp nhau vừa mới cười xòa,
Đưa nhau thoắt đã lệ sa đầm dề.
Cao đình thương nỗi biệt ly,
Lại buồn thui thủi trở về thành hoang.
Xa xa trời lạnh núi quang,
Nước sông tối đến chảy càng xiết mau.
Nhổ sào thuyền đã đi lâu,
Vẫn còn đứng sững trông nhau thẫn thờ.
Trần Trọng Kim