Nov 23, 2024

Đường thi Trung Quốc

Đáp Bùi Địch
Vương Duy - 王 維 * đăng lúc 11:59:33 AM, Mar 16, 2015 * Số lần xem: 2559



Đáp Bùi Địch 答裴迪
• Trả lời Bùi Địch

答裴迪
淼淼寒流廣,
蒼蒼秋雨晦。
君問終南山,
心知白雲外。

 

Đáp Bùi Địch

Miểu miểu hàn lưu quảng,
Thương thương thu vũ hối.
Quân vấn Chung Nam sơn,
Tâm tri bạch vân ngoại.

 

Dịch Thơ:
Trả lời Bùi Ðịch


Mênh mang nước lạnh rộng trôi
Xanh xanh mù mịt kín trời mưa thu
Anh thãm hỏi núi Nam ý
Tâm tôi ngoài đám mây mờ nào hay

Ðông A

 

 


Lộc Trại

Không sơn bất kiến nhân ,
Ðản văn nhân ngữ hưởng .
Phản cảnh nhập thâm lâm ,
Phục chiếu thanh đài thượng .

 

Dịch nghĩa :
Trại Hươu
Trong núi vắng ,không thấy người , chỉ nghe thấy tiếng người nói vang lại . Ánh phản chiếu dọi vào trong rừng sâu , rồi lại soi lên trên đám lá rêu xanh .

Dịch thơ :

Trại Hươu

Núi trống vắng tanh người ,
Chỉ nghe vọng nói cười .
Nắng vào trong núi thẳm ,
Lên đám rêu xanh soi .

Bản dịch Trần Trọng San

MẠNH THÀNH AO

Tân gia mạnh thành khẩu,
Cổ mộc dư suy liễu .
Lai giả phục vi thuỳ ?
Không bi tích nhân hữu .

Dịch nghĩa:
Thung Mạnh Thành (1 )
Mới dời nhà đến cửa thung Mạnh Thành
Cây cổ còn lại vài gốc liễu cỗi
Sau ta, người ở đây làm gì ?
Xót xa làm gì khi thấy những cái của người trước

Dịch thơ:
Mạch thành dựng một ngôi nhà,
Dấu xưa còn lại năm ba liễu gầy.
Biết sau ai ở chốn này,
ích gì buồn cảnh trước ngày có ta .

(K.D)

(1) Nơi ở của Vương Duy trong thung lũng núi Vơng Xuyên
Sống trên đời cần có một tấm lòng...
...để gió cuốn đi...

ĐIỂU MINH GIẢN

Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không .
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung .

Dịch nghĩa :
Khe chim kêu

Người thảnh thơi hoa quế rụng,
Đêm im lặng non sông vắng không .
ánh trăng ló lên làm chim núi giật mình,
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối .

Dich thơ:
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lạnh ngắt trái đồi vắng tạnh
Trăng lên chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi .
( Ngô Tất Tố )

*************************

Người nhàn hoa quế rụng,
Đêm xuân núi vắng teo .
Trăng lên chim núi hãi,
Dưới khe chốc chốc kêu
( Tương Như )


Tống xuân từ

Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh quy
Tương hoan hữu tôn tửu
Bất dụng tích hoa phi.

Dịch nghĩa:
Ngày lại ngày, người cứ già thêm
Năm qua năm, xuân lại trở về
Cùng vui có chén rượu đây
Thương tiếc hoa bay nào có ích gì.

Dịch thơ: Lời tiễn mùa xuân

Mỗi ngày người mỗi già thêm
Năm qua năm tới lại đem xuân về
Vui say vò rượu sẵn kia
Công đâu mà tiếc làm gì hoa bay.

Trần Trọng Kim dịch.
 

Chung Nam Biệt Nghiệp

Trung thế phả hiếu đạo
Vân gia Nam sơn thùy
Hứng lai mỗi độc vãng
Thắng sự không tự tri
Hành đáo thủy cùng xứ
Tọa khan vãn khởi thì
Ngẫu nhiên tri lâm tẩu
Ðàm tiếu vô hoàn kỳ
Vuơng Duy

Nhà Riêng Ở Núi Chung Nam

Trẻ từng yêu mùi đạo
Già ở núi Nam này
Lúc hứng riêng mình dạo
Khi vui chỉ tự hay
Ði theo nguồn nước đổ
Ngồi ngắm áng mây bay
Chợt gặp ông già núi
Quên về, nói chuyện say

Lê Nguyễn Lưu dịch

Thu Dạ Ðộc Tọa

Ðộc tọa bi song mấn
Không đường dục nhị canh
Vũ trung sơn quả lạc
Ðăng hạ thảo trùng minh
Bạch phát chung nan biến
Hoàng kim bất khả thành
Dục tri trừ lão bệnh
Duy hữu học vô sinh .
Vương Duy

Ðêm Thu Ngồi Một Mình

Ngồi chạnh thương làn tóc
Canh hai, nhà lặng yên
Trong mưa rừng trái rụng
Dưới nến dế giun rền
Tóc trắng thay nào được
Thuốc vàng luyện khó nên
Bệnh già mong dứt tuyệt
Vô sinh hãy học chuyên .

Lê Nguyễn Lưu dịch

Ðiểu Minh Giản

Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung .
Vương Duy

Khe Chim Kêu

Người nhàn, hoa quế rụng
Ðêm vắng, núi xuân xa
Trăng lên chim rừng dậy
Khe xuân vẳng giọng ca .
Theo Lê Nguyễn Lưu

Bài dịch 2 :

Người nhàn trông cánh quế rơi
Ðêm xuân vắng vẻ núi đồi lặng yên
Chim rừng chợt thấy trăng lên
Giật mình kinh sợ kêu bên khe này .
Ðỗ Bằng Ðoàn & Bùi Khánh Ðản

Ca Hồ

Suy tiêu lăng cực phủ
Nhật mộ tống phu quân
Hồ thượng nhất hồi đạo
Sơn thanh quyển bạch vân

Dịch Thơ
Ao Ca Hồ

Sáo thổi vọng qua bờ
Trời chiều chia tay bạn
Trên hồ đường về còn
Núi xanh mây trắng cuộn

Bản dịch: Vũ Thế Ngọc

Câu Trúc lãnh

Ðàn loan ánh không khúc
Thanh thúy dạng liên y
Âm nhập cách sơn lộ
Tiều nhân bất khả tri

Dịch Thõ
Ðỉnh Câu Trúc

Bạt ngàn cây trời rộng
Nhấp nhô lá xanh lồng
Âm thầm đường núi biếc
Tiều nhân nào biết không

Bản dịch: Vũ Thế Ngọc


Hàn Thực ti thượng tác

Quảng Vũ thành biên phùng mộ xuân
Nam Dương quy khách lệ chiêm cân
Lạc hoa tịch tịch đề sơn điểu
Dương liễu thanh thanh độ thủy nhân

Dịch Thơ
Sáng tác trên sông trong ngày Hàn Thực

Bên thành Quảng Vũ chiều xuân muộn
Quy khách Nam Dương khăn lệ nhòa
Lặng lẽ hoa rơi chim núi hót
Xanh rờn dương liễu khách sông.

Vũ Thế Ngọc


Hỷ đề bàn thạch

Khả liên bàn thạch lâm tuyền thủy
Phục hữu thuỳ dương phất tửu bôi
Nhược đạo xuân phong bất giải ý
Hà nhân xuy tống lạc hoa lai

Dịch Thơ
Vui đề lên bàn đá

Khá thương bên suối thạch bàn
Lại thêm cành liễu lân la chén quỳnh
Gió xuân ví chẳng cố tình
Cớ sao lại thổi đến mình hoa rơi

Vũ Thế Ngọc

Hoa Tử cương

Phi điểu khứ bất cùng
Liên sơn hậu thu sắc
Thượng hạ Hoa Tử cương
Trù thướng tình hà cực

Dịch Thơ
Gò Hoa Tử

Chim bay đi không dứt
Núi liền đượm màu thu
Gập ghềnh gò Hoa Tử
Bâng khuâng tình bao la

Vũ Thế Ngọc

Kỳ thượng tống Triệu Tiên Chu

Tương phùng phương nhất tiếu
Tương tống hoàn thành khấp
Tổ trướng dĩ thương li
Hoang thành phục sầu nhập
Thiên hàn viễn sơn tĩnh
Nhật mộ trường hà cấp
Giải lãm quân dĩ dao
Vọng quân do tồn lập


Dịch Thơ
Trên sông Kỳ tiễn biệt Triệu Tiên Chu

Gặp nhau vừa mới cười xòa,
Đưa nhau thoắt đã lệ sa đầm dề.
Cao đình thương nỗi biệt ly,
Lại buồn thui thủi trở về thành hoang.
Xa xa trời lạnh núi quang,
Nước sông tối đến chảy càng xiết mau.
Nhổ sào thuyền đã đi lâu,
Vẫn còn đứng sững trông nhau thẫn thờ.

Trần Trọng Kim


 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.