Trường thiên song thất lục bát
Ðại Việt Sử Thi 20 - 23
Hồ Ðắc Duy *
đăng lúc 11:29:44 PM, Jun 24, 2008 *
Số lần xem: 3630
#1 |
QUYỂN HAI MƯƠI
Năm Kỷ Mùi(1791) Adran lâm nạn
Vua bèn phong tước nhận Quận Công
Mộ phần nằm ở bên hông
Cửa thành Gia Ðịnh tượng đồng ghi ân
Nguyễn Quang Toản bất thần đột kích(1801)
Ba vạn binh chí quyết trả thù
Theo sông Nhật Lệ tiến vô
Liên minh với bọn tàu Ô phá thành
Bọn hải tạc tung hoành cướp bóc
Nên trong dân có khúc hát ngâm :
“Lạy trời cho chóng gió nồm
Ðể cho chúc Nguyễn giong buồm thẳng ra”
Ðúng vào lúc người ta oán hận
Bọn cầm quyền tán tận lương tâm
Tàu Ô đi kết làm thân
Làm cho ngao ngán lòng dân bấy giờ
GIA LONG HOÀNG ÐẾ ( 1802- 1820)
Hết tháng tư vào năm Nhăm Tuất(1802)
Giữa triều đình trước mặt muôn dân
Nguyễn Vương làm lễ đăng quang
Cáo cùng trời đất tại đàn Nam Giao
Ðàn Nam Giao lễ đài chính giữa
Vái với trời đất nước Ðại Nam
Gia Long niên hiệu đổi làm
Sáu điều ân điển vua ban cho đời
Vua Gia Long cử người đi sứ
Xin nhà Thanh tiến cử phong vương
Cờ trương chuẩn bị lên đường
Kéo quân Bắc tiến vượt giòng Linh Giang
Ðất Hà Trung Tây Sơn đang giữ
Vua Gia Long bèn cử thủy binh
Với quân bộ chiến thình lình
Ðột kích đánh phá chiếm thành Nghệ An
Trong mười ngày hành quân tốc thắng
Phe Gia Long chiếm đặng nhiều nơi
Tây Sơn quân tướng rối bời
Tìm đường trốn tránh chạy dài thoát thân
Thành Thăng Long dần dần hỗn loạn(1802)
Ðám tàn binh từng toán lang thang
Triều đình chẳng thấy bóng quan
ƠƯ nơi phủ huyện hoang tàn trống trơn
Lũ bại quân không ai chế ngự
Chúng trở thành thú dữ hại dân
Nghe tin quân Nguyễn đến gần
Tướng, quan Cảnh Thịnh vội vàng chuồn ngay
Trong những ngày Tây Sơn di tản
Cả kinh thành tán loạn khắp nơi
Ngã lên Kinh Bắc đầy người
Vắng hoe phố thị, một trời tang thương
Ngày Ðinh Tỵ trên đường Thượng Trấn
Vua Gia Long yết bản chiêu an
Vỗ về yên ủi lòng dân
Xử ngay những kẻ cướp đường lưu manh
Bùi thị Xuân vang danh nữ tướng
Từng cỡi voi giữa chốn ba quân
Ðiều binh rút đến Thạch Chương
Bị quân Nguyễn Ánh đón đường bắt giam
Vũ văn Dũng chạy ngang Ngọc Xá
Cùng ba người bộ hạ mang theo
Bị dân chận lại trói meo
Khiêng về hành trại đánh hèo giam riêng
Nguyễn Quang Toản cùng em qua khỏi
Vượt Nhị Hà gần tới Xương Giang
Mái cong chùa cổ Thọ Xương
Dừng chân tạm trú tìm đường rút lui
Vua Gia Long lấy ngày đại thắng(1802)
Ðể làm ngày quốc thống nước ta
Kinh sư chiếu chỉ ban ra
Chiêu an thần tử dĩ hòa muôn dân
ƠƯ Thăng Long còn đang rắm rối
Nguyễn văn Thành bổ tới tận nơi
Phân vùng mười trấn chia ngay
Bộ Binh, Hình, Hộ đặt người trông coi
Trong tháng mười vào ngày Kỷ Hợi
Xa giá về vừa tới tỉnh Thanh
Lập đàn tế cáo uy linh
Yết lăng Triệu Tổ sinh thành ra vua
Lễ hiến phù đem tù trảm quyết
Ngày hôm sau sai giết bại quân
Xiềng tay, trói ké, cùm chân
Vua tôi Cảnh Thịnh chém dần từng tên
Triều Tây Sơn nắm quyền Mậu Tuất(1778)
Ðến năm Nhâm Tuất nước mất vào tay(1802)
Gia Long kế tục lên thay
Giang sơn thống nhất từ rày về sau
Năm Quý Hợi (1803) bắt đầu đúc pháo
Cho ra lò chín khẩu thần công
Sai người đắp lại Thăng Long
Lập đền Văn Miếu, tiền đồng làm ngay
Sửa Phú Xuân dùng tài Văn Yến
Ðo đạc rồi nới điện rộng thêm
Vua thân vẽ kiểu đặt nền
Duyệt xem kiến trúc, đặt tên công trình
Ðộng Thạch Bích, người Kinh rất ít
Lũ man di lại thích đánh nhau
Tả quân Văn Duyệt quỳ tâu
Cho quân đi đánh tóm thu đất này
Truyền Văn Phú ra ngay hải đảo
Cụm Hoàng sa cửa đảc Sa Kỳ
Mộ dân ngoại tịch cho đi
Lập thành hải đội phòng khi cần dùng
Sứ nước Anh đem dâng cống vật(1803)
Xin thông thương Vua vẫn không cho
Xiêm La, Chân Lạp mang đồ
Sừng tê, sản, quốc thư dâng ngài
Vua Trung Quốc cử ngay sứ giả(1804)
Sang nước ta phù tá tấn phong
Chiếu thư có đoạn ở trong
Ban cho quốc hiệu Việt Nam bấy giờ
Ðể chính danh, truyền cho đúc ấn
Sáu bộ riêng khỏi lẫn vào nhau
Bắc Thành mời các sĩ phu
Ðem điều lợi hại trước sau luận bàn
Quốc Tử Giám sắc ban thành lập
Cho học sinh được cấp tiền lương
Chương trình giáo dục tỏ tường
Sưu tầm sách vở hiện còn trong dân
Nguyễn Công Trứ đệ dâng mười chuyện(1803)
Trứ là người ở huyện Nghi Xuân
Một người văn võ đa năng
Giỏi nghề đánh giặc lại sành khẩn hoang
Người Chà Và nhiễu nhương quấy rối
Bị quân ta đánh đuổi chạy dài
Vào tháng tám rước quan tài
Của vua Chiêu Thống di hài về quê(1804)
Ðúc Sách Vàng, xây nền xã tắc
ƠƯ kinh thành sắp đặt nghi trang
Thái hòa thổ môỳc sửa sang
Chọn ngày tháng tốt đăng quang thiết triều
Chọn niện hiệu Gia Long hoàng đế(1806)
Ðánh chuông vàng chiếu chỉ các nơi
Tám điều ân xá thay trời
Ðịnh ngày sóc vọng quan mời vào cung
Sửa lại thuế hợp lòng dân chúng
Cho lưu dân khỏi đóng ba năm
Ðịnh ra phép thử lúa bằng
Hai phần trăm lép trừ ngang chỗ này
Ðể hiểu rõ trong ngoài quan ải
Ðất nước mình của cải tài nguyên
Sai Lê Quang Ðịnh làm nên
Sách “Ðịa dư chí” trình lên cho Ngài
Sách mười quyển trình bày cặn kẽ
Cảnh núi sông hiểm thế, cầu đường
Thói quen, thổ sản, sơn quan
Nguồn sông, cửa biển, mỏ than, mỏ đồng
Tiếp đến việc sắc phong Chân Lạp(1807)
Nặc Ông Chân cống nạp mỗi năm
Phong vua của đất Cao Man
Vua ban chiếu chỉ cho làm Quốc Vương
ƠƯ trong nước nhiễu nhương giặc cỏ
Phái người đi phủ dụ hoàn lương
Ðặt quan coi giữ đê đường(1809)
Thảo ra định lệ thuế buôn thương thuyền
Vua nước Xiêm đem đồ triều cống(1811)
Người Chân Lạp lại tưởng nước ta
Kết giao với nước Xiêm La
Vội vàng sai sứ đi qua điều trần
Năm Nhâm Thân(1812) tình hình Chân Lạp
Trong anh em tranh chấp lẫn nhau
Nặc Chân dâng biểu khẩn cầu
Vua sai Tả Tướng kéo vào Nam Vang
Mười ba ngàn quân binh thủy bộ
Lê văn Duyệt tới xứ Cao Man
Cho đắp thành mới Nam Vang
Lô Yêm cho đặt trữ lương khi cần
Lại giao cho Nặc Chân tiền của
Thêm mười ngàn hộc lúa để ăn
Sau khi ổn định an dân
Triệu hồi Tả Tướng đem quân trở về
Trước khi đi, bàn giao Phiên Chúa
Lưu ngàn quân bảo hộ Cao Man
Khiến dân Chân Lạp cùng làm
Ðào kênh Vĩnh Tế mở đàng giao thông
Xuống chiếu ban đào sông An cựu(1814)
Lại sai người đắp đập Hà Trung(1807)
Kim Ðôi cũng được khởi công(1810)
Tam Khê vét rộng nới thông thêm giòng(1817)
Cũng năm đó đào sông Bảo Ðịnh(1817)
Từ Cù Úc cho đến Mỹ Tho
Mã Trường vua lại cấp cho
Theo trong bản vẽ đào từ Phiên An
Cho thuyền buôn Ma cao và Pháp
Ðược ra vào tấp nập tự do
Riêng Ma cao, vua thưởng cho
Vì đem dâng bản địa đồ Hoàng Sa
Ðội Hoàng Sa quan gia họ Phạm
Lập hải trình khảo thám chung quanh
Ðến năm Bính Tý hoàn thành(1816)
Cử ngay hãi đội coi riêng vùng này
Việc quốc gia giải bày sau trước
Bộ “Quốc triều thực lục” soạn ra(1815)
Sai Thích, Sàng, Toản bộ ba
Làm quan tu sửa để mà chỉnh biên
Dâng vua xem “Quốc triều luật lệ”
Làm nếp nề giúp dễ cho quen
Cần tra điều luật xét phân
Sách 22 quyển rất cần cho dân
“Duyên hải lục” đem dâng ngự lãm
Khảo sát nơi nông cạn xa gần
Men theo bờ biển Việt Nam
Trăm bốn ba (143) cửa hải quan rõ ràng
Ðất nước ta dần dần thay đổi
Qua ngàn năm chìm nỗi thịnh suy
Bây giờ cột mốc biên thùy
Ðịa đồ hiệu đính , chỉnh qui rõ ràng
Nước Việt Nam thuộc Ðông Nam Á
Vị trí ngay tại ngả tư đường
Phía đông thuộc Thái Bình Dương
Phía tây Miến Ðiện , Thái Lan , Miên , Lào
Ở phương bắc đường vào Trung Quốc
Ải Nam Quan cắm mốc phân ranh
Ðông Nam nước biễn vây quanh
Cà mau , Phú quốc thuộc miền cực nam
Miền Ðông Bắc cao nguyên và núi
Những đường mòn giáp giới Trung Hoa
Cao nguyên Quản Bạ , Bắc Hà
Sông Hồng đổ xuống chảy qua Viêỳt Trì
Hồ Thất Khê , Lạng Sơn núi đá
Những dãy đồi Cẩm Phả , Tiên Yên
Cát Bà vùng đảo thiên nhiên
Hạ Long nước phẳng đất liền chân mây
Miền Tây Bắc Lào Cai Châu Mộc
Núi Sa pa , rừng đất Cúc Phương
Ðiện Biên , sông Mã , Mường Hum
Hoàng Liên Sơn xuống tận vùng Nghệ An
Miền đồng bằng ở vùng châu thổ
Của sông Hồng rất đổi phì nhiêu
Sơn Tây , Hà Nội tiếp theo
Hưng Yên , Phả Lại đất nhiều ven sông
Dãy Trường Sơn nhìn từ phía bắc
Thoặt trông như một bức trường thành
Tạo ra về mặt địa hình
Vách sườn của dãy nét riêng mỗi vùng
Trường Sơn Ðông dốc thì dựng đứng
Phía sườn Tây thoải xuống lưng chừng
Hoành Sơn đổi hướng tây đông
Ðèo Ngang một thoáng , Mũi Ròn ngoài khơi
Trường Sơn Nam chạy dài xuống tới
Ðất cuối cùng là núi Chứa Chan
Cao Nguyên năm lọai xếp tầng
Gia Lai ,Ðắc Lắc trải dàn về tây
Lang Biang, mặt quay ra biễn
Vùng Di Linh đất chuyễn địa hình
Ngã Ba biên Giới cao nguyên
Tạo thành khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời
Các đồng bằng vành đai Trung Bộ
Là các vùng châu thổ Thanh Hoa
Vượt suờn núi đá dôi ra
Từ Thanh Nghệ Tỉnh chạy qua Quảng Bình
Từ Trị Thiên đến vùng Nam Ngãi
Từ Bình Ðịnh cho tới Khánh Hòa
Ðồng bằng dàn trải bao la
Ðến vùng Ninh Thuận , Kê Gà phía trong
Các núi lửa Miền Ðông Nam bộ
Là cao nguyên đất đỏ hiện nay
Lộc Ninh , An Lộc phía tây
Chung quanh Long Khánh trải dài Trảng Bom
Hạ lưu sông Ðồng Nai rất thoải
Dưới dạng đồi chạy mãi phía đông
Ðan dày khe suối và sông
Tạo nên khí hậu vô cùng đặc trưng
Sông Cửu Long đồng bằng châu thổ
Ðồng Tháp Mười là chổ trũng sâu
Sông Tiền , sông Hậu cùng nhau
Mang phù sa lại bồi cao thành giồng
Ðất Vĩnh Long , Bến Tre , Sa Déc
Vùng Gò Công, đất sét Trà Vinh
Cần Thơ , Phụng Hiệp , U Minh
Hàm Luông , Rạch Giá , Hà Tiên cuối cùng
Cả một vùng phì nhiêu trù phú
Lúa bạt ngàn cây trái xanh um
Ngoài xa hải đảo quanh vùng
Phú Quốc , Côn Ðảo vòng cung bên ngoài
Gia Long sai Văn Thành tổng trấn
Trở về kinh lãnh ấn trung quân
Có con đậu bảng cử nhân
Tên Thuyên là bậc văn nhân có tài
Thơ xướng họa vung tay quá trán
“Ðồn rằng châu Ái lắm nhân tài
Trống chiếu lòng riêng những đợi hoài
Ngọc phát non kinh nào giấu mãi
Ngựa kỳ, ngựa ký mấy người hay
Lan sanh hang thẳm hương ngàn dặm
Phụng đậu gò cao tiếng khắp nơi
Trong núi có ai là Tể tướng
Ra tay giúp đỡ chuyển cơ đồ”
Câu thơ gởi bạn đọc chơi
Nào ngờ thơ ấy đến nơi cung đình
Duyệt vốn ghét Văn Thành từ trước
Nhân dịp này vớ được tâu lên
Xin vua buộc tội trước tiên
Bắt Thành tự vận, đem Thuyên chém đầu
Ðặng Trần Thường bị tâu giấu thuế
Lê Chất nay phát giác việc này
Vua ra lệnh bắt liền tay
AÔn tuyên tội giảo giết ngay trong tù
Năm Kỷ Mão(1819) mới vừa tháng Chạp
Vua Gia Long truyền khắp đại thần
Ðến bên giường ngự dụ rằng
Thọ mang di chiếu mệnh chung gần kề
Xét Gia Long có bề hào kiệt
Người dù xây được nghiệp tổ tiên
Một tay thống nhất ba miền
Quách thành gây dựng một nền Nam Giao
Nhà Tôn miếu. Sông đào, đập đắp
Sửa cơ đồ xã tắc an dân
Nhưng mà lòng dạ tiểu nhân,
Ðào mồ Nguyễn Huệ, giết oan trung thần
QUYỂN HAI MƯƠI MỐT
MINH MẠNG HÒANG ÐẾ
(1820- 1841)
Thái tử Ðởm lên cầm nghiệp đế(1820)
Năm Canh Thìn (1820)kế tiếp lên ngai
Ðại Nam quốc hiệu đổi ngay
Triều tên Minh Mạng từ nay bắt đầu
Vua thiết triều trước sau xét việc
Vốn là người đoán quyết thông minh
Châu phê ghi chú rất tinh
Tính tình ham học sử kinh luận đàm
Vua là người quan tâm thi cử
Cho dựng nền Quốc Tử Giám ngay
Chiếu ban tuyển chọn tài hay
Thi Ðình, thi Hội định ngày mở ra
Nay truyền ra ba năm một khóa
Ở Gia Ðịnh cho mỡ trường công
Ðặt quan đốc học để cùng
Khuyến dân học tập ở vùng Trấn biên
Vua lại lập trường riêng ngoại ngữ
Ðặt chương trình dạy chữ La tinh
Pháp văn học tập cho rành
Chữ Chàm, chữ Thái học hành siêng năng
Thầy ngoại quốc dạy môn đàm thoại
Cho các quan xuất ngoại học thêm
Mở trường Thổ ngữ Cao nguyên
Tuyên quang,Vĩnh Ðiện dạy riêng chữ này
Cho Xương, Thường sang Tây tiếp cận
Ði bằng thuyền qua tận Lưu Ba
Ðóng tàu theo kiểu người ta
Trên sông chạy thử kiểm tra vận hành
Năm Canh Tý(1840) khánh thành ba chiếc
Thiết kế theo lý thuyết bốc hơi
Vận hành do nuớc đun sôi
Thanh chuyền khởi động làm quay chân tàu
Làm ra máy dựa vào sức nước
Quay trục xe , dòng nước chảy qua
Gỗ rừng xẻ được cưa ra
Chuyển về đem bán lợi ba bốn lần
Bớt sức dân góp phần khi trước
Ðỡ tốc công gánh nước về dùng
Chế ra xe kéo vòi rồng
Ðể nhanh dập lửa dự phòng cháy to
Vua truyền cho Chaigneau kiễm soát
Việc khai thác mỏ bạc Thái Nguyên
Rồi sai kiễm định thêm xem
Tính ra không lãi nên đem đấu thầu
Tôn Thất Lang xin tâu khai khẩn
ƠƯ Phú Yên trăm mẫu ruộng hoang
Hải An, Giao Thủy có quan
Chiêu dân khẩn đất khai quang một vùng
Sai bộ Công quan nha chuẩn bị
Ra Hoàng Sa làm lễ dựng bia
Trồng cây bãi đỗ còn ghi
Khoanh vùng mắc cạn thuyền bè tránh xa
Bãi Hoàng Sa nhiều cây rậm rạp
Dưới nước xanh là cát óng vàng
Cổ miếu nằm phía Tây Nam
Giữa cồn có giếng nước nằm bên trong
Năm Bính Thân(1836) lệch giòng mắc cạn
Thuyền nước Anh bị máng đá ngầm
Vua sai ông Nguyễn Tri Phương
Ðem thuyền cứu hộ tìm đường đưa ra
Việc ngoại giao xem ra có vẻ
Ít nhiệt tình theo lẽ tất nhiên
Khước từ lễ vật người đem
Khư khư giữ lấy ý riêng của mình
Với nước Anh mấy lần từ chối
Nước Hoa Kỳ gởi tới quốc thư
Vua quan tỏ ý nghi ngờ
Tìm lời thoái thác chối từ người ta
Vua Louis phái qua Lãnh sự
Cháu Chaigneau đi sứ Việt Nam
Quốc thư lễ vật mang sang
Nhưng vua từ chối giao bang nước này
Bougainville với hai thuyền chiến
Ði vào nơi cửa biển sông Ðà
Quốc thư, phẩm vật mang qua
Tính bề thông hiếu bị vua khước từ
Với Trung Hoa bấy giờ giao hiếu
Vua thân hành lãnh chiếu thọ phong
Lễ đài đặt tại Thăng Long
Sứ Tàu mang ấn với cùng chiếu thơ
Muốn khôi phục cơ đồ triều trước
Phan Bá Vành bắc chước dấy binh
Thành Nam đột kích thình lình
Giết quan Thủ ngự lấy thành như chơi
Nguyễn Công Trứ được sai dẹp loạn
Ðánh Bá Vành đến tận phía Tây
Bắt Vành với bảy trăm người
Sai quân báo tiệp chạy ngay về triều
Lê Duy Lương kéo theo bè đảng
Chiếm ba châu cai quản một vùng
Lại thêm bị giặc họ Nùng
Văn Vân tên gọi xưng hùng một phương
Tại Tuyên Quang theo đường mật báo
Biết Vân đang nương náu trong rừng
Lệnh cho đốt lửa khắp vùng
Họ Nùng chết cháy ở trong trận này
Lê Văn Khôi, con nuôi Tả tướng
Giận gian thần dấy loạn Phiên An
Chiếm luôn sáu tỉnh miền Nam
Ước giao Phiên quốc ngấm ngầm âm mưu
Truyền đưa vào, đạo quân Gia Ðịnh
Bày kế hoạch để đánh giặc Khôi
Quan quân chưa kịp đến nơi
Thì Khôi đã chết truớc đây mấy ngày
Lính bao vây quanh dinh nguyên soái
Khi triều đình chiếm lại Phiên An
Chém đầu dễ đến hai ngàn
Các quân phản loạn đang còn ở trong
Lính cho cùm Gia Tô đạo trưởng
Là cố Du đang vướng trong thành
Mặc dù ông cố thanh minh
Nhưng rồi vẫn bị hành hình như không
Lệnh bá dao được dùng xử tử
Lột da đầu , rồi bổ làm tư
Thịt xương cắt xẻo từ từ
Tay chân chặt cụt còn dư thân mình
Cuộc hành hình vô cùng man rợ
Chém treo ngành chỉ có nước ta
Lăng trì xử giảo nghe qua
Thật là rùng rợn hình tra bấy giờ
Với cựu thần dây mơ tới Ngụy
Như Tả quân Văn Duyệt thì cho
San bằng phá hủy mả mồ
Khắc bia buộc tội, tịch thu gia tài
Giặc ở trong, giặc ngoài biên trấn
Quân Thái Lan muốn tấn công ta
Nhân khi xẩy việc can qua
Ngụy Khôi cầu cứu ấy là cơ may
Ðường tiến quân qua đây nhiều lối
Dàn thủy binh thẳng tới Hà Tiên
Nam Vang quân bộ theo liền
Lại qua Cam Lộ thọc xiên cạnh sườn
Ngã Ai Lao theo đường Nghệ Tĩnh
Cướp phủ nha trong huyện Trấn Ninh
Giặc nhanh tay chiếm mấy thành
Quân ta lui giữ đầu ghềnh sông Giang
Sai các tướng binh dàn thế đánh
Trương Minh Giảng , Phúc Ðỉnh, Nguyễn Xuân
Toàn quyên ra lệnh điều quân
Chất Tri nghe thấyvội vàng rút lui
ƠƯ Ai Lao vua người Nam Chưởng
Muốn thông đồng với tướng Xiêm La
Liệu tình Chiêu Nội phải qua
Xin quân cứu viện nhờ ta giúp giùm
Người Chân Lạp phục tùng triều cống
Ðể dân họ được sống bình an
Thỉnh cầu quận chúa Ngọc Vân
Xin ta bảo hộ chận đường quân Xiêm
Trương Minh Giảng cầm quyền bảo hộ
Lê Ðại Cương sứ bộ trong quân
Ðất người chiếm đoạt dần dần
Lấy luôn Chân Lạp thay bằng Trấn Tây
Thủy Chân Lạp giờ đây đâu nữa
Ðày Ngọc Vân sang ở Phiên An
Ngậm ngùi dất nước Nam Vang
Quan quân ly tán điêu tàn quê hương
Nặc Ông Ðôn tìm đường kháng chiến
Chống dân Nam xâm chiếm nước nhà
Cùng dân bản địa vạch ra
Dùng du kích chiến nhữ ta sa lầy
Cuộc viễn chinh gây đầy tổn thất
Làm người dân bị mất niềm tin
Chiến tranh giặc giã liên miên
Nhân dân cùng khổ lại thêm chết người
Lệnh vua sai kiểm tra dân số
Mỗi mười năm một hộ tăng thêm
Trăm ngàn dân được ghi tên
Tách từng nhân khẩu chép biên rõ ràng
Ðể dễ dàng điều hành việc nứớc
Vua đặt ngay Nội Các trong cung
Lập Cơ Mật Viện để cùng
Giúp vua bàn bạc ý chung mọi người
Chia nước ra ba mươi mốt tỉnh (31)
Cũng là tên đơn vị điều hành
Tổng đốc, Tuần phủ phân minh
Ðặt thêm Bố chính lập dinh quan phòng
Một công trình vô cùng tuyệt tác
Là Cửu đỉnh vừa được đúc xong
Nới thêm thành cũ ngoài cùng
Dựng lầu Ngũ Phụng, thiết trùng Ngọ Môn
Về văn Nôm dưới triều nhà Nguyễn
Có Nguyễn Du viết truyện Thúy Kiều
“Muôn nghìn người thấy cũng yêu
Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai”
Nguyễn Huy Tự có tài thi phú
Truyện “Hoa Tiên” là thú ngâm nga
Riêng Phan Huy Chú làm ra
Lịch Triều Loại Chí thật là công phu
Vua viết bài Thiên cơ dự triệu
Thuyết bàn về vương đạo chăn dân
Ðể đời bảy tập thơ văn
Bài thơ Ðế Hệ dể dàng noi theo
Vua Minh Mạng có nhiều con cháu
Riêng nữ nhi hơn sáu mươi nàng
Lại thêm bốn tám(48)hoàng nam
Cung phi mỹ nữ cả ngàn chung quanh
“Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử”
Thú mây mưa ắt dữ trăm đường
Nghe đâu toa thuốc cường dương
Còn lưu truyền mãi hoang đường đến nay
QUYỂN HAI MƯƠI HAI
THIỆU TRỊ HOÀNG ÐẾ ( 1841- 1847)
Năm canh Tý(1840)khi ngài tạ thế
Cho đòi Trương Ðăng Quế vào cung
Rước hoàng thái tử Miên Tông
Chiếu theo di mệnh tấn phong ngôi trời
Vua lúc đó tuổi vừa băm bốn
Người thông minh tính vốn ôn hòa
Văn chương đáng bậc tài hoa
Siêng năng lo việc quốc gia suốt ngày
Oạng là con thứ hai Minh Mạng
Nối ngôi cha cáng đáng việc triều
Dưới tay quan chức cũng nhiều
Trung thành giúp rập mọi điều tận trung
Tạ Quang Cự hợp cùng Xuân Cẩn
Nguyễn Tri Phương binh trấn Cao Man
Trương Ðăng Quế bậc cận thần
Lại thêm Công Trứ cầm quân vững vàng
ƠƯ Trấn Tây, Thổ Man quấy rối
Trương Minh Giảng trở lại đất Miên
Xuy, Sức dấy loạn Kiên Giang
Nhiều nơi nổi dậy như đàn ong ve
Vua đã phê bãi binh ra khỏi
Ðất Cao Man tạm thối lui quân
An Giang di tản rút dần
Dựng thêm đồn lũy bên phần đất ta
Theo quân đi vượt qua biên giới
Trương Minh Giảng khi tới An Giang (1841)
Thẹn mình hờn giận ngổn ngang
Cáo đau, thác bệnh, suối vàng quyên sinh
Nước Chân Lạp bị Xiêm chiếm đóng(1845)
Dân thổ cư tìm sống sang ta
Khẩn cầu Nam Việt kéo qua
Sai Võ Văn Giai điều tra tình hình
Uẫn kéo binh dẫn đầu đi trước
Chỉ vài ngày lấy được Nam Vang
Trấn Tây quân Việt chận đường
Quân Xiêm hốt hoảng đầu hàng khắp nơi
Tướng Chất Tri sai người đến báo(1845)
Xin nghị hòa xếp giáo bãi binh
Hứa lui về lại nước mình
Trấn Tây trả lại với thành Nam Vang
Nguyễn Tri Phương truyền thu binh để
Năm Ðinh Mùi(1847)làm lễ tấn phong
Ngôi vua cho Nặc ong Ðôn
Vua ta xuống chiếu vương phong cho người
ƠƯ phương Nam trong ngoài tạm ổn
Việc đê điều là vốn nỗi lo
Bắc thành, Thanh Hóa lụt to(1846)
Truyền cho tu sửa để trừ lụt dâng
Bảo đại thần ở kinh và tỉnh
Nạn lũ trôi bàn tính cho xong
Cửu An đắp đập khơi sông
Ðắp thêm đất mới nới lòng mặt đê
Vua sai mở khoa thi võ học(1846)
Cho khắc truyền ấn quốc Ðại Nam
Văn Quan khai được mỏ vàng(1843)
Kiểm tra dân số kho tàng quốc gia(1841,1847)
Ðào Trí Phú đi qua Pháp để(1843)
Thảo luận về mua chiếc Ðiện Phi
Chiếc tàu hiện đại khó bì
Vận tốc cực mạnh ngay khi khởi hành
Tạo mẫu riêng cân đai phẩm phục
Lập công thức việc đúc súng đồng(1846)
Mời người đạo đức vào trong
Giúp dân khai hóa việc chung góp phần
Nền ngoại giao kết thân các nước
Ðất Trung Hoa vẫn được quan tâm
Sang Tàu sứ cử sang thăm
Bắc Kinh phó hội từ năm Nhâm Dần(1842)
Người Nam Bân nước là Thủy Xá(1846)
Cũng chọn làm sứ giả dưa sang
Chiêm Thành lại muốn tiến dâng
Ta cho hai nước được làm phiên vương
Ở Tây phương như Anh Cát Lợi(1845)
Sai sứ qua muốn nối bang giao
Nhân khi nước ấy có tàu
Gặp cơn bão biển trôi vào nước ta
Tháng tám qua có nhiều tàu chiến(1847)
Của nước Anh đến biển Tourane
Quốc thư cống phẩm đưa sang
Mong ta chấp thuận giao thương nước ngoài
Những năm trước mật sai chỉ dụ
Các tỉnh thành theo dõi giáo dân
Thừa sai thì phải theo chân
Aạm mưu phản động phải ngăn kịp thời
Nhưng tới đời nguyên niên Thiệu Trị
Lệnh cấm đạo nới nhẹ ít nhiều
Favin đại diện Pháp triều
Xin cho giảm án người theo đạo này
Vua Thiệu Trị một người nhân ái
Tha năm người vì nghĩa tiên quân
Thuở xưa họ đã theo chân
Phò Vương trong cảnh khốn cùng thất cơ
Cuộc giao hảo ban sơ khởi việc
Pháp cử sang hai chiếc chiến thuyền
Quốc thư chữ Hán dâng lên
Xin vua cho phép được truyền thánh kinh
Bỗng đang khi điều đình thương lượng
Thuyền của Tây nổ súng vào ta
Giương buồm vượt biển chạy xa
Vua quan nổi giận liền ra lệnh này
Xuống chỉ dụ : cấm ngay truyền đạo
Bắt những người che dấu Thừa Sai
Giáo dân, giám mục nhiều nơi
Nổi lên chống đối lệnh này của vua
Ít có vua như là Thiệu Trị
Oạng cũng là học sĩ uyên thâm
Lắm khi cùng với quần thần
Ðông Tây kim cổ luận bàn việc xưa
Là nhà thơ có nhiều tác phẩm
Cũng là người có lắm bài hay
Vua ra câu đố đến nay
Chưa ai giải được chuyện này thật không ?
Ðó là bài Vũ Trung Sơn Thủy
Ðược ra đề theo kiểu hồi văn
Liên hoàn một chút khó khăn
Ðọc thành sáu bốn(64) trắc bằng ra thơ
Bài thơ xưa nay treo ở viện
Lúc trước kia gọi viện Long An
Ngày nay thuộc viện bảo tàng
Nằm trong thành nội ở gần Hiễn Nhơn
Vua Thiệu Trị khi còn tại thế
Làm những điều đáng kể sau đây
Rút quân ra khỏi trấn Tây
Ðào sông đắp đập định ngày khai thông
Chỉnh đốn lại trong cung ngoài điện
Khẩn hoang vùng dọc biển miền Nam
Dạy điều nhân nghĩa khai tâm
Kiểm tra dân số để làm thống kê
TỰ ÐỨC HOÀNG ÐẾ ( 1847- 1885)@@@
Thái tử Thì lên ngôi hoàng đế
Tên Hồng Nhậm hậu duệ Gia Long
Ðược phong là Phước Tuy Công
Niên hiệu Tự Ðức nối dòng Nguyễn Vương
Hưởng ngai vàng tuổi đương mười chín
Dáng mảnh người bản tính thư sinh
Hiền lành nhân hậu chí tình
Khiêm cung hiếu thuận thông minh hơn người
Ðối với me,ỳ là người hiếu thảo
Việc nước nhà thường báo cho hay
Chép riêng lời mẹ hằng ngày
Quyển Từ huấn lục trong tay xem dần
Các đại thần như Phan Thanh Giản
Nguyễn Tri Phương còn vẳng tiếng thơm
Triều thần một dạ sắt son
Hoàng Diệu tuẫn tiết một lòng trung quân
Vua là người văn hay chữ tốt
Ðể lại đời ngót một ngàn trang
Khi vui xướng họa thơ văn
Thức khuya dậy sớm siêng năng việc triều
Sức thì yếu việc nhiều không xuể
Nên nhà vua chẳng thể đi xa
Dân tình chỉ được nghe qua
Còn như kinh lý quả là hiếm hoi
Sức khỏe ngài là điều bí ẩn
Vợ thì nhiều mà vẫn không con
Tuổi cao lực đã cạn mòn
Lựa người nối nghiệp nuôi con em mình
Triều Tự Ðức thịnh hành Nho học
Kẻ đương thời thích đọc từ chương
Văn thơ câu nệ khoa trường
Bế quan tỏa cảng ngày càng thoái lui
Xuống chiếu sai định thêm các ngạch
Với văn bằng thì đặt như sau
Thủ khoa, Bảng nhãn đỗ đầu
Thám hoa, Hoàng giáp đứng sau loại này
Gọi Tiến sĩ liền ngay sau đó
Thêm cử nhân, chót đổ Tú Tài(1847 ,1851)
Ðích thân vua chọn người hay
Tấn phong quan Trạng trong ngoài xướng danh
Vừa hoàn thành “Ðại Nam Hội Ðiển” (1856)
Ghi các điều Chế, Chiếu, Biểu, Nghi
Các điều lệ định trường quy
Chính danh mọi việc dễ bề an dân
Lập nhà thờ Hiền Thần, Trung Nghĩa(1857)
Lại cho tìm hậu duệ các quan
Thành, Chất, Văn Duyệt hàm oan
Nay cho con cháu chức hàm, tước quan
Hồi Tây Sơn có Võ Trường Toản(1852)
Một danh sư ở ẩn giữa đời
Học trò lắm kẻ nên người
Vua phong Tố Ðức lập nơi để thờ
Mấy năm đầu triều vua Tự Ðức
Một vài nơi cướp giựt nổi lên
Cao Bằng thổ phỉ phíatrên
Nông dân làm loạn dưới miền Hải Dương
ƠƯ Mỹ Lương có Lê Duy Cự
Ðược tôn làm Soái Chủ vùng này
Quân sư Bá Quát dưới tay
Chiêu quân chiếm lấy Sơn Tây bấy giờ
Cao Bá Quát nhà thơ lỗi lạc
Người Gia Lâm , Kinh Bắc ngoại thành
“Chu Thần Thi Tập” nỗi danh
Nói lên được cái nhân sinh bấy giờ
Là quân sư cho Lê Duy Cự
Bị tuyên án xữ tử chém treo
Ghép vào tội phản Hòang Triều
Giúp quân phiến lọan làm điều tác oai
Sau biến cố dưới thời Thiệu Trị
VuaTự Ðức kỳ thị nhiều hơn
Luật ra cấm đạo trong dân
Với điều phân sáp giam cầm dã man
Ba Giám Mục công dân nước Pháp
Bị triều đình đàn áp tả tơi
Bắt giam riêng biệt một nơi
Rồi đem xữ giảo từng người răng đe
Tin thảm sát bay về Pháp Quốc
Nã Phá Luân lập tức ra quân
Binh thuyền sửa soạn đưa sang
Dọn đuờng xâm lược dần dần nước ta
Montigny cử qua thương thuyết
Ðến Ðại Nam xin để bang giao
Cửa Hàn thuyền chiến theo vào
Sứ thần của Pháp dâng thư lên ngài
Vua từ chối truyền sai chuẩn bị
Lập đồn lũy bố trí tuần tra
Thần công đặt vịnh Sơn Trà
Cửa Hàn cửa Thuận quân ta canh phòng
Tàu của Pháp vào trong Cửa Thuận
Ði lòng vòng do thám nước ta
Có khi đến bải Sơn Chà
Thường xuyên lảng vảng xa xa bên ngoài
Ở Biên Hòa cho người lên bộ
Ðến Quãng Bình neo lại điều nghiên
Rồi qua Nam Ðịnh , Thái Bình
Lên bờ khảo sát địa hình ra sao
PHÁP ÐÁNH ÐÀ NẲNG (1858)
Nã Phá Luân mỡ đầu cuộc chiến
Cử đi ngay pháo hạm chiến thuyền
Genouilly Trung Tướng toàn quyền
Ba ngàn lính thủy được đem theo cùng
Espagnol hợp chung với Pháp
Hội ý nhau bèn lập liên quân
Quảng Nam trực chỉ dong buồm
Ra sức bắn phá hạ đồn An-Ton(1858)
Lê Ðình Lý cùng quan Ðào Trí
Dàn binh vùng Cẩm Lệ giao tranh
Chẳng may trúng đạn trên thành
Rút về hậu cứ chia quân chặn đường
Nguyễn Tri Phương tăng cường giữ ải
Ðồn Liên Trì, An Hải, Trấn Quan
Dằng dai lựa thế cầm chân
Lính Tây bệnh dịch thất thần rút ngay
QUYỂN HAI MƯƠI BA
PHÁP CHIẾM GIA ÐỊNH (1859)
Năm Kỷ Mùi bỏ vây Ðà Nẳng(1859)
Giặc theo đường kéo thẳng vào Nam
Hành quân đánh thốc Phiên An
Sài Gòn, Gia Ðịnh chúng bàn lấy luôn
Người chỉ huy là quan hộ đốc
Thấy thế giặc mỗi lúc một đông
Rút vào tử thủ bên trong
Dần dần cô thế tử vong trong thành
Giặc chiếm xong phá dinh đốt trại
Hủy kho lương của cải đem đi
Truyền cho Trung Tá Berry
Ðóng quân tại chỗ chỉ huy vùng này
Genouilly được thay người khác
Thiếu tướng Page ủy thác nghị hòa
Ước thơ mười một khoản là
Cắt đất , cho phép người ta ra vào
Vua ướm hỏi : muốn hòa hay chiến ?
Việc trù trừ chẳng tiến tới đâu
Ðợi thư phúc đáp quá lâu
Sứ thần Pháp quốc xuống tàu ra đi
Năm Tân Dậu(1861) giặc về Gia Ðịnh
Tổng chỉ huy : tư lịnh Charner
Nam Kỳ giặc muốn lăm le
Ðiều nghiên kế hoạch phân chia từng người
PHÁP TẤN CÔNG ÐỒN KỲ HÒA
THANH TOÁN ÐỊNH TƯỜNG
LẤY TRỌN BA TỈNH MIỀN ÐÔNG
(Biên Hòa , Gia Ðịnh , Ðịnh Tường)
Ðồn Kỳ Hòa, Cây Mai, Kiến Phước
Ðịch tập trung hỏa lực tấn công
Khói mù đạn pháo nổ tung
Quân Nam cố thủ ở trong chiến hào
Súng thần công òa ào trực chỉ
Giặc tràn vào chiến lũy phe ta
Hai bên đánh xáp lá cà
Quân Nam yếu sức rút ra khỏi đồn
Nguyễn Tri Phương linh hồn kháng chiến
Ðang theo dõi diễn biến từng giờ
Ðiều binh tiến thoái phất cờ
Cùng quan tham tán dặn dò ba quân
Rồi tướng quân chẳng may trúng đạn
Quan Tán lý vong mạng trước đồn
Nguyễn Duy, Thế Hiển tử thương
Quân ta tan tác rút luôn ra ngoài
Ðồn Kỳ Hòa giờ đây thất thủ
Nguyễn Tri Phuơng rút khỏi Phiên An
Biên Hòa dừng lại dưỡng quân
Bổ sung thêm được gần ngàn tinh binh
ƠƯ triều đình nghe tin rúng động
Lời điều trần trước chẳng thèm nghe
Bá Nghi đã chỉ mối nguy
Giặc luôn cơ động, ta thì ngồi yên
ƠƯ Gia Ðịnh, giặc đem quân đánh
Nơi cửa Hàn, thế mạnh dương oai
Cát Bà cửa Thuận tới lui
Chiến thuyền của Pháp luôn ngoài biển Ðông
Từ Sài Gòn, giặc chia mấy mũi
ƠƯ phía tây lấn tới Hốc Môn
Ven sông Ngưu Chữ đóng đồn
Vượt sông Vàm Cỏ vào đường Long An
Giặc nghênh ngang như vào nhà trống
Sửa soạn quân vây hãm Ðịnh Tường
Tấn công đồn ở Tân Hương
Tiến qua cứ điểm Trung Lương dễ dàng
Vàm Cỏ Tây vượt sang để đánh
Từ Cửa Ðại tiến đến Tịnh Giang
Bắt quan tướng quốc Công Nhàn
Mỹ Tho bỏ ngõ Nam quân chạy dài
Mất Ðịnh Tường tin bay tới Huế
Cả triều đình không thể làm ngơ
Cử ngay Bộ Hộ Thượng Thơ
Ý vua cũng hiểu phải lo đề phòng
ƠƯ miền Ðông, quân ta cố thủ
Từ Ðồng Nai rán giữ Mỹ Hoà
Miền Tây, giặc đã dần dà
Gò Công tiến chiếm, đánh qua Tháp Mười
NAM KỲ KHÁNG CHIẾN
Bỏ Mỹ Tho, ta lui Cai Lậy
Lệnh triều đình giữ lấy Vĩnh Long
Nghĩa quân cát cứ Ba Giồng
Quan gia Phủ Cậu một lòng vì dân
Trương Công Ðịnh cầm quân chống chọi
Ðất Gò Công, Huyện Toại chiêu binh
Duy Dương viên lại triều đình
Thủ khoa Huân cử điều hành việc quân
Nguyễn Trung Trực mấy lần dụ địch
Ðội nghĩa thuyền tập kích trên sông
Espérance đang ở giữa giòng
Du kích phóng lửa tấn công , tàu chìm
Vùng Cái Thia thuộc miền Mỹ Quý
Giặc tiến dần về phía Vĩnh Long
Lebris đại tá tập trung
Bọn nguời theo giặc tấn công Nam triều
Tướng Bonard được điều sang thế
Thay Charner tổng chỉ huy quân
Viễn chinh của Pháp đang cần
Ðổi thay chiến lược nuốt dần miền Nam
Giặc âm thầm chiêu quân phản nghịch
Lập ra đoàn du kích quấy ta
Lấy tiền, chức tước ban ra
Tuyên truyền giết đạo âm mưu gian tà
Ðánh Biên Hòa, tiến ra Bà Rịa
Lấy Vũng Tàu, cứ địa Bình Tuy
Miền Ðông nay đã lâm nguy
Vĩnh Long địch chiếm tin về kinh đô
Với kẻ thù vô cùng xa lạ
Và khí tài chúng quá tối tân
Mưu mô chiến thuật điều quân
Khác xa các nước lân bang quanh mình
Cả triều đình hoang mang bối rối
Trước tình hình tiến thối lưỡng nan
Giặc Tây chiếm nửa miền Nam
Nghị hoà hay chiến phải làm gì đây ?
Lúc trước đó, có người dâng kế
Xin đức Vua liệu thế về sau
Nghị hòa hơn để thua đau
Vì so với giặc kém nhau quá nhiều
Xin vua theo gương người Nhật bản
Và Trung Quốc mà tạm bang giao
Ðể cho nhiều nước cùng vào
Tự khắc thành thế vạc dầu ba chân
Ðất không mất mà quân vẫn giữ
Việc giao thương thì cứ phồn vinh
Người ta đem tới văn minh
Giao lưu văn hóa dân mình lợi thêm
Vua có xem nhưng không hiểu biết
Lời điều trần tâm huyết đưa ra
Lời hay thì lại bỏ qua
Bế qua tỏa cảng riêng ta một mình
Ðến bây giờ, triều đình mới thấy
Bọn giặc Tây cướp lấy vương quyền
Biên Hòa, Gia Ðịnh, Trấn Biên
Ðịnh Tường, Cai Lậy, thêm miền Vĩnh Long
HÒA ƯỚC NHÂM TUẤT (1862)
Bonard cử Simon trung tá
ƠƯ trong vai sứ giả chiêu hàng
Ðem thuyền neo ở sông Hương
Buộc ta phải ký và nhường đất cho
Giao Ðịnh Tường và trao Gia Ðịnh
Nhượng Biên Hòa, các tỉnh phía Nam
Ðất đai địch cứ lấn dần
Biến thành thuộc địa thực dân cả rồi
Phan Thanh Giản vua sai thương thuyết
Thảo sơ qua Hòa Ước tay ba
Espagnol, Pháp và ta
Ðịnh năm Nhâm Tuất(1862)trình qua triều đình
Hòa ước ấy chia thành ba bản
Mười hai điều , các khoản như sau
Tự do giảng đạo , ra , vào
Buộc ta cắt đất đễ giao cho người
Phan Thanh Giảng với tài tranh cãi
Theo hòa ước đòi lại Vĩnh Long
Vua sai ông ấy vào trong
Buộc Ariès giao Vĩnh Long về triều
Mất quá nhiều theo trong hòa ước
Triệu các quan tính chước nghị bàn
Chọn ngay sứ bộ gởi sang
Paris, Madrid lên đuờng thuyết du
Ðoàn sứ bộ giả từ qua Pháp
Phan Thanh Giản trong chức trưởng đoàn
Tham tri Phú Thứ phó quan
Thọ Tường, Vĩnh Ký liệu đường thông ngôn
Nã Phá Luân truyền cho bệ kiến
Sứ thần ta đánh tiếng lên rằng :
“Vì đức độ lẫn tài năng
Xin cho chuộc lại mấy vùng đất đai”
Khéo tìm lời, Pháp Hoàng từ chối
Phan Thanh Giản bối rối vô cùng
Những lời du thuyết tiêu vong
Bao nhiêu công sức mất không cả rồi
Từ nước ngoài quay về lại Huế
Yết kiến vua sự thể đầu đuôi
Trước triều ông đã trình bày
Rằng vua nước Pháp tìm lời nói quanh
Riêng Phú Thứ chép thành một tập
Viết lại điều mắt thấy tai nghe
“Ðông Tây Luận” một bài thi
Vẫn còn mang tính khinh khi người ngoài
Grandière trong vai thiếu tướng
Ðược cử sang thanh toán n ghĩa quân
Tuân theo lệnh Nã Phá Luân
Bác lời thỉnh nguyện sứ thần của ta
Viên Toàn Quyền là Aubaret
Trước sân chầu lễ phép tâu vua
Mấy điều hòa ước đã đưa
Giữ nguyên không đổi xin vua xét tường
Theo như lời của hoàng đế Pháp
Vẫn duy trì hòa ước ký xong
Chỉ cho trả lại Vĩnh Long
Còn ba tỉnh khác xin đừng bàn thêm
PHÁP CHIẾM BA TỈNH MIỀN TÂY
Muốn đoạt luôn những miền còn lại
Năm Ðinh Mão(1867) đánh lấy miền Tây
Tối hậu thư ,Vie gởi ngay
Nhưng vua Tự Ðức để ngoài lời đe
Phan Thanh Giản cử đi Kinh Lược
Gởi thêm quân vào trước trong Nam
Ðắp thành, phòng thủ lo toan
Ghé qua Gia Ðịnh hỏi han tình hình
Bọn giặc Pháp nửa đêm rạng sáng
Lệnh khởi binh tiến đánh Vĩnh Long
Một đoàn thuyền chiến rợp sông
Thủy quân lục chiến tấn công vào thành
Quan Kinh Lược không đành nhìn thấy
Cảnh thịt rơi, máu chảy dân mình
Cho nên ông phải thân chinh
Mở lời đàm phán, hạ mình cứu nguy
Thế giặc mạnh màng chi thương thuyết
Cứ tràn vào cố quyết chiếm luôn
Hà Tiên, Châu Ðốc quy hàng
Tóm thâu sáu tỉnh miền Nam bấy giờ
Oạng không ngờ thực dân tráo trở
Khiến cho ông đau khổ vô cùng
Nhịn ăn đến lúc lâm chung
AÔo bào, ấn triện gởi dâng về triều
Nguyễn Ðình Chiểu giấy điều chấp bút
Viết một bài thơ khóc họ Phan
Còn vua và các đình thần
Trách Phan không quyết đánh quân bạo tàn
MIỀN NAM DƯỚI THỜI THUỘC ÐỊA
Ðất miền Nam trở thành thuộc địa
Pháp bắt đầu nghĩ kế an dân
Chính quyền quan lại đặt dần
Hương , ấp chiêu mộ Việt gian tham tiền
Tỉnh Gia Ðịnh Trấn Biên thay đổi
Chọn Sài Gòn đất mới làm kinh
San đường, lập chợ, xây thành
Khơi sông, lập cảng, dựng nhanh nhà tù
Dinh Toàn quyền làm khu Soái Phủ
Lập nhà thương , mở phố bán buôn
Xây cầu, đường sá, khai mương
Nhà thờ Thiên Chúa, gác chuông chọc trời
Ngạch Niết ty bổ người cai trị
Trường Tabert dạy trẻ Tây phương
Khuyến thêm tiểu thủ công thương
Lập ra chi nhánh Ðông Dương Ngân Hàng
Thành lập ban Hội đồng Quản Hạt
Các phép tắc dựa luật của Tây
Xử dân theo kiểu luật này
Hội đồng hàng tỉnh bầu ngay từng miền
Ðể thông tin tuyên truyền các huyện
Ðặt đường dây điện tín nhiều nơi
Công ty tàu thủy đường dài
Nam Vang, Thượng Hải lập ngay tức thời
Xây thêm đồn sai người cắt đặt
Thành Chí Hòa cho đắp lên cao
Chung quanh xây bức tuờng rào
Thép gai, lô cốt, cổng chào thật to
Chẳng mấy hồi dân ưa nếp sống
Sành tiếng Tây, nói ngọng tiếng ta
Phần đông quan lại xin qua
Nhập vào Pháp tịch như là dân Tây
Trước nhục nước ngoại lai xâm chiếm
Dân Nam Kỳ kháng chiến vùng lên
Ðông, Tây khắp cả hai miền
Nghĩa quân hoạt động, bưng biền hội quân
Diệt thực dân, dựng lên khu chiến
Cắt đứt đường tiếp viện vùng sâu
Nghĩa binh tay góp sức vào
Ðể ngăn quân giặc đào hào diệt gian
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng
login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin
ghi danh.