|
Thơ xướng họaHuệ Thu Họa Thơ Vi Khuê
#1 |
* đăng lúc 05:37:10 PM, sept 09, 2007 * Số lần xem: 839
Huệ Thu Họa Thơ Vi Khuê
Bài Xướng: VI KHUÊ
Bài Họa : Huệ Thu
Bài Xướng 1
Nguyễn Nhược Pháp
(tác giả bài thơ Chùa Hương)
Một áng thơ năm chữ tuyệt vời
Ðưa người lên vút đỉnh thơ chơi
Ðóa hoa tình ái đơm chùa núi
Câu niệm nam mô thoảng gió trời
Cái đẹp cái thanh ngoài cái tục
Trang tiên trang bụt giữa trang đời
Chỉ ngần ấy gửi hương cho gió
Ðủ ngát thơm hoài Nhược Pháp ơi!
Vi Khuê
Bài Họa
Thơ riêng một giọng cứ vời vời (*)
Như thể là đùa như thể chơi
Ðã tưởng thơm lừng muôn dặm đất
Mà sao lạnh cả bốn phương trời
Chỉ dăm vận chữ, vài ngàn chữ
Lại mấy mươi năm một cuộc đời
Ông Vĩnh, ông Giang thua bác hết (**)
Tài năng Nhược Pháp lớn chao ơi!
(*) Nguyễn Nhược Pháp chỉ có một tập thơ
(**) Nguyễn Văn Vĩnh là bố và Nguyễn Văn Giang là anh của
Nguyễn Nhược Pháp nhưng hai người này không nổi tiếng bằng
Huệ Thu
Bài Xướng 2
Nhớ Về Cung Oán
Ráng đỏ chiều xuân hiện cảnh tiên
Lại giòng sông biếc cũng đào nguyên
Xuyên qua phố bụi vào phòng tịnh
Cùng với người thơ hẹn bút thiền
Vòi vọi non xanh tàn cổ thụ
Não nùng chiều tím giọng thuyền quyên
Ngàn năm Cung Oán còn Ngâm Khúc
Muốn đạp tiêu phòng dễ đã nghiêng
Vi Khuê
Bài Họa
Chẳng tiên thì cũng đáng thơ tiên
Giáng ngọc luôn lưu giữa kỷ nguyên
Cứ tưởng sắc hương đầy vẻ tục
Mà sao hương vị đượm mùi thiền
Hương thơm từng đoạn lòng Ban Cố
Ðàn thắm bao cung máu Ðỗ Quyên
Ngòi bút tài hoa là thế đó
Ngàn vàng thuở ấy tưởng xô nghiêng
Huệ Thu
Bài Xướng 3
Huyền Trân Công Chúa
Nước non ngàn dặm tưởng Huyền Trân
Mỗi bước chân, thơ chuyển một vần
Ngần ấy niềm quên chừng khó sánh
Bao nhiêu nỗi nhớ dễ mà cân
Hai châu Ô Lý, tình vương lệ
Nửa khúc Nam Ai, tứ nhập thần
Sắc nước hương trời thơm Việt sử
Thương ai, lại nhớ đức vua Trần
Vi Khuê
Bài Họa 3
Gái Họ Trần
Một gái Huyền Trân đã tuyệt trân!
Hai châu Ô Lý bỗng xoay vần
Tài hoa không lẽ quên hồn nước
Nhan sắc sao đành nhẹ trước cân!
Bởi đó tình ân càng nghĩa nặng
Từ nay rượu thánh lại thơ thần.
Khắc Chung còn mãi trong tình sử
Càng vẻ vang thêm gái họ Trần
Huệ Thu
Bài Xướng 4
Tú Xương
“Ta nhớ người, người nhớ ta không ?”
Năm canh hiu hắt ngọn đèn chong
Chí chàng trai ấy dâng sông núi
Nguyện tấm lòng đây hiến Lạc Hồng
Mực nọ nghe còn vương mãi lệ
“Sông kia giờ đã hóa nên đồng”
Kìa ai thơ thẩn bên sông đó
“Nuôi đủ năm con với một chồng” *
* Các câu trong “...”là thơ Tú Xương
Vi Khuê
Bài Họa 4
Tú Xương
Chỉ biết ăn chơi ? Có phải không ?
Mà sao đêm cứ bấc ngời chong ?
Câu thơ dám chọc phường lương đống *
Giòng máu đem tô giống Lạc Hồng
Ðêm tối vẫn chờ cây nến đốt
Mùa Thu lại rụng lá ngô đồng .
Mới hay tài tuấn trong thiên hạ
Món nợ giang sơn vẫn chất chồng .
* lương đống : rường cột (nghĩa bóng : người quan trọng mất còn
cho một nước những vị muốn nói mấy vị quan to)
Huệ Thu
Bài Xướng 5
Nguyễn Trãi
Gương cũ nay còn dấu Nhị Khê
Long lanh ánh sáng Lạc Hồng kia
Thù nhà một thuở lời cha dặn
Nợ nước mười năm bóng nguyệt thề
Ảnh nước hoa in * xòe cánh bụt
Trang thơ lệ đẫm quyện hồn quê
Bình Ngô Ðại Cáo hồn dân tộc
Muôn thuở trầm hương ngát nẻo về
* trích trong bài Hoa Râm Bụt thơ Nguyễn Trãi
Vi Khuê
Bài Họa 5
Nguyễn Trãi
Ðường đi khúc khuỷu lại nhiêu khê
Thăm lại ngàn năm chuyện trước kia
Thù nước vẫn mong còn nhớ mãi
Lòng son xin nguyện mấy lời thề
Nghĩa nhân thêm chuyện tình trăm ngả
Cuồng bạo không còn, đẹp lối quê
Một khúc Bình Ngô, trang sử chép
Nén hương cúi thắp bóng xưa về
Huệ Thu
Bài Xướng 6
Vũ Hoàng Chương
Nhớ xưa ai trẩy hội * chùa Hương
Lại nhớ ai say * cuộc hý trường
Rượu đắng lưỡi còn the thế vị
Rừng phong * thu đã nhuốm tà dương
Hỡi ơi mây * nổi trò hư vọng
Ra thế lòng son nguyện cúng dường
Một cánh hạc vàng ** ai cưỡi vượt
Ngàn năm thơm vạt áo Hoàng Chương
* Tên các thi phẩm của Vũ Hoàng Chương
** Vũ Hoàng Chương dịch bài Hoàng Hạc Lâu bản dịch thật hay
Vi Khuê
Bài Họa 6
Vũ Hoàng Chương
Chùa Hương xa lắm cảnh sông Hương
Tỉnh giữa cơn say giấc mộng trường
Tim nghẹn bấc giong trong dị hỏa (*)
Rừng phong thơ dựng giữa Ðông Dương
Lửa thiêu sót lại dù hư huyễn
Dạ sắc mang theo để cúng dường
Họ Vũ thơ thần đâu dám vượt
Nhớ ai như nhớ khách văn chương
(*) lửa thuốc phiện
Huệ Thu
Bài Xướng 7
Ðoàn Thị Ðiểm
Trắng một làn da tiếng vỗ giòn
Lại trong trắng cả tấm lòng son
Trắng phơi tờ giấy niềm thơ gởi
Trắng đợi tin chàng tiếng ngựa bon
Trắng khúc chinh phu gieo vận Hán
Trắng câu chinh phụ diễn lời Nôm
Trắng ơi màu trắng ai còn điểm
Ðể trắng muôn đời nguyện nước non
Vi Khuê
Bài Họa 7
Ðoàn Thị Ðiểm
Tiếng vỗ ngàn xưa cũng vẫn giòn
Ngàn năm còn mãi tấm lòng son
Nỗi buồn cô phụ vì ai viết ?
Vó ngựa chinh phu cứ mãi bon
Thơ Ðặng dù hay quên chữ Hán(*)
Bà Ðoàn đã khéo lựa lời Nôm (**)
Bao năm khói lửa tàn chưa nhỉ ?
Một tiếng than dài giữa núi non
(*)Ðặng Trần Côn (**) Ðoàn Thị Ðiểm
Huệ Thu
Bài Xướng 8
Bà Huyện Thanh Quan
Một tấm lòng hoa nặng nỗi niềm
Niềm non nỗi nước, mảnh tình riêng
Trong cơn gió bụi chìm hương lửa
Giữa cảnh phong ba lạnh mối giềng
Cung báo quốc não nùng điệu quốc
Giọng thuyền quyên khắc khoải lời quyên
Dừng chân đứng lại, ngùi trông lại
Ðể lại lời thơ vạn cổ truyền
Vi Khuê
Bài Họa 8
Bà Huyện Thanh Quan
Thanh Quan tâm sự biết bao niềm
Phận gái làm thầy một cõi riêng *
Sao đã nên khôn, sao lại dại ?
Cứ tìm ra mối chẳng quên giềng
Chưa buồn vì chuyện ba cơn mộng
Ðâu nỡ ngây vì một giọng quyên
Một chữ hý trường bao nỗi hận
Câu thơ tao nhã mãi lưu truyền
* Bà Huyện Thanh Quan là thầy dạy vua (Thái Tử) học ở trong cung
Huệ Thu
Bài Xướng 9
Tản Ðà
Sông Ðà núi Tản đúc nên thơ
Nên bậc tao nhân của bút tờ
Cái hạc vút xòe trên đỉnh mộng
Con thuyền lơ lửng giữa giòng mơ
Ðã nên chữ hiếu cùng tiên tổ
Còn đẹp vần trung với cõi bờ
Thắm mãi lời thề non nước nhỉ
Bức dư đồ há dễ thờ ơ
Vi Khuê
Bài Họa 9
Núi Tản Sông Đà
Mộng con mộng lớn, mộng là thơ
Mấy vạn bài thơ , mấy vạn tờ
Núi Tản bao lần trăng đợi gió
Sông Ðà bao thuở nước chìm mơ !
Rằng trung rằng hiếu đà mong trọn
Chữ lợi chữ danh chẳng có bờ
Non nước lời thề còn mãi đó
Hương sơn phong cảnh chẳng thờ ơ .
Huệ Thu
Sài Môn Thất Trung Thu 2007
|
|
Ý kiến bạn đọcVui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
|
|