Tô Đông Pha tức Tô Thức 蘇軾 (1036-1101) tự là Tử Chiêm 子瞻, hiệu là Đông Pha cư sĩ 東坡居士.Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.
Thuỷ điệu ca đầu - Trung thu
水調歌頭-中秋 |
Thuỷ điệu ca đầu - Trung thu |
Thuỷ điệu ca đầu - Trung thu |
明月幾時有,
把酒問青天。 不知天上宮闕, 今夕是何年。 我欲乘風歸去, 又恐瓊樓玉宇, 高處不勝寒。 起舞弄清影, 何似在人間。 轉朱閣, 低綺戶, 照無眠。 不應有恨, 何事長向別時圓。 人有悲歡離合, 月有陰晴圓缺, 此事古難全。 但願人長久, 千里共嬋娟。 |
Minh nguyệt kỷ thời hữu ?
Bả tửu vấn thanh thiên. Bất tri thiên thượng cung khuyết, Kim tịch thị hà niên. Ngã dục thừa phong quy khứ, Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ, Cao xứ bất thắng hàn. Khởi vũ lộng thanh ảnh, Hà tự tại nhân gian. Chuyển chu các, Đê ỷ hộ, Chiếu vô miên. Bất ưng hữu hận, Hà sự trường hướng biệt thời viên. Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp, Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết, Thử sự cổ nan toàn. Đán nguyện nhân trường cửu, Thiên lý cộng thiền quyên. |
Trăng sáng bao giờ có?
Nâng chén hỏi trời cao Chẳng hay trên đây cung khuyết Đêm đó nhằm năm nao? Rắp định cưỡi mây lên đến Chỉ sợ lầu quỳnh điện ngọc Cao ngất lạnh lùng sao? Đứng múa vời thanh ảnh Trần thế khác chi đâu. Xoay gác đỏ Luồn song lụa Rọi tìm nhau Chẳng nên cừu hận Sao lại nhằm tỏ lúc xa nhau Người có buồn, vui, ly, hợp Trăng có tỏ, mờ, tròn, khuyết Tự cổ vẹn toàn đâu Chỉ nguyện người trường cửu Ngàn dặm dưới trăng thâu. |
----------------------------------------------------------------------------------------
Định phong ba
------------------------------------------------------------------------------------------
Bốc toán tử
Dịch nghĩa : Tuệ Sĩ
Trăng sơ huyền treo trên ngọn ngô đồng thưa lá.
Trời khuya, người bắt đầu thưa vắng, chỉ nghe tiếng tí tách của đồng hồ canh chừng giờ đêm
Chỉ thấy ẩn sĩ một mình đi lui đi tới
Thấp thoáng như bóng chim hồng lẻ loi
Giật mình quay đầu nhìn lại
Ngậm ngùi giữa lúc mọi người đang say ngủ
Lần lựa hết những cành cây trơ trọi, mà không chịu đậu,
Một mình bơ vơ trên cồn cát.
Dịch thơ:
Trăng sơ treo đỉnh ngô đồng
Giọt khuya tí tách người lần lần thưa
U nhân đi lại ngẩn ngơ
Dáng như hồng hạc thẫn thờ lẻ loi
Người đi đầu ngoảnh u hoài
Thế gian tịch mịch biết ai bạn cùng
---------------------------------------------------------------------------------
Giang thành tử - Mật châu xuất liệp
Định phong ba
定風波
|
Định phong ba
|
Định phong ba
|
莫聽穿林打葉聲,
何妨吟嘯且徐行。 竹杖芒鞋輕勝馬, 誰怕! 一蓑煙雨任平生。 料峭春風吹酒醒, 微冷, 山頭斜照卻相迎。 回首向來蕭瑟處, 歸去, 也無風雨也無晴。 |
Mạc thính xuyên lâm đả diệp thanh,
Hà phương ngâm khiếu thả từ hành. Trúc trượng mang hài khinh thắng mã, Thuỳ phạ! Nhất thoa yên vũ nhậm bình sinh. Liệu tiễu xuân phong xuy tửu tỉnh, Vi lãnh, Sơn đầu tà chiếu khước tương nghinh. Hồi đầu hướng lai tiêu sắt xứ, Quy khứ, Dã vô phong vũ dã vô tình. |
Rừng động đừng nghe chuyển lá cành
Ngâm nga chậm bước chẳng đi nhanh Gậy trúc giầy rơm say chếnh choáng Nào ngán Áo tơi mưa khói mặc bình sinh Vi vút gió xuân xay chợt tỉnh Hơi lạnh Đầu non bóng ngả cũng tương nghinh Ngoảnh lại những nơi tiêu sắt trước Rời bước Cũng không mưa gió cũng không hanh |
Bốc toán tử
卜算子
|
Bốc toán tử
|
Bốc toán tử
|
缺月挂疏桐,
漏盡人初靜。 誰見幽人獨來往, 飄渺孤鴻影。 驚起卻回頭, 有恨無人省。 揀盡寒枝不肯棲, 寂寞沙洲冷。 |
Khuyết nguyệt quái sơ đồng,
Lậu tận nhân sơ tĩnh. Thuỳ kiến u nhân độc vãng lai, Phiêu diểu cô hồng ảnh. Kinh khởi khước hồi đầu, Hữu hận vô nhân tỉnh. Giản tận hàn chi bất khẳng thê, Tịch mịch sa châu đinh. |
Trăng khuyết rọi ngô đồng,
Lậu cạn người im thít. Thoáng thấy u nhân một tới lui, Trơ bóng hồng mờ mịt. Chợt sợ lại quay đầu, Có hận không người biết. Chọn khắp cành cây chẳng đâu yên, Vắng lặng khi bơn cát. |
Dịch nghĩa : Tuệ Sĩ
Trăng sơ huyền treo trên ngọn ngô đồng thưa lá.
Trời khuya, người bắt đầu thưa vắng, chỉ nghe tiếng tí tách của đồng hồ canh chừng giờ đêm
Chỉ thấy ẩn sĩ một mình đi lui đi tới
Thấp thoáng như bóng chim hồng lẻ loi
Giật mình quay đầu nhìn lại
Ngậm ngùi giữa lúc mọi người đang say ngủ
Lần lựa hết những cành cây trơ trọi, mà không chịu đậu,
Một mình bơ vơ trên cồn cát.
Dịch thơ:
Trăng sơ treo đỉnh ngô đồng
Giọt khuya tí tách người lần lần thưa
U nhân đi lại ngẩn ngơ
Dáng như hồng hạc thẫn thờ lẻ loi
Người đi đầu ngoảnh u hoài
Thế gian tịch mịch biết ai bạn cùng
---------------------------------------------------------------------------------
Giang thành tử - Mật châu xuất liệp
江城子-密州出獵
|
Giang thành tử - Mật châu xuất liệp
|
Giang thành tử - Đi săn ở Mật châu
|
老夫聊發少年狂,
左牽黃, 右擎蒼, 錦帽貂裘, 千騎卷平岡。 為報傾城隨太守, 親射虎, 看孫郎。 酒酣胸膽尚開張, 鬢微霜, 又何妨! 持節雲中, 何日遣馮唐? 會挽雕弓如滿月, 西北望, 射天狼。 |
Lão phu liễu phát thiếu niên cuồng,
Tả khiên hoàng, Hữu kình thương, Cẩm mạo điêu cầu, Thiên kỵ quyển bình cương. Vị báo khuynh thành tùy thái thú, Thân xạ hổ, Khán Tôn lang. Tửu hàm hung đởm thượng khai trương, Mấn vi sương, Hựu hà phương ? Trì tiết Vân Trung, Hà nhật khiển Phùng Đường ? Hội vãn điêu cung như mãn nguyệt, Tây bắc vọng, Xạ Thiên Lang. |
Già này giở thói trẻ ngông cuồng,
Giắt chó vàng, Mang chim ưng, Mũ gấm áo cừu, Ngàn ngựa ruổi bãi bằng. Đáp lại cả thành theo quan phủ, Tay bắn hổ, Vẻ kiêu hùng. Rượu say gan dạ chính đang hăng, Tóc đốm sương, Truyện coi thường. Ra sứ Vân Trung, Ngày nào sai đến Phùng Đường ? Cung cứng co lên như vàng nguyệt, Miền Tây Bắc, Bắn sao Lang. |