Tùng Thiện Vương tức Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819 – 1870), tự Thận Minh, Trọng Uyên, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử. Ông là con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, và là em vua Thiệu Trị đồng thời là một nhà thơ Việt Nam thời nhà Nguyễn. ........
Ông sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão (11 tháng 12 năm 1819) tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Ngợn [1]. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Miên Thẩm.
Năm lên bảy tuổi, Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường, được thầy Thân Văn Quyền [2] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới 8 tuổi (1827), nhân theo hầu vua dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao thi, rất được tán thưởng.
Năm 1839, ông được phong Tùng Quốc Công, mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế.
Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, Nguyễn Phúc Trinh Thận tức nữ sĩ Mai Am và Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm.
Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện Công.
Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường.
Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy (sử cũ gọi là giặc Chày Vôi) nhằm lật đổ vua Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội.
Vua Tự Đức không kết tội chỉ nói ông chọn rễ không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm. Suốt tám năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày.
Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (30 tháng 4 năm 1870) hưởng dương 51 tuổi.
Năm 1878, ông được vua Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận Vương.
Năm 1929, vua Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện Vương, tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.
Sự nghiệp trước tác của Tùng Thiện Vương rất phong phú (14 tập). Trong số đó đáng kể là Thương Sơn thi tập, gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm khác: Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương Sơn văn di v.v...
|
|
Mộ Tùng Thiện Vương ở gần chùa Từ Hiếu, Huế.
Thơ của ông dù viết theo thể loại nào (hành, dao, thán, từ…), dù mang nội dung cảm hoài, ngôn chí hay thù tạc...tất cả đều có văn pháp giản dị, ý tứ thâm sâu, chữ nghĩa chọn lọc, đều mang tính hiện thực cao (rất gần với thơ Đỗ Phủ thời nhà Đường), chứa đựng tinh thần yêu nước, thương dân, hết lòng vì bè bạn. Trích:
Sớm vừa dâng "tiền trầu"
Tối lại dâng "tiền trầu"
Quan trên có xơi trầu,
Dân dưới mới sạch oan... (Phù lưu tiền hành)
Hay như:
Trong vườn tre tựa núi gò
Vác ra, tiền chẳng trả cho đồng nào
Nín thinh thì khổ xiết bao
Nói ra, roi sẽ vụt vào chú thôi
Ôi, than ôi!
Bước chân về nước mắt rơi đầm đìa... (Mại trúc dao)
Hoặc:
Núi cao, vị nước độc
Chó sói, cọp rình rập hai bên đường
Áo rách không che được ống chân
Mặt vàng, da thịt khô héo
Chỉ cầu đủ nộp thuế...
Cay đắng thay thuế thường khó nộp đủ
Đành chịu làm tàn tật tấm thân hèn... (Kim hộ thán)
Và:
Thôn Nam có cọp về nhiễu hại
Dân làm đơn cáo với quan trên
Một đàn lính phủ kéo lên...
Toàn dân gạo rượu để dành lính xơi
Hôm sau cọp tới lui trong núi
Dân Bắc thôn đều phải nín thinh
Cam tâm để cọp hoành hành
Dẫu người có chết, gia đình còn no... (Bộ hổ từ)
Bên cạnh tai ách áp bức, nhũng nhiễu, bóc lột của tầng lớp trên; người dân còn lâm cảnh đói kém, lưu tán do thiên tai như lũ lụt, hạn hán nhiều năm liền...Ông viết:
Vì đâu nước biển tràn lên
Để dân ven biển chết chìm trên khô
Muôn nhà, sóng bạc cuốn xô
Lử ma tan giữa mịt mù khí âm... (Nam Định hải dật)
Nước ngập sâu nối liền đồng nội
Mây từng lớp lấp chìm ánh trời ban mai
Thấy mà buồn cảnh không thể cứu người đang chìm
Tự tai nghe có tiếng kêu đói
Nghĩ thế nào đành lòng riêng sống ấm no
Ngậm mối tình thương, gạt đôi dòng lệ (Thuỷ)
Làng cũ có ruộng thì bị lụt, bị hạn
Lúa xanh hoá thành lúa lép khắp đồng
Người chết bị đẩy ra, lấp chìm trong gai cỏ
Người sống bò gấp lên, kêu rên với nhau
Ngẩn lên trời, van trời kêu dân khổ... (Lưu dân thán)
Và thao thức, dằn dặt trước bao biến động của đất nước: Các cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành (1821), Lê Duy Dương (1833), Nguyễn Văn Nhờn (1834), Tam Đường (1851), Lê Duy Cự (1854), Tạ Văn Phụng (1861), Cai tổng Vàng (1862) và thực dân Pháp vào Đà Nẵng (1858) rồi tiến chiếm ba tỉnh miền Đông (1862), ba tỉnh miền Tây (1867)...
Quảng Nam giờ đất chiến trường
Dầm sâu ruộng tốt chẳng còn như xưa...
Xương khô chồn gậm đứng đầy
Quạ tha từng khúc ruột bay thành đàn
Đồng Đông xiết nỗi lầm than
Kẻ về sau buổi ly hoàn, ai thương?... (Tống Lương từ)
Năm kia giặc Tây đánh Quãng Nam
Quân ta thua trận máu thành đầm
Cúng tế cầu hồn khắp mọi xứ
Giá giấy (dùng cùng người chết) đắt gấp ba
Năm nay dùng binh khắp Nam Bắc
Muôn đội cấm quân ra đánh giặc
Đêm qua hịch báo về Cam Tuyền
Hơn nủa người chết bỏ thây xác... (Mại chỉ y)
Mảng đề tài này được ông viết khá nhiều. Ông luôn khao khát làm sao cho dân được sống yên lành, đất nước được toàn vẹn:
...Đất đai phải lo dẹp cho yên ổn lại
Nhân dân chờ mong một đường lối cai trị đúng đắn vỗ yên (Vận)
Nhưng ông chỉ thấy một triều đình lúng túng, bất lực, cầu hoà:
Yết Hồ thực hiện mưu ma
Các quan tướng soái thiệt là phụ ơn
Tàu chiền chìm chỉ còn tàn lửa,
Tiếng oan hồn nức nở sóng trôi... (Khiển sầu)
Tóc mai rụng thưa, nhìn nhau thì chỉ là một lũ quan xôi thịt
Lúc bụi biên cương đều chưa sạch đất trời... (Tuế mộ mặc vân sào dạ tập)
Lòng đau cầm nước mắt
Muốn nói chẳng thành lời...
Khen Nguỵ Giáng hoà nghị,
Bàn như vậy rất sai! (Thương tâm)
Nhà vua đã muốn hoà cùng giặc
Còn thuyết làm chi việc phục thù... (Nhạc Phi)
Trước thái độ của vua quan như vậy, lòng ông chỉ còn biết tin tưởng vào tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân dân:
Nhân dân dương sào(làm cờ), chặt cây (làm binh khí)
(Tinh thần đó) có thể lưu truyền muôn thuở...
Cho đến anh học trò cũng đánh giặc bằng ngòi bút
Báo đền ơn vua chừng ấy cũng đáng xót thương (Đọc Nguyễn Đình Chiểu)
Giữa đất Nam Kỳ, một mồi lửa cháy, gió thổi khói lên cao
Đốt rụi lầu giặc cùng thuyền giặc...
Bọn Hồ kêu la gầm trời
Tám năm mới thật sự thấy đánh dẹp giặc Tây
Trước ngựa, các phụ lão mang giỏ cơm, bầu rượu ra đón
Anh hùng sáu trấn dốc hết sức mình... (Nhị nguyệt nhị thập)
Bên cạnh những nỗi đau chung, nơi tâm tư ông còn trĩu nỗi đau riêng. Theo sử sách ghi, sau đám tang vua Thiệu Trị (1847), hai người cháu ruột của ông là Hồng Bảo và Hồng Nhậm cùng tranh giành ngôi vua, mở màn cho một bi kịch chốn vương triều. Cuối cùng, Hồng Bảo bị hạ ngục vì tội liên hệ với "bên ngoài", để rồi phải tự tìm cái chết thân còn mang xiềng xích. Thảm cảnh đã được ông khéo gửi gấm trong một bài thơ khá dài:
...nguyên do (ta) với ngươi vốn cùng một cha sinh
Hai mươi năm chịu lao khổ chung nhau mối thâm tình ấy
Một sáng, thể phách chìm xuống suối vàng
Đối mặt nhau mà nỡ quay lưng chia lìa, bổ cây Tử kinh làm hai đoạn
...Tình anh em sao lại có ý nấu đun nhau... (Quỷ khốc hành)
Năm 1866, cuộc biến động ở Khiêm Lăng (loạn Chày vôi thời Tự Đức) do chính con rể đầu của ông là Đoàn Hữu Trưng chủ xướng, một lần nữa khiến vết thương lòng nhức nhói cho đến cuối đời...
Nỗi phẩn uất biết cùng ai tỏ
Lòng lo buồn khiến lại ngã đau
Lời xằng buộc tội thêm sâu,
Nghiêm minh họp vạch những câu ngược đời (Vận)
Tóc chỉ vì đau thương mà bạc
Mặt chỉ vì thẹn mà hồng
Lòng riêng trăm mối (biết nhờ) ai gỡ giúp,
(Khiến) ngổn ngang trong làn mưa rắc như tơ (Tuế án độc toạ khiển muộn)
Tuy sau này vua Tự Đức xét ông vô can, nhưng chính nỗi đau mới này cùng với lo toan dân tình, nạn nước; tất cả khiến lòng ông thêm chán ngán cảnh điện ngọc, cung son đã khiến tinh thần ông thêm suy sụp nơi cơ thể vốn gầy gò, lắm bệnh…
Lờ mờ học Đạo nửa đời người
Trúc dép, đường đi mới rõ mười
Thiên Mụ, Thánh Duyên trăng với sóng
Bóng rừng, hương nước, có còn ai? (Tuyệt Bút Từ, 1870)
Nói về thơ ông, không thể không đề cập tới mảng thơ trữ tình đối với cảnh vật thiên nhiên, bè bạn... bởi ngay lúc bấy giờ, Lao Sùng Quang khi đọc bài "Khiển hoài" của ông, đã phải dẹp ngay tính kiêu hãnh của một vị quan “thiên triều” để viết:
Tụng đáo bạch âu hoàng diệp cú,
Cổ hoài tiêu sắt đới thu hàn...
Dịch nghĩa:
Đọc đến câu bạch âu hoàng diệp (của ông)
Nghe người ớn lạnh hơi thu...
Theo như trong tập Thơ Tùng Thiện Vương[3], vào giữa thế kỷ 19 tại kinh thành Phú Xuân (Huế) đã xuất hiện một số nhà thơ dòng dõi hoàng tộc Nguyễn Phúc, trong đó có Tùng Thiện Công (tước vị của Miên Thẩm lúc bấy giờ), Nguyễn Phúc Miên Trinh, Nguyễn Phúc Miên Bửu, công chúa Mai Am (tất cả đều là em của ông) được nhiều người biết hơn cả.
Ông sống trong một giai đoạn lịch sử hết sức rối ren: nội bộ triều đình lủng củng, rạn nứt, loạn lạc khắp nơi, thiên tai gây mất mùa nhiều năm cùng nạn ngoại bang xâm lấn nhưng theo quy chế nhà Nguyễn, các ông hoàng không được đi thi, ít được tham gia chính sự nên khó xác định được tài năng thật sự của ông trong các lĩnh vực khác (kinh tế, chính trị, quân sự v.v...).
Tùng Thiện Vương nổi tiếng về thơ, do đó đương thời có câu truyền tụng: ”...Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Và cũng chính ông cùng với hai em là Tuy Lý Vương, Tương An Quận Vương được người đời lúc bấy giờ xưng tụng là “Tam Đường”.
Và sinh thời, ông là một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng. Ông đến với mọi người đều bằng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng; không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) mà ông là “Tao đàn nguyên suý” tập họp được nhiều danh sĩ, trong đó có cả Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát v.v. Về văn nghiệp, ông là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy, được các danh sĩ đương thời, kể cả vua Tự Đức, nhờ duyệt thơ và được nhiều nhà thơ Trung Quốc đánh giá cao [4]
Cao Bá Quát, một nhân tài thời ấy, cũng là người cách biệt với ông về tầng lớp xuất thân, địa vị xã hội; khác về khuynh hướng lẫn đường đời nhưng hai người lại là đôi bạn thân thiết. Khi họ Cao bị giam cầm, ông là người duy nhất dám làm thơ khen là "cây tùng cây bá". Lúc Cao Bá Quát bị bắt đi hiệu lực ở Giang Lưu Ba (Indonexia), cũng chính ông là người duy nhất dám tỏ tình nhớ thương. Và ngày họ Cao được trở lại kinh đô, cũng chỉ mỗi mình ông dám "rút kiếm" vì bạn hát một khúc bi ca.
Trong bài đề tựa Thương Sơn thi tập của Tùng Thiện vương, Cao Bá Quát đã viết:
"...Tôi theo Quốc công chơi đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến? Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía nam...đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ Hà Thượng của quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác..."
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu
Chú thích
1. Ghi theo Từ điển Văn học (bộ mới, Nxb Thế giới, 2004), sách Vua Minh Mạng với Thái y viện & ngự dược, ghi ông tên là Hiện (Nxb Thuận Hóa, 2007, tr. 46)
2. Ngoài người thầy này, Miên Thẩm còn là học trò của Trương Đăng Quế và sau này cũng là cha vợ của ông.
3. Thơ Tùng Thiện Vương, Lương An tuyển chọn, NXB Thuận Hoá 1994
4. Khi sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc sang, vua Tự Đức muốn khoe nhân tài, mới sai tập hợp những thơ văn hay trong nước từ xưa cho đến lúc bấy giờ, làm thành một tập gọi là Hoàng Việt phong nhã thống biên, trong đó có rất nhiều thơ của Tùng Thiện Vương, cho sứ thần Trung Quốc xem và họ rất khâm phục ông, trong đó có tiến sĩ Lao Sùng Quang