Nov 21, 2024

Viết về tác giả & tác phẩm

Đọc Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan
Huệ Thu * đăng lúc 05:55:16 PM, Apr 09, 2024 * Số lần xem: 2505
Hình ảnh
#1
#2

                          * đăng lúc 11:42:01 PM, Oct 12, 2009 * Số lần xem: 2262

  

     

 
Đọc Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan
 
Huệ Thu

        

       THĂNG LONG HOÀI CỔ

    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
    Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
    Nước còn cau mặt với tang thương.
    Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Chú giải
         Hí trường: rạp hát, sân khấu nơi diễn tuồng
         Thu thảo: Cỏ mùa thu.
         Tịch dương: Mặt trời lúc chiều tối.
         Đoạn trường: Đứt ruột, ý nói đau đớn.


Bà Huyện Thanh Quan làm bài thơ này, sau năm 1802, khi mà Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long mất địa vị trung tâm của đất nước .


🌺

Ðây là một bài thơ tề chỉnh hết sức tề chỉnh. Lại là một bài thơ hay .
Bài thơ hay vị tất đã là một bài thơ tề chỉnh . Ngày xưa các vị đại khoa thi xong, vua thường ban yến đãi tiệc . Các vị đỗ cao thường làm một bài thơ để lưu niệm. Như của các vị Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hay Thám Hoa nhất định là phải đúng niêm luật nhưng chưa chắc là những bài thơ hay. Chứng cớ là cho đến ngày nay , loại thơ ấy còn mấy bài được truyền tụng. Trái lại những bài thơ hay nhất của Trung Hoa và Việt Nam chưa chắc là những bài thơ tề chỉnh, lại đôi khi còn không đúng niêm, đúng luật. Niêm luật giúp chúng ta làm thơ tề chỉnh, nhưng niêm luật chưa phải là thơ. Những cây bút “đại gia” thường vượt lên trên niêm luật. Bời thế mới có Bùi Giáng, và thơ Bùi Giáng mới được truyền tụng, tuy thơ của Búi Giáng phần lớn là thơ của người điên. Vừa đây Nguyễn Văn Lục trong báo Tân Văn số ra mắt có viết một bài về Búi Giáng mà theo tôi thật giá trị. Ðó là một con người cam đảm , dám tin ở những điều mà mình cho là thật. Ngày xưa có một giai thoại, nhà văn Nghiêm Xuân Hồng là bộ trưởng chiêu hồi, Thanh Tâm tuyền là trung úy. Trong một tiệc rượu ông Nghiêm Xuân Hồng nửa đùa nửa thật hỏi Thanh Tâm Tuyền :

Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mát quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Mặt chữ điền thì vuông vắn như cái bánh chưng, đẹp gì mà đẹp . Thanh Tâm Tuyền nói ông hiểu thơ như vây thì thật là giết người ta chứ còn gì nữa ! Hồng cười nói , thì ít ra anh cũng phải cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu chứ ! Bấy giờ có một nhà thơ can rằng: anh Hồng chắc là hỏi đùa mà chơi vậy thôi . Thật ra thì đối với người Việt Nam thì cái gì vuông vức tròn trịa đều đẹp vì nó phúc hậu . Ðây tác giả chỉ muốn nói thế thôi . Ngôn ngữ của thơ, không phải là ngôn ngữ của toán học .
Ai về ai có nhớ ai ; Ai cũng là tôi mà cũng là người tôi yêu. Toán thì không thế , hai với hai nhất định phải là bốn, nhất định, rõ ràng và minh bạch như vậy . Bài Hoàng Hạc Lâu được kể như bài thơ hay nhất của Trung Hoa, bài thơ ấy phá hết niêm luật :

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Mới câu đầu đã thất luật,

Thử địa không du hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du

Hai câu 3 và 4 không đối

Tình xuyên lịch lịch hán dương thụ
Phương thảo thê thê anh vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng xử nhân sầu

Không có một chữ nào một câu nào cầu kỳ, giản dị như lời nói, hay ở chỗ nào ? Thật khó mà trả lời ! Thơ để mà cảm chứ không để phân tích. Người ta cảm được cái hay của thơ, cái hồn của thơ; như người ta đã cảm được lời nhạc của Văn Cao, của Trịnh Công Sơn . Nhiều lời của Trịnh Công Sơn nếu phân tích thì thật là tối nghĩa ố gọi em cho nắng chết trên sông dài...- bảo cắt nghĩa thì không cắt nghĩa được , bảo cảm thì cảm được . Nguyễn Tất Nhiên có hai câu thơ mà tôi nghĩ Phạm Duy phải là tay thượng thặng mới nhìn ra : Ngồi trong lớp học đắp đôi tay ngà, hoặc: tưởng là hoa hậu, nhưng mà tiểu thơ ! Hai câu thơ ấy có thể là của một người điên, người điên thi sĩ . Những bài tiếng Thu, Ðôi Mắt Người Sơn Tây, Tống Biệt Hành... những bài thơ hay chưa tề chỉnh . Vậy tề chỉnh chưa phải là điều kiện cần và đủ cho một bài thơ hay .
Trở về bài Thăng Long Thành Hoài Cổ :

Tạo hóa gây chi cuộc hý trường

Chúng ta cũng đã trải qua một cuộc hý trường : 30 tháng 4 1975, nên chúng ta cũng có chung nỗi ngậm ngùi với tác giả.
Ðến hai câu thực thì :

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ðền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ngày xưa, xe ngựa của các bậc vương tôn đông đúc là thế . Bây giờ chỉ còn trơ lại những cỏ khô mùa Thu. Ðường cũ thì lâu đài vào lúc chạng vạng đã thê lương càng thêm thê lương

Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương

Ðối từng câu từng chữ, mà không có vẻ gì là đối cả . Thần tình là ở chỗ ấy, đối mà không đối ! Ði qua Hà Nội nhớ đến người xưa, cảnh cũ lòng bất giác ngậm ngùi . Cho nên bài thơ, tình thật thiết tha, ý thật sâu đậm , nó hay vì thật. Lời thơ trang nhã, ngôn ngữ của Bà Huyện Thanh Quan là ngôn ngữ của thi ca trưởng giả, rất thanh tao đài các . Những chữ trơ gan , chau mặt là những chữ thật thần, không phải muốn có là có được .
Ðọc thơ Ðường, thú là thế . Ít câu, ít chữ mà ý tứ thật ngậm nguì man mác...

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường.

Bài Họa
LẠNH SA TRƯỜNG

bài 1

Nghĩ xưa đêm xuống lạnh sa trường
Ðâu lạnh riêng vì gió với sương
Ðất mới buồn chung trời tỵ nạn
Lầu cao bóng lẻ buổi tà dương
Chẳng say đắm mấy sao tha thiết
Thêm nhớ nhung mà lại tiếc thương
Tôi chẳng giống như bà Huyện trước
Ðèn thao thức mãi suốt canh trường


bài 2
GIỮA CHIẾN TRƯỜNG

Ai đã vùi thân giữa chiến trường
Bao lần trăng giải mịt mù sương
Cúi đầu ngó xuống tàn canh vắng
Ngửa mặt nhìn lên lạ bóng dương
Sóng chẳng giận ai mà phẫn nộ
Thơ không sao cả cũng bi thương
Cùng ai Thiên Cổ cùng tâm sự
Gửi lại ngàn sau nỗi đoạn trường

.**

NHỚ BÀ HUYỆN THANH QUAN

Khi bà về lại đất Thăng Long
Bỗng chạnh niềm tây, bỗng não nùng
Tôi bước trên đê Yên Phụ cũ
Mà thương bà Huyện đến vô cùng

Hà Nội bây giờ đã khác xa
Lưu đày ngay lúc ở quê cha
Tôi như kẻ tận phương trời lạ
Ðứng giữa Hồ Gươm nhớ nước nhà

Lại nghe đây đó xôn xao Tết
Ðây đó còn nguyên tiếng Việt Nam
Chỉ tội cây nêu buồn ủ rũ
Bếp nhà ai đó khói xanh lam

Huệ Thu

* Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh. Bà sinh trưởng vào cuối triều Lê, đầu nhà Nguyễn. Bà là con của vị danh nho Nguyễn Lý (1755-1837) vốn là một cựu thần nhà Lê.

                                          💚💛❤️💜


 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
Bà huyện Thanh Quan
Hue Thu May 06, 2009
Bà huyện Thanh Quan


Ở thế kỉ 19, tại phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận (gần hồ Tây - Hà Nội) có cô Nguyễn Thị Hinh nổi tiếng là hay chữ, là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760 - 1825). Ngoài những bài thơ làm theo thể Đường luật mà lời lẽ trang nhã, ý tứ cổ kính mang nặng sự hoài cảm đối với quá khứ, đời sau còn nhớ đến bà qua những giai thoại gắn liền với mối tình đầu. Bà kết duyên trăm năm với ông Lưu Nguyên Ôn (tức Lưu Nghi) sinh năm 1804 tại thôn Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì (Hà Nội). Ông Lưu Nguyên Ôn đậu cử nhân năm 1821, từng giữ chức tri huyện Thanh Quan (nay huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình). Do đó khi về làm dâu dòng họ Lưu, mọi người quen gọi bà là bà huyện Thanh Quan.
Tương truyền bà huyện Thanh Quan là người có nhan sắc, hóm hỉnh và cũng thích đùa nghịch. Lần nọ, ông Ôn đi vắng, bà ra công đường để nhận đơn từ thay cho chồng. Người đưa đơn lần đó là cô Nguyễn Thị Đào, xin được li dị người chồng rượu chè, đối xử tệ bạc với vợ con. Đọc qua đơn, cảm thương cho số phận người phụ nữ, không cần xét hỏi gì thêm bà liền cầm bút phê:

Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai
Chữ rằng: xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!

Căn cứ vào những dòng thơ lục bát này, Thị Đào về lấy chồng khác. Anh chồng ức quá kiện lên quan huyện. Ông Ôn biết chuyện trái khoáy này, la rầy bà dữ lắm. Tuy thế, bà cũng không bỏ tính đùa nghịch. Lần khác, có thư sinh mới thi đậu Cống hương, đệ đơn xin mổ trâu để ăn khao trả nợ làng. Nhưng đang mùa cày cấy nên địa phương không cho sát sinh. Dù biết lệ này, nhưng vốn là nhà thơ lại có ý nể vị cử tân khoa nên sau giây lát ngẫm nghĩ, bà tủm tĩm cười và đặt bút phê:

Người ta thì chẳng được đâu
Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm

Ông cử tân khoa cầm đơn mà dở khóc, dở cười vì "làm trâu" có thể hiểu là mổ trâu, nhưng cũng có thể hiểu là "muốn làm thân trâu bò" thì làm! Trong thời gian sống với bà huyện Thanh Quan, ông Ôn có lần bị giáng chức, không rõ có phải vì đã để cho vợ phê vào đơn từ của dân như đã kể trên? Về sau, ông Ôn được vời về triều đình, được nhà vua phong tước Lang Trung. Bà huyên Thanh Quan cũng được vời vào kinh làm chức Cung trung giáo tập, dạy các công chúa và cung phi. Những chi tiết xác thực này cho thấy bà huyện Thanh Quan đương thời đã là người nổi tiếng hay chữ. Có thể chuyện này xảy ra vào những năm sau năm 1847 - năm mất của ông Lưu Nguyên Ôn. Do đó, khi qua Đèo Ngang lúc bóng xế tà, bà mới buột miệng thở dài:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Hoặc trong cảnh Chiều hôm nhớ nhà, chúng ta cũng bắt gặp ở hồn thơ này 1 tâm hồn cô đơn và lẻ loi:

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Tương truyền khi về làm Cung trung giáo tập dưới triều Nguyễn, bà vẫn giữ tính hóm hỉnh mà thông minh, sâu sắc. Lần nọ, vua Minh Mạng cao hứng đem khoe bộ chén quí, mọi người yêu cầu bà huyện Thanh Quan có thơ để ca ngợi. Không 1 chút chần chừ, bà ứng khẩu đọc:

Như in thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.

Vua Minh Mạng khen thơ hay. Đang vui, nhà vua phóng bút viết hai chữ "Phúc Thọ", rồi quay sang hỏi bà chữ viết có đẹp không? Bà cung kính đáp:

- Bẩm!:
Phúc tối hậu,
Thọ tối trường.

Nghe xong, nhà vua bật cười, thì ra chữ phúc dày trong béo phục phịch vì viết bằng nét lớn, còn chữ thọ thì kéo dài quá nên cao lêu nghêu! Té ra, bà Cung trung giáo tập chê nhà vua viết chữ quá...xấu, nhưng chê thật khéo nhưng nhà vua không nỡ...giận! Sau khi ông Ôn về suối vàng bà vẫn ở vậy nuôi con. Dù là 1 nữ thi sĩ nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, nhưng cho đến nay, chúng ta vẫn không rõ năm sinh và năm mất của bà./.
Xin Cảm Ơn
Hue Thu Jul 29, 2008
(xin chuyển fonts chữ cho dễ đọc , cám ơn tiên sinh Ðỗ Quý Bái )

BÀ HUYỆN THANH QUAN ÐÃ TÁI SINH ?:

Bà Huyện thanh Quan đã tái sinh :
Huệ Thu uyên bác bậc tài tình
Lời thơ trang nhã mà cô đọng
Ý nhạc u sầu hẳn kết tinh
Cùng Thuận đã vầy duyên tấm mẳn ,
Với Tô còn vướng nợ ba sinh
Chỉ hồng lá thắm ai đan kết ?
Bà Nguyệt Ông Tơ khéo hiển linh ! !

Lạc Thủy Ðỗ Quý Bái họa :

TÚY NGỌA SA TRƯỜNG

Nửa say nằm khểnh sa trường
Tráng sĩ không nề cảnh gió sương
Ðợi sáng nghiêng bầu nghênh lão nguyệt
Chờ đêm cạn chén đón tà dương
Traì thời binh biến nào ai kể
Gái thủa loạn ly mấy kẻ thương
Danh tướng giai nhân thường yểu mệnh
Trần gian chinh chiến khổ miên trường

LTÐQB