Nhiều Tác Giả * đăng lúc 03:32:08 AM, Mar 23, 2015 * Số lần xem: 22698
Hình ảnh
#1
Nguồn Internet
Nói đến thơ Trung Quốc , người ta chỉ nói đến thơ Đường. Đành rằng trước đó ai đã có những phong dao luyến ái trong kinh thi . Những tác phẩm trử tình của Khuất Nguyên, Tống Ngọc trong sở từ những bài ca của họ Tào thời Kiến An và những bài thơ điền viên của Đào Uyên Minh đời Tấn nhưng chỉ là những ngôi sao sáng rời rạc lẻ tẻ , sánh sao được với cả bầu trời đầy tinh tú, có chị Hằng , có sông Ngân có sao bắc đẩu , có thơ Đường . Quả thật là thời đại hoàng kim của thi ca Trung Quốc
SƠ ĐƯỜNG ( 618-713 )
Vương Bột – Dương Quýnh – Lữ chiếu Lân –Lạc Tân Vương –Thượng Quan Nghi –Thẩm Thuyên Kỳ -Tống Chi Vấn –Đỗ Thẩm Ngôn –Vi Thừa Khánh –Hạ Tri Chương –Trương Nhược Hư – Lưu Hi Di – Trần Tử Ngang – Trương Cửu Lình
VƯƠNG BỘT
TƯ QUY
Trường Giang bi dĩ trệ
Vạn lý niệm tương quy
Huống phục cao phong vãn
Sơn sơn hoàng diệp phi
NGHĨ TRỞ VỀ
Trường Giang đượm sầu thương
Muôn dặm nghĩ về làng
Chiều tối gió cao thổi
Núi non bay lá vàng
THƯỢNG QUAN NGHI
LẠC ĐÊ HIỂU HÀNH
Mạch mạch quảng xuyên lưu
Khu mã lịch trường châu
Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo dã phong thu
TRỜI SÁNG ĐI TRÊN ĐÊ SÔNG LẠC
Sông rộng trôi cuồn cuộn
Bãi dài ngựa ruổi mau
Thước bay trăng núi sáng
Ve rộn gió đồng thâu
VƯƠNG BỘT
VI THỪA KHÁNH
NAMHÀNH BIỆT ĐỆ
Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình
Lạc hoa tương dữ hận
Đáo địa nhất vô thanh
TỪ BIỆT EM ĐI XUỐNG PHÍA NAM
Nước sông trôi lặng lẽ
Viễn khách nhớ thương dài
Hoa rụng sầu tê tái
Nhẹ nhàng không tiếng rơi
HẠ TRI CHƯƠNG
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( I )
Thiếu tiểu ly gia , lão đại hồi
Hương âm vô cải , mấn mao thôi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiểu vấn “khách tòng hà xứ lai”
NGẪU NHIÊN VIẾT KHI VỀ LÀNG ( I )
Trẻ đi , già trở lại nhà
Giọng quê không đổi , sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi “ khách từ đâu đến làng”
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( II )
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa
Cận lai nhân sự bán tiêu ma
Duy hữu môn tiền kính hồ thủy
Xuân phong bất cải cựu thời ba
NGẪU NHIÊN VIẾT KHI VỀ LÀNG ( II )
Quê nhà xa cách trãi bao thu
Nhân sự gần đây đã xác xơ
Riêng có kính hồ bày trước cửa
Gió xuân không đổi sóng thời xưa
THỊNH ĐƯỜNG ( 713 - 766 )
Đường Huyền Tông - Vương Hàn - Vương Chi Hoán – Vương Xương Linh – Cao Thích – Sầm Tham – Mạnh Hạo Nhiên – Vương Duy – Trương Thuyết – Tổ Vịnh – Thôi Hiệu – Trương Kế
ĐƯỜNG HUYỀN TÔNG
Đường Huyền Tông có bài thơ QUA NƯỚC LỖ TẾ KHỔNG TỬ rồi thở than
Chẳng biết bởi đâu mà Khổng Tử
Suốt đời lận đận biết bao phương
Chốn xưa đây vẫn làng châu thị
Nhà cũ nay là cung Lỗ Vương
Than phượng , luống thương mình bĩ vận
Khóc lân , riêng oán đạo cùng đường
Ngắm trông đồ tế bên hai trụ
Ngỡ giống như trông giấc mộng vàng
VƯƠNG HÀN
Vương Hàn tự là Tử Vũ người đất Tấn Dương tỉnh châu
LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ đào mỹ tữu , dạ quang bôi
Dục ẩm , tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
LƯƠNG CHÂU TỪ
Đây rượu bồ đào , đây chén ngọc
Muốn say đàn đã giục ra đi
Ai cười chiến địa mình say ngủ
Chinh chiến xưa nay mấy kẻ về
VƯƠNG CHI HOÁN
XUẤT TÁI
Hoàng hà viễn hướng bạch vân gian
Nhất phiến cô thành vạn nhận san
Khương địch hà tu oán dương liểu?
Xuân phong bất độ ngọc môn quan
RA NƠI QUAN ẢI
Hoàng hà chảy mãi vào mây trắng
Một mảng thành trơ ngất đỉnh ngàn
Sáo mọi há nên hờn oán liễu
Gió xuân không đến ngọc môn quan
VƯƠNG XƯƠNG LINH
Có tự là Thiếu bá người Giang Minh đậu tiến sĩ hàn lâm chức hiệu Thư lang,sau không thận trọng về hành vi bị biếm ra làm quan úy tại Long Tiêu ở phía tây sông Tương .Gặp lúc loạn lạc trở về nhà thì bị thứ sử Lưu Khưu Hiển tư thù giết
KHUÊ OÁN
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
KHUÊ OÁN
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu
Ngày xuân trang điểm bước lên lầu
Chợt trông sắc liễu bên đường thắm
Tiếc đã khuyên ai kiếm tước hầu
VƯƠNG DUY
TỐNG XUÂN TỪ
Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh quy
Tương quan hữu tôn tữu
Bất dụng tích hoa phi
LỜI TIỄN XUÂN
Ngày qua ngày lại gìa đâu tới
Xuân thắm năm năm trở lại đây
Vui vẽ cùng nhau say cất chén
Tiếc làm chi nữa cánh hoa bay
VƯƠNG DUY
THÔI HIỆU ( ? -754 )
Người Biện Châu nay là huyện Khai Phong tỉnh hà Nam . Đậu tiến sĩ, tính lãng mạn, cờ bạc rượu chè hay rẫy vợ làm đến chứ tư huân viên ngoại lang
HOÀNG HẠC LÂU
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch hán dương thụ
Phương thảo thê thê oanh vũ châu
Nhật ngộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
LẦU HOÀNG HẠC
Người xưa cởi hạc đến nơi đâu
Hoàng hạc còn đây một mái lầu
Hạc đã một đi không trở lại
Mênh mang mây trắng xóa ngàn thâu
Hán Dương sông tạnh , cây in sắc
Anh vũ bờ thơm , cỏ biếc màu
Chiều tối trông vời đâu cố quân ?
Trên sông khói sóng giục ai sầu
Trần Trọng San dịch
CHÙA GIANG THÀNH TÔ CHÂU
TRƯƠNG KẾ ( khoảng trước sau năm 756 )
Tự là Ý Tôn, người Tương Châu nay thuộc tỉnh Hồ bắc đậu tiến sĩ cuối thời Đại Lịch. Vào triều làm chức Tự bộ viên ngoại lang , rồi ra coi việc tài phú tại Hồng Châu và mất tại đây
PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyệt lạc , ô đề sương mãn thiên
Giang phong , ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
BAN ĐÊM ĐẬU THUYỀN TẠI SÔNG KIỀU
Trăng tà , tiếng quạ kêu sương
Lửa chài , cây bến , sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Tản Đà dịch
ĐIỂN TÍCH
Đêm ấy vị tăng chùa Hàn San làm hai câu đầu nhưng rồi bí hai câu sau mà thao thức suốt đêm. Chú tiểu xin phép được đọc hai câu sau mà chú cũng đã làm cũng trong cùng đêm thao thức. Tình cờ hai câu sau rất hợp với hai câu trước tạo nên bài thơ tuyệt tác này :
Hai câu của vị tăng :
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu , bán tự chung
Hai câu của chú tiểu:
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để , bán phù không
Dịch thơ :
Mồng ba mồng bốn trăng mờ
Nữa dường móc bạc nữa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nữa chìm đáy nước , nữa cài tầng không
Nhưng cũng thật tình cờ làm sao đêm ấy Trương Kế cũng thao thức dưới con thuyền không ngủ được vì chưa tìm ra được hai câu cuối của bài thơ. Khi tiếng chuông chùa Hàn San cất lên thi sĩ thấy sảng khoái sung sướng làm sao và ngay lập tức đã làm tiếp hai câu cuối cùng mà ngày nay chúng ta được đọc tuyệt tácPhong kiều dạ bạctrên
HÀN SƠN TỰ
TRUNG ĐƯỜNG ( 766 – 835 )
Lư không Thự - Lư Luân – Đới Thúc Luân – Cố Huống – Hàn Hủ - Lý Ích – Nguyên Chấn – Lưu Vũ Tích – Vi Ứng Vật – Lưu Trường Khánh – Liêu Tông Nguyên – Hàn Dũ – Mạnh Giao – Gia Đảo – Trương Tịch – Thôi Hộ - Đổ Thu Nương
LƯU VŨ TÍCH
ẨM TỮU KHÁN MẨU ĐƠN
Kim nhật hoa tiềm ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đảm sầu hoa hữu ngữ
“ Bất vị lão nhân khai “
UỐNG RƯỢU XEM HOA MẪU ĐƠN
Hôm nay uống rượu trước hoa
Say sưa mấy chén gọi là mà thôi
Hoa kia mà biết hé môi
Sẽ rằng đâu nỡ vì người già nua
Hôm nay ngồi uống rượu trước hoa , ta cam lòng ngồi uống mấy chén say sưa nhưng buồn lòng ta không đổi mà lòng ai đã khác . Xưa kia khi ta còn trẻ trung uống rượu trước hoa thì hoa tươi hoa cười, nhưng nay ta già rồi , hoa không buồn tươi cười nữa . Giá bây giờ mà hoa chợt biết nói thì có lẽ hoa đã nói rằng “ hoa đâu có nở vì ông già “
THÔI HỘ
Tự là Âu Công người quận Bác Lăng nay là huyện Định Tính Trực Lệ lận đận khoa cử mãi đến năm thứ 12 niên hiệu Trinh Nguyên( 796 ) mới đậu tiến sĩ làm đến chức Tiết độ sứ lĩnh nam
ĐỀ TÍCH SỞ KIẾN XỨ
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
ĐỀ CHỔ ĐÃ TRÔNG THẤY NĂM TRƯỚC
Cửa này , năm ngoái , hôn nay
Hoa đào phản chiếu mặt ai ửng đào
Mặt người giờ ở nơi nao
Hoa đào vẫn đó cười , chào gió đông
Thôi Hộ là thi sĩ đẹp trai phong lưu nhưng ít giao du. Một hôm nhân tiết thanh minh dạo chơi ngoài thành , thấy một vườn hoa đào nở tươi thắm bèn gỏ cửa vào xin nước uống ,đồng thời để được thưởng hoa . Một người con gái mặt đẹp như hoa đào ra mở cửa hỏi rồi đem nước mời uống . Tiết thanh minh năm sau Thôi Hộ nhớ lại chuyện xưa bèn tìm lại nơi kỳ ngộ thì thấy cửa đóng then cài , chàng để lại một bài thơ ở cửa rồi đi . Mấy hôm sau lại đến thì chợt nghe có tiếng người khóc . Một ông lão ra hỏi có phải là Thôi Hộ không , rồi kể lễ sự tình : Con gái cụ khi đọc bài thơ thì đã nhịn đói mà chết . Thôi Hộ vào khấn trước xác người con gái còn tươi như hoa . Cô gái sống lại cùng họ Thôi kết duyên chồng vợ
Đây là bài thơ tuyệt tác oan nghiệt của Thôi Hộ
VŨ NGUYÊN GIANG TÂY
ĐỖ THU NƯƠNG
Người đất Kim Lăng nay là huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô . Là thiếp của Lý Kỷ tiết độ sứ Trấn Hải . Lý Kỷ mưu phản bị giết . Bà nhờ có tài thơ được vua Đường Mục Tông đem về cho dạy học ở trong cung
KIM LŨ Y
Khuyến quân mạc tích kim lũ y
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa khai kham chiết trực thu chiết
Mạc đãi vô hoa không chiết chi
ÁO TƠ VÀNG
Áo đẹp khuyên ai đừng luyến tiếc
Khuyên ai hãy tiếc thuỡ thanh xuân
Bẻ cành hãy bẻ mùa hoa nở
Đừng đợi tàn hoa mới bẻ cành
VÃN ĐƯỜNG ( 836 – 905 )
Lý Thương Ẩn - Đỗ Mục – Ôn Đình Quân – Tào Đường – Triệu Hổ - Trịnh Côc – Tiết Đào – Trần Đào – Vi Trang – Trần Ngọc Lan – Cáp Gia Vận
TRỊNH CỐC
HOÀI THỦY BIỆT HỮU
Dương Tử Giang đầu dương liểu xuân
Dương hoa sầu sát độ giang nhân
Sổ thanh phong địch ly đình vãn
Quân hướng Tiêu Dương , ngã hướng Tần
TỪ BIỆT BẠN TRÊN SÔNG HOÀI
Sông Dương xanh thắm hàng dương
Hoa dương xui khách sang ngang ngại ngần
Sáo chiều vẵng tiếng ly tan
Tiêu Dương bạn đến đường Tần tôi đi
LÝ BẠCH ( 701 – 762 )
Truyền thuyết kể rằng . Thân mẫu nằm mộng thành sao Trường canh rồi sinh ra ông nên ông lấy tên tự là Thái Bạch
Lý Bạch thông minh đĩnh ngộ là người hào hiệp cao nghĩa khinh tài trọng thí. Có đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu Tô Đình được khen là thiên tài có thể sánh vai với Tư Mã Tương Như . Đi ngao du nhiều nơi . Kết bạn với các danh thơ nỗi tiếng Trung Hoa
Bị bệnh mất vào năm 762 thọ 62 tuổi . Có thuyết khác theo Đỗ Phủ , Vương Đình Bảo và Hồng Đông Trai thì Lý Bạch chết đuối tại sông Thái bạch ( huyện Đang Đồ ) trong khi say rượu . Tục truyền rằng Lý Bạch uống rượu say cúi xuống sông bắt lấy bóng trăng do đó chết đuối . Tại nơi này có một cái đài gọi là Tróc Nguyệt Đài ( Đài bắt trăng )
KÝ VIỄN
Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường
Mỹ nhân khứ hậu dư không sang
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm
Chi kim tam tải văn dư hương
Hương diệc cánh bất diệc
Nhân diệc cánh bất lai
Tương tư hoàng diệp tận
Bạch lộ thấp thanh đài
GỬI NGƯỜI ĐI XA
Người đẹp còn đây nhà đầy bông
Người đẹp đi rồi giường bỏ không
Trên giường chăn nệm không ai ngủ
Nay đã ba năm hương còn nồng
Hương không bay đi mất
Người xa không trở về
Nhớ nhau lá vàng rụng
Rêu xanh ướt não nề
KHUÊ TÌNH
Lưu thủy khứ tuyệt quốc
Phù vân từ cố quận
Thủy hoặc luyến tiền phố
Vân do quy cựu san
Hận quân lưu sa khứ
Khí thiếp Ngư Dương gian
Ngọc trợ dạ phù lưu
Song song lạc chu nhan
Hoàng điểu tọa tương bi
Lục dưỡng thùy cánh phan
Chúc cẩm tâm thảo thảo
Phiêu đăng lệ ban ban
Khuy kính bất tự thức
Huống nãi cuồng phu hoàn
TÌNH TRONG PHÒNG KHUÊ
Nước đến nơi xa thẳm
Mây từ biệt ải xưa
Nước còn thương bến cũ
Mây còn về núi nhà
Lưu Sa chàng lận đận
Ngư Dương thiếp xót xa
Đêm đêm tuôn đũa ngọc
Hai hàng trên mặt hoa
Chim cùng ta sầu khổ
Cành liễu ai người vin?
Lòng đau dệt bức gấm
Lệ rơi khêu gọn đèn
Soi gương ngỡ người lạ
Chàng về biết có quên
NGÔ VƯƠNG VŨ NHÂN BÁN TÚY
Phong độ hà hoa thủy điện hương
Cô Tô đài thượng yến Ngô Vương
Tây Thi túy vũ kiều vô lực
Tiếu ỷ đông song bạch ngọc sang
NGƯỜI MÚA CỦA NGÔ VƯƠNG TRONG LÚC DỠ SAY
Gió lộng hồ sen ngát điện hương
Cô Tô vui mở tiệc Ngô Vương
Tây Thi say múa thân mềm mại
Cười tựa bên song ngã xuống giường
LÝ BẠCH
CẢNH HỒ NAM
ĐỖ PHỦ ( 712 – 720 )
Cháu 13 đời của Đỗ Dự . Một danh tướng đời Tần người Đỗ Lăng-Kinh Triệu , người ta còn gọi Đỗ Phủ là Đỗ thiếu Lăng, hay Đỗ công Bộ vì Đỗ Phủ có lúc làm quan ở công bộ.
Đỗ Phủ rất thông minh hoạt bát. Các danh sĩ Lạc Dương đương thời như Thôi Thượng , Ngụy Tâm Khải khi đọc thơ Đỗ Phurddeeuf khen là Ban Cố -Dương Hùng tái sinh . Ngoài tài làm thơ Đỗ Phủ còn có tài viết chử . Lên 9 tuổi đã viết được đại tự theo bút pháp Ngô Thế Nam
THU HỨNG ( Bài 1 )
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn , vu giáp khí tiêu sâm
Giang san ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai đa nhật lệ
Cố chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xữ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm
THU HỨNG
Rừng phong móc phủ cảnh thê lương
Mờ mịt vu sơn luống đoạn trường
Trời rộn Tràng giang làn sóng nổi
Đất liền quan ải khói mây tràn
Nở hai mùa cúc hàng châu lệ
Buộc một con thuyền bùng cố hương
Giục giã nơi nơi may áo lạnh
Thành chiều Bạch đế tiếng chày vang
THU HỨNG ( Bài 2 )
Thành phụng cô liêu nắng xế tà
Nương sao nam đẩu ngóng kinh hoa
Tai nghe tiếng vượn rơi hàng lệ
Bước lỡ thuyền quân nhớ bạn xa
Dinh vẽ lò hương rầu gối mộng
Kèn sầu lũy vắng quạnh lòng ta
Hãy trông bóng nguyệt in trên đá
Đã chiếu bờ lau mấy đóa hoa
ĐỖ PHỦ
BẠCH CƯ DỊ ( 772 – 846 )
Sinh năm thứ 7 niên hiệu Đại Lịch 772 ,mất năm thứ 6 niên hiệu Hội Xướng 846 . Lớn hơn Nguyên Chẩn 7 tuổi, Liểu Tông 1 tuổi và nhỏ hơn Hàn Dũ 4 tuổi . Cùng tuổi với Lưu Vũ Tích, theo lời Bạch Cư Dị thì ông là dòng dõi của tướng Bạch Khởi nước Tấn người Sơn Tây Thái Nguyên . Đến đời Tằng Tổ Bạch Ôn mới dời sang Thiểm Tây phía nam sông Vị , ông sinh tại huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam
TRÌ THƯỢNG
Tiểu oa sanh tiểu đỉnh
Thâu thái bạch liên hồi
Bất giải tang tung tích
Phù bình nhất đạo khai
TRÊN AO
Người xinh bơi chiếc thuyền xinh
Bông sen trắng nõn trắng tinh hái về
Hớ hênh dấu vết không che
Trên ao để một luồng chia mặt bèo
Tản Đà dịch
TRÊN AO
Một cô gái nhỏ bơi thuyền nhỏ
Đi hái hoa sen trắng trở về
Không biết khôn ngoan che dấu vết
Mặt bèo để hở một đường đi
Trần Trọng San dịch
Các tác phẩm Tỳ bà hành, trường hận ca là những tâm sự ông viết năm 28 tuổi
BẠCH CƯ DỊ
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.