Nov 23, 2024

Viết về tác giả & tác phẩm

huệ thu
m.loanhoasử * đăng lúc 08:51:34 PM, Aug 24, 2009 * Số lần xem: 1875
Hình ảnh
#1

Huệ Thu sinh trưởng tại thanh phố đàlạt . Làm thơ từ hồi còn học trung học, hiện cùng gia đình định cư tại san jose bắc cali.

 

tác phẩm đã xuất bản :

 
     ·       Sương chiều thu đọng * thơ 1991 

·       Đầu non mây trắng * thơ 1995 

·       Lục bát Huệ Thu *  1997 

·       khoảng 5 tuyển tập. thơ văn in chung.

   

                              *

 

  Gấp cuốn Đoạn Trường tân Thanh của Nguyễn Tiên Điền lại , trong đầu văng vẳng còn hai câu:

 

có tài mà cậy chi tài

chữ tài liền với chữa tai một vần

[kiều]

 

mở Sử Thi Đầu non mây trắng phần thứ hai [2] tức là cuối biển mù sương , của Huệ Thu lại bắt gặp :

 

thiên tài đi với thiên tai

cầm như hai chữ sắc tài trời ghen

[trích đoạn 25]

 

 

 

Chữ Tài là chữ Việt , là người có Tài  hơn người khác ,chữ Tài là âm của chữ Đại [Hán Nôm.] là lớn , là vĩ đại , Trong sòng bạc  , có chỗ đánh bạc gọi là Tài xiểu, có nghĩa là có hai con tào cáo [ xúc xắc] chia làm ba phần , phần ở giữa là tổng số hai con xuc xắc cộng lai thành số bẩy [7] gọi là số trung.

hai con xúc xắc cộng lại từ số hai đến số sáu là số Tiểu [xiểu] là số nhỏ . và trên bay [7] là Đại [tài].

Cũng vì chữ Tài này , mà biết bao nhiêu người khổ nạn ,họ cũng không phải la văn thi nhac hoa sĩ gì? bên tàu từ Phạm Lãi ,VănChủng ,Bách lý hề  , Trương Lương , Hàn Tín, Khương thượng Tử Nha . Bên ta thi có Nguyễn Trãi , Lê văn Duyệt , Đặng Trần Thường ,  Ngô thời Nhậm , Cao Bá quát , Nguyễn Văn Thành .....đến con chim hót hay cũng chết vì tiếng hót , đến con chồn Hương chết vì có mùi xạ.

 

có khi mình muốn được điên

[giống như Bùi Giáng , có phiền ai đâu!]


Có khi mình muốn đi tu

[giống như gã Phạm Thiên Thư hồi nào ....]

 

Trong thơ của Huệ Thu bàng bạc tư tưởng của nhà Phật , nói về nhân quả trần gian , cái nghiệp sắc sắc không không của kiếp làm người , nho nhỏ và hữu hạn

 

đầu non mây trắng mù sa

ở đây , cuối biển chan hòa mù sương.

[trích đoạn 100]

 

ôi cuộc đời đầy chông gai và lao khổ , Chúa vác Thánh Giá của Chúa còn con người mỗi người tự vác Thanh Giá của chính bản thân mình , nặn ghay nhẹ cũng tùy duyên , tùy nhgiệp , không ai vác dùm ai , trên một cuộc hành trình dài đi về cõi vô thủy vô
chung biết bao nhiêu là trở ngại dọc đường.,có người vác quá nặng , và khôn hơn người khác bèn mang theo cái Cưa, đoạn gỗ nào không cần thiết thì cưa bớt đi để vác trtên vai cho nó nhẹ, đúng là có nhẹ thật , nhẹ hơn người khác , nhưng cái nợ đời cái gì đi thì đi mà cái gì đến thời đến, không chờ va cũng không thể đợi.

 

đoàn lũ hành đi tới một con kinh ngắn [không có cầu bắc ngang] phải ngả Thánh Giá làm cầu mà qua, moli người qua rất dễ dàng, nhưng cai người Khôn cưa cho ngắn Thánh Giá cho ngắn nhẹ đi thi không qua dược [lại phải trở lui kiếm những đoạn gỗ cưa ra . Đóng trở vao [ rồi trở lại qua mới được ]

 

nhưng đoàn lũ hành đã đi xa rồi?. thành ra trong Đoạn Trường Tân Thanh có câu:

 

càng đa đoan lắm càng oan trái nhiều.

 

biết nói thế nào hơn? vì đời là bể khổ , vì vạn sự vô thương , vì vạn sự vô ngã . và cuối đời thì ai nấy cũng có một bến bờ , một chốn nương thân , dựa lưng , một cành cây cho loài chim đậu.

 

hỡi người – người hỡi tình chung

cho em tựa má kề lưng cuối đời

cảm ơn anh ! nửa nụ cười

nửa bao dung cũng là trời đất ban.

 

Phần hai của đầu non mây trắng đoạn [cuối biển mù sương] là một thiên sử ca , vừa bi vừa tráng ,vừa buốn vừa giận vừa thương và niềm tin giống ngọn hải đăng chiếu trên mặt biển vào những ngày dông gió.

 

Tiếng thơ của Huệ Thu văng vẳng theo tiếng sáo diều . vùa bồng bềnh vừa mang mang . vừa thân thương tha thiết . thoang thoảng như mùi trà cúc bay hơi buổi sáng .uống vào thêm ấm cả lòng khiến tâm hồn lâng lâng tiếu xái.

 

 

 

m.loanhoasử

 

 

 

Huệ Thu

thơ trích.

 

 

 

 

 

 

 

Cuối biển mù sương

 

1

 

nửa trăng như chiếc lược ngà

nửa đêm , nấu nước , pha trà ., uống chơi!

nếu tôi còn nửa nụ cười

Chắc vui với nửa cuộc đời tha hương

 

2

 

Đầu non mây trắng , đã buồn

bây giờ cuối biển tôi còn ước chi?

Quê nhà từ lúc ra đi

Đến đây xứ lạ . thấy gì là vui!

 

7

nguyễn du đã nói thế nào

Tại sao ruột thắt gan bào thành Thơ

Đoạn trường ai bảo vu vơ

Tân thanh máy phiến không ngờ mà hay

 

9

Mười lăm năm ấy ....” một câu

Tân Thanh chỉ nói biển dâu một thời

Còn bây giờ Việt nam ơi

Bao nhiêu lâu nữa hết đời tang thương

 

13

 

Trăm năm một chặng làm ngươì

Hay trăm năm có triệu đời lầm than ?

Hãy nhìn kìa – một Việt Nam

Biết bao nhiêu triệu người lầm lũi đi.

 

 

17

 

Sống là nếm trải gian nan

Sống , là chọn lối đoạn trường mà đi

Mẹ chưa hết tuổi Xuân thì

Con còn miệng sữa , nhớ gì cũng quên....

 

 

21

 

Nhấp lưng một chén trà xanh

nhắm lưng con mắt , lệ quanh bao giờ!

Cái buồn nào đọng trong thơ

Nghĩ như là mấy giọt mưa nủa chiều...

 

 

44

 

Ở không ở được thì đi

liều thân trâu ngựa cũng thì liều thôi!

Hẩm hiu chẳng một mình tôi

Nhìn sang đám bạn , lắm người còn hơn

 

52

 

Bây giờ còn chút tóc xanh

Còn sương mù với hoa quỳnh nửa đêm

Bình trà vừa cạn mới chêm

Lửa than mới lạnh , khơi lên lại hồng...

 

 

60

 

Nghẹn ngào viết con số ba

Tôi đâu có thích nhà pha nhà tù

Thế mà nhất nhật thiên thu

Thế mà tôi biết nhà tù cônsơn

 

 

61

 

Dẫu gì tôi cũng cảm ơn

Dời cho tôi khổ , tôi còn hôm nay

Còn đầu non đi hài mây

Còn đang cuối biển nhặt đỳ giỏ sương

 

[cuối biển mù sương]

 

 

 

tứ tuyệt Huệ Thu

 

Tôi khóc , Vì sao ? Rất dễ dàng

như mưa vừa tạt gió bay ngang

như chiều Thu lạnh run cành liễu

rớt xuống bơ vơ chiếc lá vàng...

 

Tôi khóc .Tự nhiên . Tôi khóc được

mười năm xa nước có nhiều chưa?

quê hương lật lại từng trang ảnh

thấy được tàn hương những nấm mồ!


Tôi khóc ! Chiều rơi khô nước mắt

mà lòng ướt sũng buổi mai sương

bầy chim đã bỏ tôi trời rét

bông cỏ bay bay thấy thật buồn

 

 

Tôi khóc. Người ơi tôi muốn gọi

tên ai như thể một giòng sông

để tôi nghe lại qua làn sóng

tiếng vọng bao la biển chập chùng...

 

Tôi khóc . Không ngờ lệ hóa thơ!

một trang giấy trăng mực lem mờ

nỗi niềm đau đớn xem mà được

thì thờ dùm hơi ấm để khô




 

không tới đèo ngang cũng nhớ người

 

 

Kính họa bài Qua Đèo Ngang nhớ Bà

Huyện Thanh Quan của tác giả Hoàng Trinh

[đăng trên Bách Việt số 2 tháng 4 –92]

 

 

Không tới Đèo Ngang cũng nhớ người

bởi thơ còn thắm chữ còn tươi

Dời muôn năm dẫu là cơn mộng

Chuyện một  thời thôi đủ trận cười!

 

Trời đất bốn phương sao nói tám

Âm dương hai cõi hóa ra mười

Nghĩ cho cùng tại điều môi mép

dâu biển bày chi để hổ ngươi

 

Giấu hổ ngươi tìm cách mỉa mai!

Cái vòng thế sự buộc tâm ai

Thiên đường chín nấc :Niềm Mơ Hão!

Hương nguyện ba sinh Tiếng thở Dài!

Đứng lại thấy chưa bờ vực thẳm?

Bay vù , chắc đến cõi thiên thai

Hỡi ơi Thiên Địa Nhân hòa hợp

Một nét son khuyên hóa chữ tài

 

Chữ Tài chữ Mệnh khéo liền thân

Tài của trời cho , chính nợ nần

Giấy mực dư thừa ghi tiếp tiếp

Kệ kinh sợ thiếu nói vân vân...

Hữu duyên cây cỏ quen thành mến

Vô mệnh vănchương lạ khiến gần

Phong vận phủi tay mà rớt nhỉ

Anh hùng mấy kẻ sánh Huyền trân

 

Huyền Trân một gái đổi hai châu

Ngàn dậm bây giờ đâu ở đâu?

Lệ ngọc sáng ngời thanh bảo kiếm

Tóc huyền tỏa rợp lối linh câu

Giang san còn thấy hình muôn thủa

Thiên hạ chưa bình được bấy lâu

Ai khiến đèo ngang đâm núi dọc

đá lăn lóc đá gợi chi sầu !

 

m.loanhoasử

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.