|
Cổ thi Việt NamĐồ Sơn bát vịnh Thể thơ: Thất ngôn bát cú (thời kỳ: Cổ đại) Ðông Sơn thừa lương Ðồ Sơn chi đông viết Ðông Sơn, Dao vọng sơn hình tự mã yên, Cổ tự môn tòng lâm lộc xuất, Giang phi động tại thạch bình gian, Phiếm châu hữu khách ca minh nguyệt, Cao ngận hà nhân túy thạch bàn, Sơn đỉnh bất tri tang hải biến, Ngật nhiên chi trụ chướng cuồng lan.
Hóng mát Ðông Sơn (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Ðông Ðồ Sơn núi gọi Ðông Sơn, Yên ngựa hình non xa thoáng trông, Cổ tự, cổng thiền rừng thấp thoáng, Hang Giang cửa động đá mênh mông. Thả thuyền khách hát trong trăng sáng Nằm khểnh ai say giữa thạch bàn, Non núi nào hay dâu biển mải, Bên trời sừng sửng chắn cuồng phong.
2. Long tỉnh quá trạc Ngọc sơn sơn hạ tiểu khê biên, Xuyên thạch quyên quyên chú bách xuyên. Nhuận hoạt hồn như hòa ngọc dịch, Thanh hương sai khả thắng long diên. Dư ba tư tưởng thiên chu thụ, Lưu trạch xuyên xuyên vạn lục điền. Tinh diệp khởi ưng tư nhất ấp, Vương Minh dụng cấp phúc di thiên.
Qua chơi giếng rồng (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Dưới núi Ngọc Sơn dòng nước trong, Thấm hòa xuyên đá rót trăm sông, Hồn như nước ngọc lên ngời sáng, Hơn thể rãi rồng tỏa ngát hương, Róc rách tưới lên ngàn gốc đỏ Chan hòa dòng thắm vạn đồng xanh, Há riêng giếng nước cho thôn ấp, Chu cấp Vương Minh, phước báu ban. 3. Phật động thâm u Truyền văn Phật tích tại Linh San, Cận đắc sơn ông chỉ thử gian, Ðộng khẩu thiển thâm hoang thảo kính Tự ngân nồng đậm ấn đài ban, Phóng đăng hồ ngoại kiều do tại, Cấp thủy biên khê tỉnh bất can, Sắc tức thị không không thị sắc, Thiền gia đương tác như thị quan.
Phật động thâm u (Người dịch: Phạm Trọng Chánh
Tương truyền dấu Phật tại Linh Sơn, Nay được sơn ông chỉ đỉnh non, Cửa động nông sâu cây cỏ dại, Chữ mờ phai nhạt dấu rêu mòn. Ngoài hồ đèn thả, cầu soi bóng, Bến nước khe trong, chẳng cạn dòng, Sắc tức thị không, không thị sắc Thiền gia hiểu thế việc trần gian. Núi Linh Thứu nơi Phật ở và thuyết pháp. Nơi thả đèn hoa sen nhân lễ Vu Lan. Sắc không: thuyết vô ngã, sắc là hình tướng sự vật, là có do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, là không vì tự nó không thật có.
4.Ðăng Đông Sơn tự kiến ký kỳ 1
Ðông Sơn cảnh chiếm nhất hồ thiên, Bảo áp phi lai pháp giới yên, Nham thạch điểm đầu hoàn vũ hạ, Thiên hoa mãn thụ lộng phong tiền, Ðế Bà hương hỏa phương lân cận, Trịch Chúa xa luân cựu tích truyền, Phổ độ hàng từ siêu khổ ải, Thuần âu than hạ túc ngư thuyền.
Lên chơi Đông Sơn tự kỳ 1 (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Ðông Sơn cảnh chiếm một hồ riêng, Uyên báu bay về, khói pháp chen, Ðá núi điểm đầu, mưa phất xuống, Ngàn hoa nở rộ, gió tung lên, Ðế Bà hương hỏa thơm bên xóm, Trịnh Chúa xe qua vết cũ còn, Cứu độ bè từ qua bể khổ, Chim âu ngủ đứng bến ngư thôn. Tên cô gái địa phương bị Chúa Trịnh Giang hiếp, có mang, dân làng bắt tội ném xuống biển, hiển thánh, sau được dựng chùa thời gọi là Ðế Bà.
4a . Ðăng Đông Sơn tự kiến ký kỳ 2 Bạch lộ hoành giang thủy tiếp thiên, Tùng lâm nhất thốc cách vân yên, Nữ Vu trị vũ vô đông hạ, Ngư phủ phi điêu hoặc hậu tiền, Ngộ đạo cao tăng huề tích khứ, Hiện thân Cổ Phật đáo kim truyền, Ðăng lâm độc bộ Ðông Sơn thượng, Thừa hứng lâm lưu nguyệt mãn thuyền.
Lên chơi Đông Sơn tự kỳ 2 (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Cò trắng qua sông nước nối trời, Chùa thiền một cảnh khói mây trôi, Nữ Vu trị thủy không đông hạ, Ngư phủ thuyền qua sau trước bơi. Ngộ đạo Cao tăng mang gậy xuống, Hiện thân Phật Tổ đến đây rồi. Một mình lên núi Ðông Sơn dạo, Thi hứng đầy thuyền trăng sáng soi. | 5. Tháp sơn hoài cổ Cổ tháp di khư loạn thảo đôi, Dục Vương khứ hậu ủy hôi đồi, Thiên quân bảo khí minh lưu thủy, Cửu cấp phù đồ hóa kiếp hôi, Tiều tử ỷ kha miên thạch đắng, Mục nhi khu độc há sơn ôi, Ðăng cao dục hội sơn tăng giảng, Hà xứ chung thanh khụ nhất hồi.
Lên núi nhớ xưa (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Tháp cũ nền xưa cỏ dại tràn, Dục Vương xa vắng cảnh hoang tàn, Ngàn cân bảo khí reo bên nước, Chín bậc phù đồ gạch ngói tan, Tiều tử tựa rìu bên đá ngủ, Mục đồng xua nghé xuống đồi hoang, Lên cao muốn hỏi sơn tăng đạo, Chuông vắng đâu đây vọng cuối ngàn. Chú thích: Dục Vương Vua Asoka, sinh sau Ðức Phật ba trăm năm, thống nhất Ấn Ðộ và dựng chùa kết tập kinh điển và truyền bá Phật Giáo khắp nơi.
6. Thạch phố quan ngư Phong điềm ba tỉnh độ giang mi, Vọng vọng ngu châu nhất tự nhi, Thủ thám giao cung giang tác lộ, Võng thu thần thị tịch vi kỳ, Huề la bản phụ phan thuyền vĩ, Khấu tiệp đà sư hệ tửu chi, Hoặc thủ chư "ly" kiêm thủ "hoán", Thánh nhân khai vật dữ nhân nghi.
Bến đá xem đánh cá (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Gió im sóng lặng dạo bên sông, Ngắm ngắm thuyền chài giang giăng hàng, Tay kiếm hang rồng sông mở lối, Lưới quăng chợ hến sóng cờ dâng, Bà buôn xách giỏ vin khoan cuối, Ông lái gõ chèo chén rượu nâng, Hoặc lúc quẻ ly, khi quẻ hoán, Thánh nhân định vật, ý người trần. 7.Bộ Khánh Minh tự cảm hứng Phạn Vương quy khứ kỷ thời lai, Không ủy Kỳ Viên ế thảo lai, Khánh hữu cơ duyên quy biệt viện, Chung vô cư nghiệp trệ không giai, Ðồi lương bại ngõa sào ma tước, Phá kệ tàn bi yểm lục đài, An đắc Như Lai Thiên Thủ Phật, Hư không nhất dạ khởi lâu đài.
Dạo chùa Khánh Minh cảm hứng (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Phạn Vương đi khỏi bao giờ lại, Còn để Kỳ Viên cỏ mọc đầy, Khánh đá có duyên dời viên khác, Chuông không giá móc vất bên đài, Ngói tan, xà mục chim làm tổ, Bệ vỡ, bia mòn rêu biếc vùi, Giá được ngàn tay như Phật Tổ, Hư không một tối dựng lâu đài. Nơi Ðức Phật và Tăng già an cư kiết hạ khi mùa mưa. 8. Cốc tự tham thiền Thần ngoan quỷ tạc bất tri niên, Thế thế an bài nhược tự nhiên, Ốc bất ngõa từ giai bất thế, Nham như tường bích thạch như diên, Dạ minh hiến quả liên đài hạ, Phong tử hàm hoa bảo án tiền, Ðào hưởng tiều ca hòa điểu ngữ, Thanh thanh hoán tỉnh lão tăng miên.
Thiền định ở chùa Cốc (Người dịch: Phạm Trọng Chánh)
Thần bào quỹ đẽo tự bao niên, Hình thể an bài sẵn tự nhiên, Mái chẳng ngói tranh, thềm chẳng trát, Vách như tường lát, đá như sườn. Ðàn dơi cúng trái dài sen quý, Ong mật dâng hoa trước án hương. Sóng vỗ, ca tiều, chim chóc hót, Sư già chợt tỉnh giấc miên mang.
|
Qua tám bài Vịnh cảnh Ðồ Sơn, ta thấy Hồ Xuân Hương rất thông suốt Phật pháp: biết núi Linh Thứu, biết vườn Kỳ Viên, biết tích Vua A-Dục, biết việc Vương Minh đào giếng giúp dân, ban phước, biết tích Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn. Xuân Hương thiền định ở Chùa Cốc, thuộc kinh điển: sắc tức thị không không tức thị sắc, Cao tăng là hiện thân Phật Tổ... Xuân Hương còn thông Kinh Dịch quẻ ly quẻ hoán. Thơ Vịnh cảnh chùa Hồ Xuân Hương tràn đầy thiền vị, của một Phật tử đầy đạo tâm... điều đó trái ngược với sự dốt nát, xấc xược trong những bài thơ truyền khẩu gán cho Xuân Hương. Tác giả bài viết: Phạm Trọng Chánh Ý kiến bạn đọcVui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
|
|