CHƯƠNG TÁM
ГЛАВА ВОСЬМАЯ
Fare thee well, and if for ever
Still for ever fare thee well.
Byron.[* 1]
I.
В те дни, когда в садах Лицея
Я безмятежно расцветал,
Читал охотно Апулея,
А Цицерона не читал,
В те дни, в таинственных долинах,
Весной, при кликах лебединых,
Близ вод, сиявших в тишине,
Являться Муза стала мне.
Моя студенческая келья
Вдруг озарилась: Муза в ней
Открыла пир младых затей,
Воспела детские веселья,
И славу нашей старины,
И сердца трепетные сны.
Xin chào, nếu là mãi mãi, xin chào vĩnh biệt.
Bairơn
I.
Những ngày ấy, dưới mái trường Lísêy ấm cúng
Tôi đã trưởng thành bình yên, vô lo lắng,
Tôi say mê tìm đọc sách Apulêy,
Mà không hề đọc tới Shiserôn,
Cũng ngày ấy, trên cánh đồng huyền bí,
Mùa xuân đến, tiếng thiên nga ầm ỹ
Trên mặt hồ bừng sáng, quá bình yên,
Nàng Thơ tìm về thăm hỏi tôi luôn.
Phòng ở của tôi thời học sinh lưu trú
Bỗng rực sáng chan hòa. Ở nơi đó
Nàng mở đầu bao dự định, vui thú trẻ trung,
Đã ngợi ca bao trò nghịch của trẻ con,
Và ca tụng niềm vinh quang thuở trước,
Những giấc mộng xốn xang trong con tim nao nức.
II.
И свет ее с улыбкой встретил;
Успех нас первый окрылил;
Старик Державин нас заметил
И, в гроб сходя, благословил.
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
II.
Cuộc đời đón Nàng Thơ với nụ cười tươi tắn;
Đã chắp cánh cho ta nhờ lần đầu chiến thắng;
Ông già Đergiavin đã nhận ra ta
Cả khi ông xuống mồ, vẫn có lời ngợi ca.
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
III.
И я, в закон себе вменяя
Страстей единый произвол,
С толпою чувства разделяя,
Я Музу резвую привел
На шум пиров и буйных споров,
Грозы полуночных дозоров;
И к ним в безумные пиры
Она несла свои дары
И как Вакханочка резвилась,
За чашей пела для гостей,
И молодежь минувших дней
За нею буйно волочилась —
А я гордился меж друзей
Подругой ветреной моей.
III.
Và tôi ép mình phải theo lề luật
Quản cho chặt say mê tự do nhất,
Phải sẻ chia tình cảm với đám đông,
Tôi dẫn Nàng Thơ sôi động, tinh thông
Đến dự tiệc vui long trời, luận tranh ngậu ngã,
Các cuộc kiểm tra giữa đêm đầy dông bão ;
Và khi thăm các đám tiệc điên khùng,
Nàng Thơ đem theo quà tặng của mình
Và như thần rượu Vakhanôchka càng sôi sục
Bên chén rượu, hát cho khách nghe thưởng thức,
Và đám người trẻ của những ngày qua
Bám theo Nàng Thơ lăn lộn, bôn ba-
Còn tôi tự hào giữa biết bao bè bạn
Có bạn gái của mình luôn nhẹ dạ.
IV.
Но я отстал от их союза
И вдаль бежал… она за мной.
Как часто ласковая Муза
Мне услаждала путь немой
Волшебством тайного рассказа!
Как часто, по скалам Кавказа,
Она Ленорой, при луне,
Со мной скакала на коне!
Как часто по брегам Тавриды
Она меня во мгле ночной
Водила слушать шум морской,
Немолчный шепот Нереиды,
Глубокий, вечный хор валов,
Хвалебный гимн отцу миров.
IV.
Nhưng tôi nhỡ chân, bị hội đoàn bỏ lại
Và tôi chạy phía xa… Nàng Thơ theo tôi mãi.
Thông thường thì Nàng Thơ vốn dịu dàng
Lặng lẽ làm cho đường tôi đi nhẹ nhàng
Bằng câu chuyện có phép thần bí mật!
Như thường thấy trên các nẻo đường Kavkaz,
Nàng là thần Lenora, dưới ánh trăng,
Đã cùng tôi trên lưng ngựa phóng nhanh!
Còn hay gặp trên bờ Tavriđa khi thăm viếng
Trong bóng tối đêm đen Nàng đưa tôi đến
Nghe ào ào sóng biển vỗ bờ xa,
Tiếng thì thầm không ngừng của Nherêyđa,
Góp tiếng hát lắng sâu, muôn đời đầu sóng nổi
Cùng ca tụng Người trị vì thế giới.
V.
И, позабыв столицы дальной
И блеск и шумные пиры,
В глуши Молдавии печальной
Она смиренные шатры
Племен бродящих посещала,
И между ими одичала,
И позабыла речь богов
Для скудных, странных языков,
Для песен степи ей любезной…
Вдруг изменилось всё кругом:
И вот она в саду моем
Явилась барышней уездной,
С печальной думою в очах,
С французской книжкою в руках.
V.
Khi quên hết hào quang, tiệc vui ồn ã
Của chính thủ đô nay thành xa xôi quá
Giữa hoang vu Môlđavia khá buồn phiền
Nàng Thơ thăm các lều trại bình yên
Nhiều bộ lạc du mục đành nay đây mai đó
Sống trong lều, Nàng Thơ thành người hoang dã,
Quên mất luôn ngôn ngữ của thánh thần
Dành cho bao thứ tiếng xa lạ, nghèo nàn,
Với cả những bài ca mà Nàng yêu tha thiết…
Chợt mọi việc chung quanh thay đổi hết:
Và giờ đây, Nàng có mặt trong vườn tôi
Đến trong vai quý cô tỉnh lẻ, quê mùa thôi,
Với suy nghĩ buồn rầu nơi ánh mắt,
Trong tay vẫn cầm sách in tiếng Pháp.
VI.
И ныне Музу я впервые
На светский раут[1] привожу;
На прелести ее степные
С ревнивой робостью гляжу.
Сквозь тесный ряд аристократов,
Военных франтов, дипломатов,
И гордых дам она скользит;
Вот села тихо и глядит,
Любуясь шумной теснотою,
Мельканьем платьев и речей,
Явленьем медленным гостей
Перед хозяйкой молодою,
И темной рамою мужчин
Вкруг дам как около картин.
VI.
Và giờ đây, lần đầu tiên tôi dẫn
Nàng Thơ đến giới thượng lưu gặp gỡ;
Với những điều kỳ diệu từ xứ thảo nguyên
Lòng ngại ngùng phát ghen tức, tôi đứng nhìn.
Xuyên qua đám đông nhiều nhà quý tộc,
Quân nhân bảnh bao, nhà ngoại giao bặt thiệp,
Nàng Thơ đi qua các quý bà thật kiêu kỳ,
Rồi ngồi im một chỗ lặng lẽ nhìn,
Khi quan sát cảnh ồn ào, chật chội,
Thấp thoáng dáng phục trang và lời nói
Cứ dần dần khách khứa dẫn tới đây
Trước nữ nhân chủ nhà đẹp, trẻ thay,
Bộ khung sẫm màu ghép lại bằng đàn ông cả
Quanh các quý bà như đứng bên bức họa.
VII.
Ей нравится порядок стройный
Олигархических бесед,
И холод гордости спокойной,
И эта смесь чинов и лет.
Но это кто в толпе избранной
Стоит безмолвный и туманный?
Для всех он кажется чужим.
Мелькают лица перед ним,
Как ряд докучных привидений.
Что, сплин иль страждущая спесь
В его лице? Зачем он здесь?
Кто он таков? Ужель Евгений?
Ужели он?.. Так, точно он.
— Давно ли к нам он занесен?
VII.
Nàng thấy thích nếp phong lưu, quý phái,
Cuộc trò chuyện tốp siêu giầu cầm lái
Sự lạnh lùng đầy kiêu hãnh, bình yên,
Là trộn pha tuổi tác với chức quyền.
Nhưng ai đấy nhỉ, trong khách mời nhà chọn được,
Đang im lặng, như đứng trong sương đặc?
Ai cũng cho chàng là khách lạ xa.
Những mặt người thấp thoáng trước chàng lướt qua,
Như cả loạt ảo ảnh quỷ ma buồn chán
Như vẻ chán chường hay kiêu kiêu, thù oán
Lộ hết trên mặt chàng? Chàng đến làm gì?
Chàng là ai? Chả lẽ là Ônhêghin?
Không có lẽ là chàng? …Thì đúng đấy.
- Chàng đã được mời đến nhà lâu chưa vậy?
VIII.
Всё тот же он, иль усмирился?
Иль корчит так же чудака?
Скажите, чем он возвратился?
Что нам представит он пока?
Чем ныне явится? Мельмотом,
Космополитом, патриотом,
Гарольдом, квакером, ханжой,
Иль маской щегольнет иной,
Иль просто будет добрый малой,
Как вы да я, как целый свет?
По крайне мере мой совет:
Отстать от моды обветшалой.
Довольно он морочил свет…
— Знаком он вам? — И да и нет.
VIII.
Chàng vẫn thế hay hiền lành hơn trước?
Hay vẫn tỏ ra ngông cuồng hết mức?
Xin cho hay, chàng trở lại thế nào?
Chàng trình làng kiểu gì vào lúc này?
Làm gì nhỉ? Là Menmốt hay lãng du khắp chốn,
Theo thuyết vũ trụ luận, hay nhà ái quốc lớn,
Là Garald, đạo đức giả, hay tín đồ Tin lành,
Hay chỉ khoe mặt nạ khác trên mình
Hay đơn giản chàng tí hon tốt bụng,
Hay giống các vị và tôi, toàn dân chúng?
Ít nhất, xin nghe lời khuyên nhủ của tôi:
Hãy tránh xa thứ mốt đã lỗi thời.
Chàng đã phỉnh phờ cuộc đời này đủ quá…
-Các vị có quen chàng? - Vừa không, vừa có cả.
IX.
— Зачем же так неблагосклонно
Вы отзываетесь о нем?
За то ль, что мы неугомонно
Хлопочем, судим обо всем,
Что пылких душ неосторожность
Самолюбивую ничтожность
Иль оскорбляет иль смешит,
Что ум, любя простор, теснит,
Что слишком часто разговоры
Принять мы рады за дела,
Что глупость ветрена и зла,
Что важным людям важны вздоры,
И что посредственность одна
Нам по плечу и не странна?
IX.
-Sao các vị tỏ ra không thân thiện,
Khi đánh giá chàng, đưa ra ý kiến?
Liệu có do chúng tôi nói hơi nhiều
Luôn bận tâm, nhận xét về mọi điều,
Rằng người nhiệt huyết đều không cẩn trọng,
Tính tự ái đâu phải cần xem nặng
Bị đem ra sỉ nhục hay đùa cợt là thường
Rằng người yêu tự do thấy tù túng trong lồng,
Rằng nhiều chuyện chỉ là nói suông, đường mật,
Vậy mà thấy sướng rơn coi là việc thật,
Rằng điều ngu ngốc thường nhẹ dạ, nhẫn tâm,
Người chức quyền chỉ để ý điều nhảm nhí hơn,
Rằng những thứ tầm tầm, luôn xoàng xĩnh,
Ta lại hợp, không xem là lạ lẫm?
X.
Блажен, кто с молоду был молод,
Блажен, кто во-время созрел,
Кто постепенно жизни холод
С летами вытерпеть умел;
Кто странным снам не предавался,
Кто черни светской не чуждался,
Кто в двадцать лет был франт иль хват,
А в тридцать выгодно женат;
Кто в пятьдесят освободился
От частных и других долгов,
Кто славы, денег и чинов
Спокойно в очередь добился,
О ком твердили целый век:
N. N. прекрасный человек.
X.
Hạnh phúc thay ai trẻ ngay từ trẻ,
Thật may mắn ai trưởng thành không trễ,
Trước cuộc đời lạnh lẽo, thờ ơ;
Ai bền gan chịu đựng với tháng năm qua,
Ai không hiến hết cho mộng mơ huyễn hoặc,
Ai hiểu rõ trên đời đầy đen bạc,
Tuổi hai mươi biết trưng diện cộng khôn ranh,
Tuổi ba mươi biết chọn vợ theo tính toán riêng;
Năm mươi tuổi biết càng nhanh giải thoát
Mọi khoản nợ riêng và nhiều nợ khác,
Ai đạt vinh quang, tiền bạc, chức quan
Cứ bình yên, tuần tự, quen xếp hàng,
Ai suốt cả đời được người khen nức nở:
N.N. chính là người càng tài giỏi.
XI.
Но грустно думать, что напрасно
Была нам молодость дана,
Что изменяли ей всечасно,
Что обманула нас она;
Что наши лучшие желанья,
Что наши свежие мечтанья
Истлели быстрой чередой,
Как листья осенью гнилой.
Несносно видеть пред собою
Одних обедов длинный ряд,
Глядеть на жизнь как на обряд,
И вслед за чинною толпою
Идти, не разделяя с ней
Ни общих мнений, ни страстей.
XI.
Nhưng buồn thật, nghĩ rằng sao phí hại
Tuổi trẻ được ban cho ta mãi mãi,
Rằng tuổi xanh bị phản bội suốt đời,
Rằng tuổi trẻ thường dối lừa con người;
Rằng khát vọng đẩu đời cao đẹp nhất,
Rằng mơ ước của ta trẻ trung thật,
Đều lụi tàn theo vết trượt quá nhanh,
Như lá rơi mùa thu sớm rữa tan.
Chịu sao nổi khi ta càng chứng kiến
Đời là loạt bữa tiệc dài không hết,
Nhìn vào đời chỉ thấy tất lễ nghi,
Toàn chạy theo đám người mơ khanh tướng chi chi,
Ta đi miết, không sẻ chia cùng ai cả
Những ý kiến chung, những say mê rực lửa.
XII.
Предметом став суждений шумных,
Несносно (согласитесь в том)
Между людей благоразумных
Прослыть притворным чудаком,
Или печальным сумасбродом,
Иль сатаническим уродом,
Иль даже Демоном моим.
Онегин (вновь займуся им),
Убив на поединке друга,
Дожив без цели, без трудов
До двадцати шести годов,
Томясь в бездействии досуга
Без службы, без жены, без дел,
Ничем заняться не умел.
XII.
Chịu sao nổi (bạn tán đồng cùng tôi nhỉ)
Khi ta bị lôi ra luận bàn ầm ỹ,
Giữa những người chín chắn, khôn ngoan
Tiếng giả vờ kỳ quặc - ta phải mang,
Hay là kẻ khùng điên luôn buồn chán,
Hay quái vật Sa tăng luôn phá đám,
Thậm chí hay là Đêmôn của tôi
Ônhêghin (tôi lại nói tới chàng thôi),
Vì đấu súng đã giết đi người bạn,
Chàng sống nốt, không mục tiêu, không làm lụng,
Trước hai mươi sáu tuổi lận cuộc đời,
Chỉ bận lo nhảy nhót rồi vui chơi,
Không phục vụ, chẳng vợ con, không bận bịu,
Không làm nổi một việc nên hồn thật sự.
XIII.
Им овладело беспокойство,
Охота к перемене мест
(Весьма мучительное свойство,
Немногих добровольный крест).
Оставил он свое селенье,
Лесов и нив уединенье,
Где окровавленная тень
Ему являлась каждый день,
И начал странствия без цели,
Доступный чувству одному;
И путешествия ему,
Как всё на свете, надоели;
Он возвратился и попал,
Как Чацкий, с корабля на бал.
XIII.
Chàng cứ thấy trong lòng không yên ả
Thú xê dịch, luôn đổi thay chỗ ở
(Cái tính này gây đau khổ rất dài,
Có vài người tự nguyện mang thập tự trên vai).
Chàng bỏ lại đằng sau làng quê từng sống,
Những đồng lúa, cánh rừng trải dài rộng,
Nơi còn lưu dấu máu đậm hôm xưa,
Vẫn hiện trong tâm trí từng phút từng giờ,
Chàng đã bắt đầu đi đó đây không mục đích,
Làm việc ấy chỉ có tình cảm là hiểu hết,
Và mọi lần đi thăm đó thăm đây,
Như mọi điều trên đời rồi có lúc chán ngay;
Chàng trở về, và bước chân vào đời lại,
Hệt Trasky xuống tầu là tiến vào vũ hội.
XIV.
Но вот толпа заколебалась,
По зале шепот пробежал…
К хозяйке дама приближалась,
За нею важный генерал.
Она была нетороплива,
Не холодна, не говорлива,
Без взора наглого для всех,
Без притязаний на успех,
Без этих маленьких ужимок,
Без подражательных затей…
Всё тихо, просто было в ней,
Она казалась верный снимок
Du comme il faut… [* 2] (Шишков, прости:
Не знаю, как перевести.)
XIV.
Nhưng đám khách chợt bắt đầu di chuyển,
Nghe vang khắp phòng tiếng thầm thì trò chuyện …
Đến gần bà chủ nhà, một mệnh phụ đang đi,
Theo sau nàng là ông tướng uy nghi,
Trông nàng bước từ từ, không vội vã,
Vẻ mặt chẳng nhiều lời, không lạnh giá,
Không ánh nhìn trơ trẽn trước mọi người,
Không kiếm tìm thắng lợi, thành công hoài,
Không động tác, hay nét nhìn ngúng nguẩy,
Không muốn bắt chước theo ai đưa đẩy…
Nàng toát lên vẻ bình thản, giản đơn,
Có lẽ nàng là bức vẽ chính xác luôn
Du comme ít faut… (Thưa Siskôp, xin tha lỗi:
Tôi chưa biết cách làm sao dịch nồi.)
13. Du comme il faut…
XV.
К ней дамы подвигались ближе;
Старушки улыбались ей;
Мужчины кланялися ниже,
Ловили взор ее очей;
Девицы проходили тише
Пред ней по зале: и всех выше
И нос и плечи подымал
Вошедший с нею генерал.
Никто б не мог ее прекрасной
Назвать; но с головы до ног
Никто бы в ней найти не мог
Того, что модой самовластной
В высоком лондонском кругу
Зовется vulgar. [* 3](Не могу…
XV.
Thấy nhiều quý bà lại gần nàng hơn nữa;
Các bà lão mỉm cười chào niềm nở;
Cánh đàn ông cúi mình xuống thấp hơn,
Mong cố tìm bắt ánh mắt nàng mỹ nhân;
Các thiếu nữ đi qua luôn im lặng,
Đi trước nàng trong phòng: Ai cũng ngắm,
Là mũi và đôi vai dướn vượt hẳn lên
Của người đi cùng là vị tướng quân.
Không ai có thể đẹp hơn nàng được;
Nhưng nhìn kĩ từ đầu tới chân đang bước,
Không có ai phát hiện được luôn,
Có cái gì trong nàng gọi là mốt độc tôn,
Ngay trong giới ăn chơi ở London sành điệu
Gọi là vulgar (Tôi mong dịch ra, mà chịu…
XVI.
Люблю я очень это слово,
Но не могу перевести;
Оно у нас покамест ново,
И вряд ли быть ему в чести.
Оно б годилось в эпиграмме…)
Но обращаюсь к нашей даме.
Беспечной прелестью мила,
Она сидела у стола
С блестящей Ниной Воронскою,
Сей Клеопатрою Невы;
И верно б согласились вы,
Что Нина мраморной красою
Затмить соседку не могла,
Хоть ослепительна была.
XVI.
Tôi quả thật rất là yêu từ đó,
Nhưng không thể dịch trơn tru nghĩa có
Hiện từ này còn mới ở nước ta,
Đã chắc gì được tất cả coi trọng mà.
Rất có thể dùng cho thơ đùa vui thì tốt…)
Nhưng xin nói với quý bà của ta nốt.
Nàng thật xinh, vẻ quyến rũ yêu đời,
Nàng ngồi kia bên bàn dáng thảnh thơi,
Cùng Nhina Varônskaia rạng ngời rực rỡ
Một Kleopatra trên dòng Nhêva tuyệt mỹ
Và chắc là quý vị đồng ý rằng,
Nhina đẹp như đá cẩm thạch tạc thành,
Vẫn không thể lấn át nàng mỹ nhân bên cạnh,
Dù sắc đẹp Nhina rõ là lấp lánh.
XVII.
«Ужели, — думает Евгений, —
Ужель она? Но точно… Нет…
Как! из глуши степных селений…»
И неотвязчивый лорнет
Он обращает поминутно
На ту, чей вид напомнил смутно
Ему забытые черты.
«Скажи мне, князь, не знаешь ты,
Кто там в малиновом берете
С послом испанским говорит?»
Князь на Онегина глядит.
— Ага! давно ж ты не был в свете.
Постой, тебя представлю я. —
«Да кто ж она?» — Жена моя. —
XVII.
“Chả có lẽ,-Evghênhi nghĩ mãi,-
Không có nhẽ là nàng? Nhưng đúng rồi… không phải..
Lạ sao! Từ làng quê ở mãi thảo nguyên…”
Cầm ống nhòm, nhìn dán mắt trân trân,
Chàng theo dõi từng giây, từng phút,
Về phía quý bà có vẻ gợi lên quá ít
Những nét mờ đã quên mất từ xưa
“Bá tước ơi, vậy anh có biết chưa,
Ai đang đội mũ berê màu huyết dụ
Đang tiếp chuyện đại sứ Tây Ban Nha kia chứ?”
Bá tước đưa mắt nhìn Ônhêghin.
-Á à! Anh đã lâu không đến giới thượng lưu.
Đợi chút nhé, Tôi đưa anh đi giới thiệu vậy,-
“Ai thế nhỉ?” -Nàng là nhà tôi đấy.-
XVIII.
«Так ты женат! не знал я ране!
Давно ли?» — Около двух лет. —
«На ком?» — На Лариной. — «Татьяне!»
— Ты ей знаком? — «Я им сосед».
— О, так пойдем же. — Князь подходит
К своей жене и ей подводит
Родню и друга своего.
Княгиня смотрит на него…
И что ей душу ни смутило,
Как сильно ни была она
Удивлена, поражена,
Но ей ничто не изменило:
В ней сохранился тот же тон,
Был также тих ее поклон.
XVIII.
“Anh lấy vợ rồi sao! Tôi nào biết!
Lâu chưa nhỉ? “ -Chừng hai năm là ít .-
“-Lấy ai? “ -Con gái nhà Larina. -“Tachiana à!”
-Anh có quen nàng chứ? -“Tôi vốn láng giềng mà.”
-Ồ vậy thế, ta lại gần chỗ nàng nhé.
Bá tước bước về phía nàng, luôn thể
Dẫn người vừa có họ, vừa là bạn thân tình
Bá tước phu nhân đưa mắt nhìn chàng…
Và hiểu rõ mình như gà đang mắc tóc,
Dù nàng thấy ngạc nhiên hết mức,
Một cảm xúc đến gây sốc trong lòng,
Nhưng nàng còn nguyên nét mặt bình thường:
Giọng nàng vẫn y chang không ngoại lệ,
Nàng chào khách thật kiệm lời, lặng lẽ.
XIX.
Ей-ей! не то, чтоб содрогнулась,
Иль стала вдруг бледна, красна…
У ней и бровь не шевельнулась;
Не сжала даже губ она.
Хоть он глядел нельзя прилежней,
Но и следов Татьяны прежней
Не мог Онегин обрести.
С ней речь хотел он завести
И — и не мог. Она спросила,
Давно ль он здесь, откуда он
И не из их ли уж сторон?
Потом к супругу обратила
Усталый взгляд; скользнула вон…
И недвижим остался он.
XIX.
Quả đúng thế, không hẳn nàng run rẩy,
Hay chợt thấy tái đi, da hổng lên vậy ,
Nét lông mày không động đậy, giữ nguyên,
Không phải cần mím chặt hai môi yên,
Dù chàng vẫn không thể dịu dàng hơn được nữa,
Nhưng dấu tích của Tachiana ngày xưa cũ
Chàng không tài nào thấy lại được rồi.
Chàng muốn trao đổi với nàng đôi nhời
Mà không thể. Nàng cất lời để hỏi,
Chàng đã đến lâu chưa? Từ đâu tới,
Có phải từ quê họ mới ra không?
Sau đó nàng đưa mắt nhìn chồng
Đầy mệt mỏi, mắt nàng nhìn nhanh lướt…
Ông bất động y nguyên như lúc trước.
XX.
Ужель та самая Татьяна,
Которой он наедине,
В начале нашего романа,
В глухой, далекой стороне,
В благом пылу нравоученья
Читал когда-то наставленья,
Та, от которой он хранит
Письмо, где сердце говорит,
Где всё наруже, всё на воле,
Та девочка… иль это сон?..
Та девочка, которой он
Пренебрегал в смиренной доле,
Ужели с ним сейчас была
Так равнодушна, так смела?
XX.
Không có lẽ, đây là Tachiana xưa nhỉ,
Người chàng gặp trong khu vườn vắng vẻ
Ngay ở đầu tiểu thuyết của ta thôi,
Một miền quê hẻo lánh xa xôi,
Mà lúc ấy, chàng liên hồi thuyết giáo,
Nào khuyên nhủ, dặn dò, rồi chỉ bảo
Là cô nàng, ở nhà chàng thấy vẫn lưu
Lá thư xưa ghi tiếng nói con tim,
Khi mọi thứ hiện ra tự nhiên, đầy đủ
Cô gái ấy… hay mình đang mơ ngủ?..
Chính cô nàng ở ngày ấy mà chàng
Đã coi thường nơi hẻo lánh yên bình,
Không có lẽ giờ đây thành cô đó,
Chàng ở cạnh, nàng thờ ơ, mạnh bạo quá?
XXI.
Он оставляет раут тесный,
Домой задумчив едет он;
Мечтой то грустной, то прелестной
Его встревожен поздний сон.
Проснулся он; ему приносят
Письмо: князь N. покорно просит
Его на вечер. «Боже! к ней!..
О, буду, буду!» и скорей
Марает он ответ учтивый.
Что с ним? в каком он странном сне!
Что шевельнулось в глубине
Души холодной и ленивой?
Досада? суетность? иль вновь
Забота юности — любовь?
XXI.
Chàng rút khỏi buổi gặp đang đông kín,
Trên đường về, chàng chìm trong suy tính;
Ngủ muộn luôn lo lắng, không yên
Chàng nằm mơ, lúc vui vẻ, khi buồn phiền.
Chàng tỉnh dậy, biết có người đem thư đến
Trong thư viết: Bá tước N. mời tha thiết
Chàng đến đêm hội. “Trời hỡi! muốn gặp nàng!..
Ôi, sẽ đi, nhất định chứ!” và vội vàng
Chàng tẩy, sửa thư trả lời càng lịch thiệp.
Chàng sao vậy? Đang mơ kì lạ thiệt!
Có cái gì lay động tận tâm can
Trong tâm hồn lười nhác đang lạnh băng?
Có bực giận? Vội vàng ? Hay giờ lại
Tuổi trẻ chỉ quan tâm - chuyện tình yêu vẫy gọi?
XXII.
Онегин вновь часы считает,
Вновь не дождется дню конца.
Но десять бьет; он выезжает,
Он полетел, он у крыльца,
Он с трепетом к княгине входит;
Татьяну он одну находит,
И вместе несколько минут
Они сидят. Слова нейдут
Из уст Онегина. Угрюмый,
Неловкий, он едва, едва
Ей отвечает. Голова
Его полна упрямой думой.
Упрямо смотрит он: она
Сидит покойна и вольна.
XXII.
Ônhêghin lại chăm chăm căn giờ giấc,
Lại hối hả, không đợi ngày kết thúc,
Nhưng mười giờ, chàng giục xe lên đường,
Xe như bay, chàng đến cửa nhà nàng,
Chàng thấp thỏm vào tìm nữ bá tước;
Chỉ thấy độc Tachiana trong phòng trước,
Cả hai người có ít phút được bên nhau
Họ cùng ngồi, Ônhêghin chịu không tài nào
Mở được miệng. Trông Ônhêghin càu cạu
Vẻ lúng túng, trả lời như cắm cảu
Câu được câu không. Ẩn trong đầu chàng
Ngồn ngang bao ý nghĩ ngang tàng.
Chàng đưa mắt nhìn giờ càng ương ngạnh:
Nàng vẫn thản nhiên, tự tin, nhìn lành lạnh.
XXIII.
Приходит муж. Он прерывает
Сей неприятный tête-à-tête;
С Онегиным он вспоминает
Проказы, шутки прежних лет.
Они смеются. Входят гости.
Вот крупной солью светской злости
Стал оживляться разговор;
Перед хозяйкой легкий вздор
Мелькал без глупого жеманства,
И прерывал его меж тем
Разумный толк без пошлых тем,
Без вечных истин, без педанства,
И не пугал ничьих ушей
Свободной живостью своей.
XXIII.
Ông chồng đến. Làm dở dang câu chuyện,
Chẳng thú vị cuộc đổi trao trực diện;
Ông cùng Ônhêghin ngồi nhớ lại chuyện xưa
Những trò tinh nghịch, lời đùa cợt vu vơ,
Cùng cười cả. Rồi có thêm khách mới.
Nhờ tin nóng bỏng giới thượng lưu quan tâm tới
Chuyện diễn ra mỗi lúc mỗi nổi sôi hơn;
Trước chủ nhà, kể chuyện bông lơn
Chỉ loáng thoáng không tỏ ra làm điệu,
Khi cần thiết, biết kịp thời dừng chuyện,
Khéo đổi đề tài, không chuyển vị nhạt phèo,
Không nêu chân lý vĩnh cửu , không cố chấp nhiều,
Không động chạm, chẳng làm người nghịch nhĩ
Bằng sự sống động tự nhiên như vốn dĩ.
XXIV.
Тут был однако цвет столицы,
И знать и моды образцы,
Везде встречаемые лицы,
Необходимые глупцы;
Тут были дамы пожилые
В чепцах и розах, с виду злые;
Тут было несколько девиц,
Не улыбающихся лиц;
Тут был посланник, говоривший
О государственных делах;
Тут был в душистых сединах
Старик, по-старому шутивший:
Отменно тонко и умно,
Что нынче несколько смешно.
XXIV.
Nhưng có mặt giới tinh hoa thủ đô cả nước,
Có thể thấy các mẫu thời trang mốt trước
Có lắm người mặt quen nhẵn mọi nơi,
Những kẻ ngu si cần phải có trên đời;
Có những quý bà sồn sồn đứng tuổi
Đầu đội mũ, cài hoa, nhìn mặt mà thấy chối;
Các bóng hổng trông thấy có dăm cô,
Trên mặt không cười nụ điểm tô;
Viên công sứ hễ mỗi khi phải nói
Chỉ toàn chuyện quốc gia đang nóng hổi;
Ở đây đầu tóc bạc xức nước hoa
Nhân vật già, chỉ đùa đúng kiểu già:
Dứt khoát phải thông minh và ý nhị,
Thời nay thấy chuyện này buồn cười một tí.
XXV.
Тут был на эпиграммы падкий
На всё сердитый господин:
На чай хозяйский слишком сладкий,
На плоскость дам, на тон мужчин,
На толки про роман туманный,
На вензель, двум сестрицам данный,
На ложь журналов, на войну,
На снег и на свою жену.
..................
..................
..................
..................
..................
..................
XXV.
Có vị đáng đưa vào thơ trào phúng ngắn
Trước mọi việc, ông luôn luôn cáu bẳn:
Nào chè gì pha ngọt quá nhiều đường,
Ngực quý bà bằng phẳng, quý ông giọng dị thường,
Nào tán chuyện các mối tình mờ mờ ẩn ẩn,
Nữ hoàng tặng hai chị em huy chương hẳn,
Chuyện dối lừa trên tạp chí, chuyện chiến tranh,
Nào tuyết rơi rồi cả chuyện vợ ông loanh quanh.
…………………
………………….
…………………..
……………………
……………………
…………………….
XXVI.
Тут был Проласов, заслуживший
Известность низостью души,
Во всех альбомах притупивший,
St.-Priest, твои карандаши;
В дверях другой диктатор бальный
Стоял картинкою журнальной,
Румян, как вербный херувим,
Затянут, нем и недвижим,
И путешественник залётный,
Перекрахмаленный нахал,
В гостях улыбку возбуждал
Своей осанкою заботной,
И молча обмененный взор
Ему был общий приговор.
XXVI.
Ở đây gặp người nổi danh Prôlasôp
Có tâm hồn đê hèn và nhớp nháp,
In dấu tay trong mọi cuốn album
Là St. -Priest vẽ mòn bút chì của bạn luôn;
Hành lang giữa có diễn viên balê bạo chúa
Có tranh khắc trên trang báo mốt nữa,
Da hổng hào, hệt thiên thần sáp bữa chợ phiên,
Dễ bị lôi kéo, ít nói, thích ngồi yên,
Một ông thích đi đó đây theo cơ hội,
Một chàng bặm trợn, cổ cồn trắng tinh nổi trội,
Biết cách khêu nụ cười trong quan khách ở thăm
Bằng dáng người của mình tỏ thiện chí quan tâm,
Có ánh mắt kiểu đổi trao thẩm lặng
Về ông ấy, ý kiến chung đều nói thẳng.
4.St.Priest (1806-1828) họa sỹ biếm hoạ
XXVII.
Но мой Онегин вечер целый
Татьяной занят был одной,
Не этой девочкой несмелой,
Влюбленной, бедной и простой,
Но равнодушною княгиней,
Но неприступною богиней
Роскошной, царственной Невы.
О люди! все похожи вы
На прародительницу Эву:
Что вам дано, то не влечет;
Вас непрестанно змий зовет
К себе, к таинственному древу:
Запретный плод вам подавай,
А без того вам рай не рай.
XXVII.
Nhưng Ônhêghin của tôi trong nguyên buổi tối
Chỉ thấy bận lòng về Tachiana đang theo đuổi
Không phải cô xưa nhút nhát nhiều hơn
Mới biết yêu, đang đau khổ, giản đơn,
Nhưng giờ bá tước phu nhân thờ ơ, lãnh đạm,
Một thần nữ không cho ai đến gần, động chạm
Sống trên dòng Nhêva hảo nhoáng, có Nga hoàng.
Ơi con người! tất các vị đều cùng
Giống Eva, được loài người tôn làm thủy tổ:
Thứ đang có, ta thường hay ruồng bỏ;
Chỉ có rắn mới cố kiếm bạn chào mời
Rắn đưa đường đến cây thần thoại trên trời;
Quả gì cấm, hãy đem mời đãi bạn,
Còn không, có thiên đường - bạn vẫn chưa thoả mãn.
XXVIII.
Как изменилася Татьяна!
Как твердо в роль свою вошла!
Как утеснительного сана
Приемы скоро приняла!
Кто б смел искать девчонки нежной
В сей величавой, в сей небрежной
Законодательнице зал?
И он ей сердце волновал!
Об нем она во мраке ночи,
Пока Морфей не прилетит,
Бывало, девственно грустит,
К луне подъемлет томны очи,
Мечтая с ним когда-нибудь
Свершить смиренный жизни путь!
XXVIII.
Tachiana đã đổi thay kì lạ!
Nhập vai của mình sao mà giỏi quá!
Đã tiếp thu mọi phép xã giao có cả ngàn,
Bao buộc ràng với quý bà cao sang!
Ai dám nghĩ nàng thơ ngây ngày trước
Nhưng thể hiện quyền uy nữ bá tước,
Hơi khinh khi nơi tụ họp khách đông?
Vậy mà chàng đã khiến nàng rối lòng!
Nàng chỉ ước về chàng trong những đêm trời tối,
Ngày thần giấc ngủ Morphêy chưa tới,
Có nhiều khi nàng buồn vẩn, buồn vơ,
Đưa mắt nhìn mệt mỏi vầng trăng soi,
Có một lúc nào đó -nàng nuôi mộng ước -
Chàng ở cạnh, trên đường đời cùng bước!
XXIX.
Любви все возрасты покорны;
Но юным, девственным сердцам
Ее порывы благотворны,
Как бури вешние полям:
В дожде страстей они свежеют,
И обновляются, и зреют —
И жизнь могущая дает
И пышный цвет и сладкий плод.
Но в возраст поздний и бесплодный,
На повороте наших лет,
Печален страсти мертвый след:
Так бури осени холодной
В болото обращают луг
И обнажают лес вокруг.
XXIX.
Tình yêu bất chấp tường ngăn tuổi tác;
Nhưng người trẻ, tim trắng trong, khao khát
Dễ say sưa do xúc tác tình yêu,
Như bão mùa xuân vùng vẫy trên thảo nguyên:
Cơn mưa gió đắm say làm thiên nhiên tươi mãi
Cây nảy lộc đâm chồi, rồi sinh hoa kết trái -
Và cuộc đời vĩ đại ban tặng ta
Muôn sắc màu rực rỡ, và ngọt đượm hương hoa.
Nhưng ta tuổi xế chiều, còn đâu ra quả ngọt,
Khi cái tuổi chợt bước vào cua ngoặt,
Niềm say mê để lại dấu lặng trầm buồn:
Như bão mùa thu lạnh buốt dập dồn,
Mưa gió biến đồng cỏ thành đầm lầy lội
Rụng hết lá trên cành ra trần trụi.
XXX.
Сомненья нет: увы! Евгений
В Татьяну как дитя влюблен;
В тоске любовных помышлений
И день и ночь проводит он.
Ума не внемля строгим пеням,
К ее крыльцу, стеклянным сеням
Он подъезжает каждый день;
За ней он гонится как тень;
Он счастлив, если ей накинет
Боа пушистый на плечо,
Или коснется горячо
Ее руки, или раздвинет
Пред нею пестрый полк ливрей,
Или платок подымет ей.
XXX.
Thì quá rõ: Evghênhi, trời hỡi!
Yêu Tachiana như trẻ đang yêu mới lớn;
Buồn trĩu lòng, suy nghĩ tới tình yêu,
Cả ngày rồi đêm, chàng cố đuổi theo,
Trí óc chẳng hiểu được bao điều trách móc,
Năng lui tới, không một ngày để sót;
Tìm đến tam cấp, cửa phòng trước toàn kính soi,
Chàng theo nàng như hình với bóng sóng đôi;
Vui ra mặt, khi được người cho phép
Quàng khăn san lên vai nàng khép nép
Hay được va chạm tới cánh tay nàng
Thật thân tình, hay lúc nàng đi hướng nào,
Chàng giãn đám gia nhân lấy đường rộng rãi,
Hay được nhặt khăn lên đưa trả nàng cầm lại.
XXXI.
Она его не замечает,
Как он ни бейся, хоть умри.
Свободно дома принимает,
В гостях с ним молвит слова три,
Порой одним поклоном встретит,
Порою вовсе не заметит:
Кокетства в ней ни капли нет —
Его не терпит высший свет.
Бледнеть Онегин начинает:
Ей иль не видно, иль не жаль;
Онегин сохнет, и едва ль
Уж не чахоткою страдает.
Все шлют Онегина к врачам,
Те хором шлют его к водам.
XXXI.
Nàng không mảy may nhận ra chàng ở cạnh,
Dù chàng gắng hết mình, tìm mọi cách.
Nàng tiếp chàng ở nhà rất tự do,
Có khách ngoài, nàng chỉ nói qua loa
Cũng có lúc chỉ nghiêng mình ý là đáp lễ,
Và nhiều lúc, nói chung, coi chàng không có nữa:
Nàng không hề tỏ điệu bộ, làm kiêu -
Giới thượng lưu không chấp nhận được đâu.
Da dẻ Ônhêghin bắt đầu xạm nốt
Hoặc nàng chẳng thấy, hoặc không hề thương xót;
Người Ônhêghin càng héo hắt, xanh xao,
Nhỡ có khi: chàng đã nhiễm bệnh lao.
Người nhà dẫn Ônhêghin tìm bao nơi khám,
Mọi bác sỹ đồng lòng cho chàng đi suối khoáng.
XXXII.
А он не едет; он заране
Писать ко прадедам готов
О скорой встрече; а Татьяне
И дела нет (их пол таков);
А он упрям, отстать не хочет,
Еще надеется, хлопочет;
Смелей здорового, больной
Княгине слабою рукой
Он пишет страстное посланье.
Хоть толку мало вообще
Он в письмах видел не вотще;
Но, знать, сердечное страданье
Уже пришло ему невмочь.
Вот вам письмо его точь-в-точь.
XXXII.
Nhưng chàng chối không đi; Ngay lập tức,
Chàng chấp nhận mau về gặp tổ tiên kiếp trước;
Còn Tachiana thờ ơ, chẳng có việc liên quan
(Thì giới nàng làm vậy đã thành quen);
Chàng bướng bỉnh không muốn lui một bước,
Còn hy vọng, chàng vẫn đang tìm chước
Hơn người khỏe, chàng ốm vẫn viết thư
Cho Tachiana với bàn tay yếu đi
Chàng cố viết nồng cháy hơn, tha thiết.
Dù tác dụng, nói chung, là ít nhất
Chuyện thư từ, chàng không nghĩ, chỉ vô ích thôi;
Nhưng biết rồi, tim chàng vật vã, đau khôn nguôi
Đã đến lúc, con tim không chịu nổi.
Tôi xin dẫn thư chàng đúng từng dấu chấm, phẩy.
ПИСЬМО ОНЕГИНА К ТАТЬЯНЕ
Предвижу всё: вас оскорбит
Печальной тайны объясненье.
Какое горькое презренье
Ваш гордый взгляд изобразит!
Чего хочу? с какою целью
Открою душу вам свою?
Какому злобному веселью,
Быть может, повод подаю!
Случайно вас когда-то встретя,
В вас искру нежности заметя,
Я ей поверить не посмел:
Привычке милой не дал ходу;
Свою постылую свободу
Я потерять не захотел.
Еще одно нас разлучило…
Несчастной жертвой Ленской пал…
Ото всего, что сердцу мило,
Тогда я сердце оторвал;
Чужой для всех, ничем не связан,
Я думал: вольность и покой
Замена счастью. Боже мой!
Как я ошибся, как наказан!
Нет, поминутно видеть вас,
Повсюду следовать за вами,
Улыбку уст, движенье глаз
Ловить влюбленными глазами,
Внимать вам долго, понимать
Душой всё ваше совершенство,
Пред вами в муках замирать,
Бледнеть и гаснуть… вот блаженство!
И я лишен того: для вас
Тащусь повсюду наудачу;
Мне дорог день, мне дорог час:
А я в напрасной скуке трачу
Судьбой отсчитанные дни.
И так уж тягостны они.
Я знаю: век уж мой измерен;
Но чтоб продлилась жизнь моя,
Я утром должен быть уверен,
Что с вами днем увижусь я…
Боюсь: в мольбе моей смиренной
Увидит ваш суровый взор
Затеи хитрости презренной —
И слышу гневный ваш укор.
Когда б вы знали, как ужасно
Томиться жаждою любви,
Пылать — и разумом всечасно
Смирять волнение в крови;
Желать обнять у вас колени,
И, зарыдав, у ваших ног
Излить мольбы, признанья, пени,
Всё, всё, что выразить бы мог.
А между тем притворным хладом
Вооружать и речь и взор,
Вести спокойный разговор,
Глядеть на вас веселым взглядом!..
Но так и быть: я сам себе
Противиться не в силах боле;
Всё решено: я в вашей воле,
И предаюсь моей судьбе.
THƯ ÔNHÊGHIN GỬI TACHIANA
Tôi biết trước mọi điều: Khi nói rõ
Điều bí mật buồn sẽ làm cô đau khổ.
Trong ánh nhìn vốn kiêu hãnh của cô đây
Sẽ hiện ra ý khinh rẻ ngậm đắng cay!
Tôi muốn gì ? Đích gì nay theo đuổi,
Khi cởi mở lòng mình mong cô hiểu nổi ?
Có thể là tôi bày đặt cớ này,
Cốt đùa vui, thoả ác độc trong lòng ngay!
Tình cờ thật, tôi gặp cô ngày đó,
Tôi đã thấy nét dịu dàng nơi cô lộ rõ
Tôi chưa tin ở nhận xét này:
Tôi cố ghìm thói quen đáng yêu ở đây;
Vì không muốn một mai tôi để mất
Sự tự do của tôi dù là chán ngắt.
Còn một điều góp phần giãn cách hai ta...
Chuyện Lenski là mất mát không may...
Rũ bỏ những gì mà ta yêu hết nhẽ
Ngay lúc đó, tôi tách mình riêng rẽ,
Cố lánh xa tất cả, không để ràng buộc gì,
Tôi nghĩ rằng tự do với yên bình
Sẽ thế chỗ trên con đường hạnh phúc.
Ơi trời hỡi! Tôi nhầm, bị phạt ngay đúng lúc!
Không, được nhìn cô từng phút, từng giây,
Được đi đâu cũng bước sát cô ngay
Mắt chan chứa tình yêu, nay nhìn thấy
Cô cười nụ, mắt đung đưa sóng đẩy,
Chiều chuộng cô, càng thấu hiểu sâu
Tâm hồn cô hoàn thiện quá, trong veo.
Cô chứng kiến, trong đớn đau, lả đi, xám xịt,
Rồi tắt hẳn...thế mới là hoan lạc thật!
Tôi không hề được hưởng thụ niềm vui này:
Đành đưa chân khắp chốn kiếm cô cầu may;
Tôi quý mỗi ngày, mỗi giây đi mãi;
Lòng buồn tủi uổng công, tôi vung vãi
Chút tháng ngày còn lại được số phận ban cho.
Những tháng năm đã mất nặng nề sao.
Tôi vốn biết cuộc đời tôi sắp hết;
Nhưng để níu kéo dài thêm đời lê lết
Sáng ngày ra, tôi phải biết chắc rằng
Ngày hôm nay, mình sẽ được gặp nàng...
Tôi thấy sợ: mắt cô nhìn nghiệt ngã
Sẽ phát hiện lời tôi xin mềm yếu quá
Những mưu đồ lươn lẹo đáng coi thường-
Và nghe cô trách móc đầy căm hờn.
Giá cô biết cuộc đời sao kinh khủng,
Khi mệt mỏi đợi tình yêu trong khát vọng,
Phải cháy lên cả lý trí từng giây,
Xoa dịu đi cơn xúc động trong tim này;
Muốn ôm ấp đôi chân cô đầy yêu dấu,
Khóc nức nở bên chân cô, phục xuống,
Được van nài, chịu lỗi, dốc hết tâm can,
Nói hết ra tất những thứ có thể minh oan
Cùng lúc đó, giữ lạnh băng hợp vẻ
Nếu muốn nói, muốn nhìn, phải nguỵ trang kín kẽ
Khi chuyện trò, giọng bình thản, an nhiên
Muốn nhìn cô phải kèm vẻ mặt tươi lên!...
Nhưng đành chịu, vì chính tôi lâm nạn,
Để chống trả bản thân, sức tôi đã cạn;
Quyết định rồi: tôi tuỳ thuộc ý cô
Và trao mình cho số phận đẩy đưa.
XXXIII.
Ответа нет. Он вновь посланье:
Второму, третьему письму
Ответа нет. В одно собранье
Он едет; лишь вошел… ему
Она навстречу. Как сурова!
Его не видят, с ним ни слова;
У! как теперь окружена
Крещенским холодом она!
Как удержать негодованье
Уста упрямые хотят!
Вперил Онегин зоркий взгляд:
Где, где смятенье, состраданье?
Где пятна слез?.. Их нет, их нет!
На сем лице лишь гнева след…
XXXIII.
Không thấy trả lời, chàng viết luôn thư tiếp:
Viết thư thứ hai, thứ ba gửi hết
Vẫn không hồi đáp. Một lần có buổi gặp nhau,
Chàng đến nhà vừa vào cửa, thấy nàng mau
Bước ra đón. Nét mặt nàng sao nghiêm khắc!
Không ai thấy chàng đâu, đều im phăng phắc;
Trời ơi, sao lúc này nàng quá giá băng!
Vẻ lạnh lùng hệt ngày rét căm căm,
Sao giữ được trong lòng đang công phẫn,
Khuôn miệng bướng bỉnh mong nói lắm!
Ônhêghin đưa mắt ngắm kĩ hơn:
Định xem nàng có bối rối, cảm thông?
Thấy đâu vệt lệ rơi?… Không tìm ra dấu vết!
Vẻ mặt nàng chỉ cháy bừng căm ghét…
XXXIV.
Да, может быть, боязни тайной,
Чтоб муж иль свет не угадал
Проказы, слабости случайной…
Всего, что мой Онегин знал…
Надежды нет! Он уезжает,
Свое безумство проклинает —
И, в нем глубоко погружен,
От света вновь отрекся он.
И в молчаливом кабинете
Ему припомнилась пора,
Когда жестокая хандра
За ним гналася в шумном свете,
Поймала, за ворот взяла
И в темный угол заперла.
XXXIV.
Và, có thể, nàng thầm lo trong bụng,
Sợ giới thượng lưu, ông chồng đoán trúng
Chuyện viết thư, vụng dại ngẫu nhiên thôi…
Tất những gì Ônhêghin của tôi biết rõ rồi…
Hết hy vọng! Chàng lên xe rời khỏi,
Miệng nguyền rủa, sao mình điên rồ mãi -
Và chàng càng trầm lắng, chìm đắm vào bản thân,
Lại chối từ, tránh xa giới thượng lưu luôn
Suốt ngày nhốt mình trong phòng câm lặng
Chàng chợt nhớ về biết bao ngày tháng,
Khi tâm tư buồn chán đến não lòng
Giữa cuộc đời nhốn nháo, đuổi theo chàng
Túm cổ áo, bắt được càng làm tới
Vứt chàng nhốt nơi căn buồng tăm tối.
XXXV.
Стал вновь читать он без разбора.
Прочел он Гиббона, Руссо,
Манзони, Гердера, Шамфора,
Madame de Staёl, Биша, Тиссо,
Прочел скептического Беля,
Прочел творенья Фонтенеля,
Прочел из наших кой-кого,
Не отвергая ничего:
И альманахи, и журналы,
Где поученья нам твердят,
Где нынче так меня бранят,
А где такие мадригалы
Себе встречал я иногда:
E sempre bene[* 4], господа.
XXXV.
Chàng quay lại đọc sách không chọn lọc.
Cả Gibbôn, cả Russô chàng đều đọc,
Madoni, Gerder Shamphôrra,
Madame de Stael, Bish, Ticco,
Rồi đọc cả Bel trùm đa nghi luôn thể,
Đọc xong hết tác phẩm của Photenel nữa,
Tác giả Nga chàng cũng đọc vài người,
Không bỏ qua bất cứ cái gì qua tay rồi:
Nào các cuốn Almanách, nào tạp chí,
Nơi tác giả dậy rèn ta đủ thứ,
Nơi ngày nay, người ta rủa sả tôi,
Nơi đăng nhiều các bản tụng ca rồi,
Chính tôi gặp nhiều bài đôi khi nên biết
E sempre bene, thưa quý ngài, viết rất tuyệt.
2.Gibbon E đuarđ (1737-1794) nhà sử học Anh, tác giả công trình”Lịch sử suy đồi và sụp đổ đế quốc La Mã.”
3.Mandoni Aleksandr (1785-1873), nhà thơ, nhà văn người Ý.
Gerder IoganGodfrid (1744-1803), triết gia, tác giả “Tư tưởng triết học lịch sử nhân loại”.
Samfor Sebaschien (1741-1794) nhà văn Pháp.
Madame de Stael
Bish
Tícc ô
Photenel
XXXVI.
И что ж? Глаза его читали,
Но мысли были далеко;
Мечты, желания, печали
Теснились в душу глубоко.
Он меж печатными строками
Читал духовными глазами
Другие строки. В них-то он
Был совершенно углублен.
То были тайные преданья
Сердечной, темной старины,
Ни с чем не связанные сны,
Угрозы, толки, предсказанья,
Иль длинной сказки вздор живой,
Иль письмы девы молодой.
XXXVI.
Và sao nhỉ? Mắt chàng xem mê mải,
Nhưng ý nghĩ càng lửng lơ xa mãi;
Nào ước mơ, mong muốn, những nỗi buồn
Đều nén dồn chật chội trong tâm hồn
Sau dòng chữ hiện hình trên trang sách
Chàng đọc hết bằng tinh thần trong đôi mắt
Thì ra còn nghĩa khác. Chìm trong đám chữ này,
Chàng hoàn toàn vùi đầu vào suy nghĩ mê say.
Đấy là truyện lưu truyền trong bí mật
Của thời cổ xưa, tối tăm, chân thật,
Những ước mơ chẳng dính dáng một điều gì,
Những giãi bày, đe dọa, cảnh báo từ từ,
Hay cổ tích dài, cốt truyện bất kì sôi nổi
Hay thư viết của một nàng trẻ tuổi
XXXVII.
И постепенно в усыпленье
И чувств и дум впадает он,
А перед ним Воображенье
Свой пестрый мечет фараон.
То видит он: на талом снеге,
Как-будто спящий на ночлеге,
Недвижим юноша лежит,
И слышит голос: что ж? убит.
То видит он врагов забвенных,
Клеветников, и трусов злых,
И рой изменниц молодых,
И круг товарищей презренных,
То сельский дом — и у окна
Сидит она… и всё она!
XXXVII.
Dần từng bước, chàng rơi vào ảo ảnh
Làm đảo lộn cả nghĩ suy và tình cảm,
Trước mắt chàng chỉ thấy Cảnh tượng hiện ra
Chàng là Pharaôn sặc sỡ múa may.
Khi nhìn mãi vũng băng tan loang lổ
Dường như có người đang say sưa ngủ,
Một thanh niên trông ủ rũ nằm yên
Và nghe ra: chuyện gì thế? Chết im lìm
Lúc lại thấy kẻ thù từ lâu từng quên lãng,
Những kẻ đặt điều, những tên hèn độc ác,
Và cả đoàn con gái bội bạc trẻ măng,
Và một lô bạn hữu thật đáng khinh,
Khi lại thấy căn nhà ở quê, bên cửa sổ
Nàng ngồi đó… vẫn ngồi yên một chỗ!
XXXVIII.
Он так привык теряться в этом,
Что чуть с ума не своротил,
Или не сделался поэтом.
Признаться: то-то б одолжил!
А точно: силой g
Стихов российских механизма
Едва в то время не постиг
Мой бестолковый ученик.
Как походил он на поэта,
Когда в углу сидел один,
И перед ним пылал камин,
И он мурлыкал: Benedetta
Иль Idol mio[* 5] и ронял
В огонь то туфлю, то журнал.
XXXVIII.
Vậy chàng đã thành quen không tồn tại,
Khiến chàng suýt hóa rồ, hóa dại,
Hay chàng đi qua cơ hội thành nhà thơ.
Phải nhận rằng chàng mắc nợ với đời to!
Mà chính xác: điều thần kỳ bao hấp dẫn
Của niêm luật sáng tác thơ Nga sâu sắc hẳn
Chắc gì chàng đã thạo, nắm được sâu,
Anh học trò kém cỏi của tôi đâu,
Sao chàng giống một nhà thơ thứ thiệt,
Khi suốt tối ngày ngồi lỳ góc phòng im tiệt,
Trước mặt chàng lò sưởi cháy bùng bùng,
Chàng lầm bầm: Benedetta thì thầm
Hay nhắc mãi Idol nio rồi làm rớt
Khi tạp chí lúc chiếc giầy cho lửa đốt.
XXXIX.
Дни мчались; в воздухе нагретом
Уж разрешалася зима;
И он не сделался поэтом,
Не умер, не сошел с ума.
Весна живит его: впервые
Свои покои запертые,
Где зимовал он как сурок,
Двойные окны, камелек
Он ясным утром оставляет,
Несется вдоль Невы в санях.
На синих, иссеченных льдах
Играет солнце; грязно тает
На улицах разрытый снег.
Куда по нем свой быстрый бег
XXXIX
Ngày vun vút. Đất trời dần ấm áp,
Mùa đông sắp qua, mùa xuân đến sát;
Và chàng không thể hóa nhà thơ,
Chưa chết ngay, chưa mất trí, phát rồ.
Mùa xuân giúp chàng lần đầu bình phục lại:
Các phòng của chàng cửa đóng then cài mãi,
Như chuột chũi, chàng trốn tránh mùa đông,
Cửa sổ hai lớp, lò sưởi con con,
Một sáng mát trong, chàng ra khỏi nhà, cả quyết
Cứ phóng dọc sông Nhêva trên xe trượt tuyết.
Trên các viên băng cắt ngay ngắn, màu xanh,
Nắng lung linh; tuyết tan chảy bẩn kinh,
Khắp đường phố, ngõ đi trông ẩm ướt,
Chân vun vút lao trên đường đọng nước
XL.
Стремит Онегин? Вы заране
Уж угадали; точно так:
Примчался к ней, к своей Татьяне
Мой неисправленный чудак.
Идет, на мертвеца похожий.
Нет ни одной души в прихожей.
Он в залу; дальше: никого.
Дверь отворил он. Что ж его
С такою силой поражает?
Княгиня перед ним, одна,
Сидит, не убрана, бледна,
Письмо какое-то читает
И тихо слезы льет рекой,
Опершись на руку щекой.
XL
Ônhêghin cuống cuồng ? Không cần nói,
Chắc bạn đoán ra chàng vội đi đâu; Đúng đó:
Chàng đi tìm nàng, kiếm Tachiana của mình,
Ơi anh chàng kỳ quặc, càng nặng bệnh tình,
Chàng đang bước, giống thây người đã chết.
Không thấy bóng ai trong phòng khách hết
Vào phòng trong, đi tiếp, vẫn lặng thinh
Mở cửa ra, Có gì đó khiến giật mình
Phải kinh ngạc, thật khác thường, có chuyện?
Nữ bá tước chỉ một mình xuất hiện,
Nàng ngồi im, chưa trang điểm, tái xanh,
Đang ngồi xem bức thư mở trên tay
Và lặng lẽ, dòng lệ lăn lã chã,
Nàng ngồi vậy, cứ để tay ôm má.
XLI.
О, кто б немых ее страданий
В сей быстрый миг не прочитал!
Кто прежней Тани, бедной Тани
Теперь в княгине б не узнал!
В тоске безумных сожалений
К ее ногам упал Евгений;
Она вздрогнула и молчит,
И на Онегина глядит
Без удивления, без гнева…
Его больной, угасший взор,
Молящий вид, немой укор,
Ей внятно всё. Простая дева,
С мечтами, сердцем прежних дней,
Теперь опять воскресла в ней.
XLI.
Ôi trời hỡi! Hỏi ai không đọc được
Bao đau khổ giờ này trong nàng câm bặt!
Ai chả nhìn ra Tachiana ngày trước, thật không may,
Trong bóng hình nữ bá tước hôm nay!
Trong buồn tủi, cảm thương đầy kinh khủng
Evghênhi đến sát chân nàng, quỳ xuống;
Nàng run lên, ỉm lặng, chẳng nói chẳng rằng,
Đưa mắt nhìn Ônhêghin cứ chằm chằm,
Không hề ngạc nhiên, càng không công phẫn…
Ánh mắt đớn đau của chàng, nay tắt ngấm,
Vẻ van nài, lời trách móc lặng thinh,
Nàng hiểu rồi. Tính nàng vốn giản đơn
Bao mơ mộng, với trái tim ngày xưa nữa,
Giờ phút này, trong nàng lại hiện về tất cả.
XLII.
Она его не подымает
И, не сводя с него очей,
От жадных уст не отымает
Бесчувственной руки своей…
О чем теперь ее мечтанье?
Проходит долгое молчанье,
И тихо наконец она:
«Довольно, встаньте. Я должна
Вам объясниться откровенно.
Онегин, помните ль тот час,
Когда в саду, в аллее нас
Судьба свела, и так смиренно
Урок ваш выслушала я?
Сегодня очередь моя.
XLII.
Nàng không giúp tay đỡ chàng đứng thẳng
Và vẫn cứ nhìn chàng không rời mắt hẳn,
Nàng để nguyên bàn tay không xúc cảm, thờ ơ,
Dưới đôi môi nóng giãy đang run kia…
Giờ phút này, nàng còn mơ gì nổi ?
Nàng im lặng rất lâu, sau mới nói
Và mở lời, chỉ nho nhỏ vừa nghe:
“Đủ rồi. Ông đứng dậy. Em cần thưa,
Xin nói hết với ông thừa cởi mở.
Ônhêghin, ông nhớ chăng giờ khắc đó,
Khi trong vườn, bên đường dưới bóng cây hai hàng,
Số phận cho ta gặp nhau, em thật nhún nhường
Đã chăm chú nghe lời ông khuyên nhủ?
Em đến lượt hôm nay làm nghĩa vụ.
XLIII.
«Онегин, я тогда моложе,
Я лучше, кажется, была,
И я любила вас; и что же?
Что в сердце вашем я нашла?
Какой ответ? одну суровость.
Не правда ль? Вам была не новость
Смиренной девочки любовь?
И нынче — Боже — стынет кровь,
Как только вспомню взгляд холодный
И эту проповедь… Но вас
Я не виню: в тот страшный час
Вы поступили благородно.
Вы были правы предо мной:
Я благодарна всей душой…
XLIII.
“Ônhêghin. Em trẻ hơn, ngày ấy,
Tính em chắc, phải thuần hơn, nhiều đấy
Và em yêu ông, ông thấy rõ rồi
Từ nơi ông, em được hưởng những gì?
Nói sao nhỉ? Chỉ toàn là nghiêm khắc.
Có đúng vậy? Ông thấy không lạ chắc,
Khi gặp tình yêu cô gái khắc biết điều ?
Máu trong em, trời hỡi, đặc cứng liền
Chỉ cần nhớ mắt ông nhìn lạnh tối
Và lý lẽ ông nói ra… Em không quy lỗi
Tại ông đâu: trong buổi tối kinh hoàng
Riêng với em, ông cao thượng khác thường,
Ông làm đúng với em trong từng quan hệ:
Ơn ông lắm, tấm lòng thương người thế…
XLIV.
«Тогда — не правда ли? — в пустыне,
Вдали от суетной молвы,
Я вам не нравилась… Что ж ныне
Меня преследуете вы?
Зачем у вас я на примете?
Не потому ль, что в высшем свете
Теперь являться я должна;
Что я богата и знатна,
Что муж в сраженьях изувечен,
Что нас за то ласкает двор?
Не потому ль, что мой позор
Теперь бы всеми был замечен
И мог бы в обществе принесть
Вам соблазнительную честь?
XLIV.
“Hồi đó - không đúng ư? -nơi hẻo lánh,
Ở xa quá, ta ít nghe người đời bàn tán,
Gặp em, ông đâu có thích… Cớ làm sao
Giờ theo em nhằng nhẵng, chẳng buông thả lúc nào?
Sao ông để ý em nhiều đến thế?
Chắc không phải, trong làng danh gia đáng nể,
Khi chính em có vị thế đàng hoàng,
Vì em giàu với tước vị cao sang;
Vì chồng em chịu nhiều vết thương chiến trận
Nhà em được Đức vua chiều chuộng?
Có phải chăng chuyện ô nhục em vỡ ra,
Miệng người đời như gió cuốn truyền xa,
Với xã hội, em sẽ mang tội lỗi
Làm tài quyến rũ của ông thêm nổi?
XLV.
«Я плачу… если вашей Тани
Вы не забыли до сих пор,
То знайте: колкость вашей брани,
Холодный, строгий разговор,
Когда б в моей лишь было власти,
Я предпочла б обидной страсти
И этим письмам и слезам.
К моим младенческим мечтам
Тогда имели вы хоть жалость,
Хоть уважение к летам…
А нынче! — что к моим ногам
Вас привело? какая малость!
Как с вашим сердцем и умом
Быть чувства мелкого рабом?
XLV.
“Em khóc mất … Nếu Tanhia của ông ngày ấy
Ông vẫn nhớ, chưa quên tới giờ này đấy,
Ông biết cho: lời trách của ông giống dao đâm
Câu chuyện vừa nghiệt ngã, vừa lạnh băng,
Giá ngày đó em có trong tay quyền lực,
Em thích được đắm say trong buồn bực,
Hơn những dòng thư, lệ chảy mặn mòi nảy.
Với ước mong của em thật thơ ngây,
Giá ông có đôi phút giây thương xót,
Dù nhiều ít nhịn nhường theo tuổi tác…
Còn bây giờ, sao ông quá thấp hèn?
Thật nhỏ nhen, ông quỳ xuống bên chân em!
Là người có trái tim và trí tuệ,
Sao tình cảm đớn hèn biến ông thành nô lệ?
XLVI.
«А мне, Онегин, пышность эта,
Постылой жизни мишура,
Мои успехи в вихре света,
Мой модный дом и вечера,
Что в них? Сейчас отдать я рада
Всю эту ветошь маскарада,
Весь этот блеск, и шум, и чад
За полку книг, за дикий сад,
За наше бедное жилище,
За те места, где в первый раз,
Онегин, встретила я вас,
Да за смиренное кладбище,
Где нынче крест и тень ветвей
Над бедной нянею моей…
XLVI.
“Còn em thấy, Ônhêghin, đời em trông lộng lẫy
Chỉ là vỏ che đi bao chán chường biết mấy,
Em thành công trong cơn lốc cuộc đời,
Nhà xa hoa, những đêm hội qua rồi,
Là gì nhỉ? Em sẵn lòng đổi sạch
Cả hội hoá trang cùng đồ giẻ rách,
Ánh hào quang, ầm ỹ, khói độc bay,
Nhận cho mình giá sách, khu vườn cây mọc hoang,
Cần một túp lều tranh là nơi ta ở,
Lấy những chỗ lần đầu ta gặp gỡ,
Thưa Ônhêghin, em may mắn đã gặp ông,
Và lấy về nghĩa trang tĩnh lặng cõi lòng
Nơi vẫn giữ vòm lá xanh, cùng cây thập tự
Ngả bóng xuống mộ u già đáng thương yên vị …
XLVII.
«А счастье было так возможно,
Так близко!.. Но судьба моя
Уж решена. Неосторожно,
Быть может, поступила я:
Меня с слезами заклинаний
Молила мать; для бедной Тани
Все были жребии равны…
Я вышла замуж. Вы должны,
Я вас прошу, меня оставить;
Я знаю: в вашем сердце есть
И гордость, и прямая честь.
Я вас люблю (к чему лукавить?),
Но я другому отдана;
Я буду век ему верна».
XLVII.
“Mà hạnh phúc dưới tầm tay là có thật,
Sờ được thấy!.. Nhưng em theo số phận
Đã được Trởi phân định. Có lẽ là,
Em tỏ ra thiếu thận trọng thôi mà;
Để em sớm lấy chồng, mẹ khóc nhòa nước mắt;
Với Tanhia dạo xưa không may nhất,
Đời là trò may rủi thật đều nhau…
Em đã theo chồng rồi. Ông biết cho mau
Để em sống bình yên, em xin ông tha thiết;
Tim ông vốn thường mang - em luôn biết -
Niềm kiêu hãnh và danh dự thẳng ngay.
Em vẫn yêu ông, (sao phải dối lòng mình đây?)
Nhưng đã được gả chồng cho người khác;
Em nguyện thủy chung với chồng trọn kiếp”.
XLVIII.
Она ушла. Стоит Евгений,
Как будто громом поражен.
В какую бурю ощущений
Теперь он сердцем погружен!
Но шпор незапный звон раздался,
И муж Татьянин показался,
И здесь героя моего,
В минуту, злую для него,
Читатель, мы теперь оставим,
Надолго… навсегда… За ним
Довольно мы путем одним
Бродили по свету. Поздравим
Друг друга с берегом. Ура!
Давно б (не правда ли?) пора!
XLVIII.
Nàng đi trước. Evghênhi đứng lại,
Như trúng sét, chàng còn đang tê tái.
Lòng trào dâng cảm xúc trải bão giông
Con tim chàng suy nghĩ nặng trĩu vô cùng!
Nhưng tiếng đế giày chợt nghe càng vang rõ,
Và xuất hiện ông chồng của Tachiana đứng đó,
Thôi, với nhân vật của tôi ở đây,
Đúng phút giây tai ác đang gặp lúc này,
Thưa bạn đọc, chuyện chàng ta đành gác lại
Để vĩnh viễn…thật lâu..Ta chung bước mãi
Cùng với chàng đã được khá nhiều đường,
Đi đó đây đủ cả. Xin chúc mừng
Niềm vui, ta đã cặp bến rồi. Ura nhé!
(Phải không nhỉ ?), đến giờ chia tay từ lâu quá!
XLIX.
Кто б ни был ты, о мой читатель,
Друг, недруг, я хочу с тобой
Расстаться нынче как приятель.
Прости. Чего бы ты за мной
Здесь ни искал в строфах небрежных,
Воспоминаний ли мятежных,
Отдохновенья от трудов,
Живых картин, иль острых слов,
Иль грамматических ошибок,
Дай бог, чтоб в этой книжке ты
Для развлеченья, для мечты,
Для сердца, для журнальных сшибок
Хотя крупицу смог найти.
За сим расстанемся, прости!
XLIX.
Thưa bạn đọc của tôi, dù là ai đi nữa,
Thù hay bạn, tôi muốn cùng thân hữu,
Ta chia tay nhau như những bạn hiền.
Chào nhau đi. Về tôi, bạn có thể thấy liền
Bạn tìm được trong vần thơ vụng dại
Những hồi ức có chăng màu nổi loạn mãi
Niềm hứng khởi nhờ công sức bỏ ra,
Những bức tranh sống động hay lời nói khôn ngoan,
Hay những lỗi văn chương tôi để sót
Xin Trời thương, mở cuốn thơ vừa in lọt,
Bạn đọc mơ giải khuây, cốt ước mong,
Cho lòng mình, cho bắt lỗi tạp chí đăng,
Dù bạn có tìm ra chăng gì ít phải
Ta vẫn cứ chia tay, chào thân ái!
L.
Прости ж и ты, мой спутник странный,
И ты, мой верный Идеал,
И ты, живой и постоянный,
Хоть малый труд. Я с вами знал
Всё, что завидно для поэта:
Забвенье жизни в бурях света,
Беседу сладкую друзей.
Промчалось много, много дней
С тех пор, как юная Татьяна
И с ней Онегин в смутном сне
Явилися впервые мне —
И даль свободного романа
Я сквозь магический кристалл
Еще неясно различал.
L.
Xin chào nhé, bạn đồng hành kỷ lạ,
Bạn là Lý tưởng trung thành của tôi thật quá
Và bạn là công sức góp đã thường xuyên,
Dù nhỏ nhoi, vẫn sinh động đáng yêu.
Tôi với bạn biết rõ điều nhà thơ mong ước:
Quên đi hết sự đời trong bão giông sấm chớp,
Được chuyện trò ngọt ngào với bạn bè này.
Đã trôi qua biết bao tháng, bao ngày,
Từ cái độ Tachiana còn trẻ tuổi
Và cùng nàng là Ônhêghin mơ ảo tưởng
Lần đầu tiên xuất hiện trước mặt tôi -
Và tiểu thuyết tự do về đâu sẽ trôi
Tôi đã ngắm qua quả cầu soi huyền nhiệm
Mà chưa thấy rõ ràng ra mọi chuyện.
LI.
Но те, которым в дружной встрече
Я строфы первые читал…
Иных уж нет, а те далече,
Как Сади некогда сказал.
Без них Онегин дорисован.
А та, с которой образован
Татьяны милый Идеал…
О много, много Рок отъял!
Блажен, кто праздник Жизни рано
Оставил, не допив до дна
Бокала полного вина,
Кто не дочел Ее романа
И вдруг умел расстаться с ним,
Как я с Онегиным моим.
Конец
LI.
Nhưng những bạn, ta thân tình gặp gỡ,
Tôi đã đọc cho nghe những dòng thơ đầu đó…
Người mất rồi, có bạn ở quá xa,
Như Sadi từng nói ngày xưa.
Không có họ, Ônhêghin được vẽ vừa hoàn chỉnh,
Còn cô gái là ảnh hình đáng yêu Lý tưởng…
Về Tachiana ta đã kể nghe nhiều,
Ôi số trời định đoạt mất được bao nhiêu!
May cho kẻ dự hội vui Cuộc đời, đã
Rượu đầy cốc, vẫn rút lui sớm sủa,
Không cạn luôn mà để dở giữa chừng,
Ai không xem hết chuyện tình của nàng
Và bất chợt biết chia tay cùng với nó,
Như tôi với Ônhêghin tạm biệt đầy nhung nhớ.
HẾT
☆ ☆ ☆
CHÚ THÍCH
Chương Tám
Lời đề từ
Fare thee well, and if for ever
Still for ever fare thee well.
Byron.[* 1]
Xin chào, nếu là mãi mãi, xin chào Vĩnh biệt
Bairơn
Đây là câu đầu bài thơ “Chào vĩnh biệt”(1816) của Bai rơn, có đề cập tới việc ông ly hôn vợ.
I.
1.лицей - ở nước Nga sa hoàng, trường Lisêy được mở cho học sinh nam, con em tầng lớp quý tộc hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi riêng.
3.Апулей (khoảng năm 125 tới 180 sau Công nguyên), nhà văn, triết gia La Mã.
4.Цицерон Марк Тулий (năm 106-43 trước Công nguyên) chính khách La Mã, nhà văn, nhà hùng biện.
II.
3.Державин Гавриил Романович (1743- 1816) nhà thơ Nga thời đại Ánh sáng, nhà hoạt động quốc gia Đế quốc Nga.
IV.
1.2.Союз có hai nghĩa: a) hội đoàn bạn hữu, b)hội đoàn chính trị.
Ngầm nhắc chuyện đi đầy của Puskin.
7.Леnora nữ nhân vật trong trường ca cùng tên của nhà thơ Đức Gotfrida Briuger (1747-1794)
9.Таврида . Là một trong nhiều tên gọi lịch sử của bán đảo Cruwm trong thời cổ đại và trung thế kỷ.
12.Нерейда trong thần thoại cổ Hy Lạp, là con gái thần biển Nherêy, nghĩa là : biển.
V.
-
Có ý nhắc chuyện bị quản thúc ở Mikhailôpxkơie
VI.
2.раут cuộc họp mặt, gặp gỡ bạn bè, người thân vào buổi tối, không có khiêu vũ, đơn giản chỉ tập trung đông người.
VII.
1-4. Có thể hiểu, phòng khách gia đình Tachiana là đại diện cho giới thượng lưu, hình mẫu tự do của giai cấp quý tộc thật sự.
VIII.
14.Чацкий Алекса́ндр Андре́евич nhân vật chính trong hài kịch thơ của Aleksandr Griboedôv “Nỗi khổ vì trí tuệ”, người ra đời trước khi xuất hiện nhân vật”siêu nhân “ một mẫu nhân vật mới trong văn học Nga.
IX.
9.Rằng người yêu tự do… Dòng này được nhắc tới nhiều lần trong các bài nghiên cứu và sách khảo cứu. Truyền thuyết kể rằng, khi Piôtr Đại Đế hỏi Kikin, một tù nhân: Vì sao Kikin không thích Piôtr? Kikin đáp: Trí óc Nga yêu khoảng không bao la, nhưng vì Piôtr cai trị, làm không khí ngột ngạt, tù túng. Còn một phiên bản nữa: Piôtr hỏi: Là người thông minh, sao ngươi dám chống đối ta? Kikin đáp: Tôi mà thông minh ư?! Đầu óc tự do thích khoảng không, nhưng sự trị vì của Vua, làm không khí bức bối, ngột ngạt.
Kikin Aleksandr Vasilievich- nhà hoạt động chính trị thời Piôtr Đại Đế, Kikin tham gia âm mưu lật đổ Vua của Hoàng tử Aleksey. Kikin bị hành hình năm 1718 bằng cách tra tấn tới chết trên bánh xe quay.
XIV.
12Du comme it faut…(tiếng Pháp): thật tuyệt vời
XV.
14.vulgar - thông tục, xấu xí
XXIII.
2.nguyên bản tiếng Pháp: tête -à-tête -mặt đối mặt, trực tiếp
XXV.
5.роман có hai nghĩa: a) tiểu thuyết, b) chuyện tình, mối tình; nhiều văn cảnh khó xác định, từ này được dùng với nghĩa nào.
6.вензель: sau khi biết tin tướng Н М Бороздин mất đột ngột ngày 14.11.1830, để lại hai con gái mồ côi, Nữ hoàng đã tặng các con gái của vị tướng này - hai chị em Ольга và Анастасия Бороздины - huy chương có hai chữ cái đầu họ, tên của bà, khắc đá quý.
7.ложь журналов
XXVII.
8-14.Trong Kinh thánh có nhắc tới chuyện, quỷ Satăng cải trang thành rắn độc, lọt được vào vườn địa đàng, đã quyến rũ người đàn bà đầu tiên - nàng Eva, rủ nàng cùng ăn trái cấm hái trên cây nhận thức thiện ác.
XXXII.
2.cách nói cổ, có ý châm biếm. Dịch nghĩa: viết thư cho tổ tiên kể việc sắp đoàn tụ gia đình. Nghĩa: sẵn sàng chết, sắp chết, sắp đi gặp tổ tiên
XXXV.
9-11.Chương Tám được Puskin viết trong hoàn cảnh không thuận lợi: nhiều nhà phê bình tấn công dữ dội Puskin. Các ý kiến của Булгарин, Греч, Надеждин,Полевой …biến các cuộc phê bình này ( các năm 1829-1830) thành trào lưu trù dập ông: họ có thiên hướng phê phán, làm giảm uy tín chính trị của ông, quy kết Puskin có biểu hiện không yêu nước, chống đối vua.
14.E sampre bene - thật hoàn hảo, thật là tuyệt
XXXVII.
Фараон trò đánh bạc đỏ đen. Trí tưởng tượng là con bạc vung vảy các cảnh đời đã qua. Trong bản nháp của Puskin, thì đó là số phận.
Ônhêghin có kinh nghiệm buồn với cờ bạc: Chàng đã thua cháy túi. (V. 519) Có tác giả cho rằng, hình tượng cuộc đời là ván bạc thua cháy túi đã luôn luôn gây xúc động với Puskin.
XXXVIII.
12-13.Benedetta…. Các khổ thơ trong Đêm Vơ ni dơ của Koslốp theo môtip barcarola- đoạn song ca cho hai giọng soprano và meso-soprano: “ benedetta sia la madro “.
Idol mio, của nhà soạn nhạc người Ý, Vitrenso Gabusy: điệp khúc( Ôi thần tượng của tôi, lòng tôi đâu còn bình yên).
XXXIX.
11.на синих льдах… Mùa đông, trên sông Nhêva, một số người kiếm sống bằng cách xẻ các tảng băng vuông vắn, để bán lại cho các hầm lạnh, cho người cần.
XLIV.
9.изувечен … dòng này kể: ông chồng của Tachiana bị thương nhiều lần trong chiến đấu, chứ không phải phế binh. Nhiều bạn đọc tò mò muốn biết: vậy chồng Tachiana có già không? N.O.Lerner cho rằng, có lẽ, không phải quá già. Có tác giả nhẩm tính: Ônhêghin sinh năm 1795, đến mùa Xuân năm 1825, chưa tròn 30 tuổi. Bá tước N. là họ hàng và là bạn với Ônhêghin, Ônhêghin hay xưng hô “anh -tôi” với bá tước N. Rất có thể, bá tước N. chỉ hơn Ônhêghin độ 5 tuổi. Theo báo chí thời đó, Михаил Орлов lên tướng ở tuổi 26, là trường hợp có sự nghiệp công danh sớm và rất chói sáng, còn Ф. Г. Кальм được phong tướng ở tuổi 36. Vì vậy, trong thơ văn thời ấy, có miêu tả nhiều vị tướng chưa phát phì đến mức má chảy xệ hay có hai cằm.
XLV
1—2 Я плачу… Если вашей Тани / Вы не забыли до сих пор… — một cách diễn đạt khá lạ lùng. Đã bao giờ Tanhia là của Evghênhi? Hình như, nữ bá tước N chịu ảnh hưởng những cuốn tiểu thuyết nàng từng đọc.Trong các sách này, cách hành văn truyện ngôn tình đã buộc các thiếu nữ khi nói về bản thân trong các bức thư, thường viết: “Iulia của anh”, “Korinna của anh” và v.v… rồi ký tên mình. Có thể là, tác giả hy vọng rằng, bạn đọc sẽ nhớ chương 4, XI và và sẽ thấy rõ hơn cái logic đã cho phép nàng dùng đến dạng tên thân mật.
XLVII
13—14 Но я другому отдана; / Я буду век ему верна. —
Pushkin, tất nhiên, muốn biến quyết định của nữ bá tước N thành quyết tâm bất đi bất dịch, không thể lay chuyển; nhưng liệu ông có đạt được mục đích của mình hay không?
Chín mươi chín phần trăm số lời bình luận có dính dáng đến chuyện tình ái đã xuất hiện với tốc độ khủng khiếp của dòng ý kiến phê phán về mặt tư tưởng trong suốt hơn một trăm năm qua đã không để cho cuốn tiểu thuyết bằng thơ của Pushkin được yên ổn lấy một ngày, là dành cho những phát biểu hùng hồn, đầy tinh thần ái quốc đã ca ngợi đức hạnh của Tachiana. Đấy chính là, -những nhà báo ủng hộ cách lập luận của Belinxky, Đôxtôiépxky, Điđôrôp đều hào sảng, nồng nhiệt gào to lên: đây chính là hình ảnh người phụ nữ Nga dũng cảm, tận tuỵ hy sinh, có ý thức trách nhiệm cao, thẳng thắn, trong sáng của chúng ta.
Nhưng nhiều nhân vật nữ người Anh, Pháp, và Đức trong các cuốn tiểu thuyết mà Tachiana ưa thích, cũng nồng nhiệt, tốt bụng, đầy phẩm hạnh, không hề kém Tachiana, và có thể, có khi còn ở mức cao hơn nữa, tôi dám nói như vậy, đều sẵn sàng xông vào chinh phục con tim những quý ông hâm mộ “nữ bá tước Gremina”(như cách của hai giọng hát ngôi sao đã gọi nữ bá tước N, khi họ hát vài đoạn liberto trong opera của Traikốpsky), vì cần phải khẳng định rằng, câu trả lời của Tachiana với Ônhêghin nói chung là không vang lên với giọng cả quyết, tỏ rõ quyết tâm sắt đá, không thể thay đổi được, đầy hào hùng, mà các nhà nghiên cứu EO ở Nga nghe được. Các bạn hãy chú ý tới giọng điệu của khổ XLVII - lồng ngực rướn lên cao, tiếng nói bị đứt đoạn, những lần xuống dòng nghe nức nở, đau đớn, lộ vẻ lo lắng, đầy cuốn hút, say đắm, gần như có cảm giác sắc dục mạnh mẽ, ngọt ngào, cảm tưởng như rất hấp dẫn (các dòng 1-2, 2-3, 3-4, 5-6, 6-7, 8-9, 10-11) - như một bữa tiệc đang ở đoạn cao trào gồm nhiều lần xuống dòng, ngắt dòng thơ bằng nhiều cách, và đạt tới đỉnh điểm trong đoạn tả cảnh trai gái ngỏ lời yêu đương, cách tỏ tình ấy đáng ra phải làm con tim chàng Ônhêghin nhảy loạn nhịp vì sung sướng. Nhưng mười hai dòng thơ đầy thổn thức, nức nở ấy kết thúc thế nào? Chỉ là chuỗi âm thanh trống rỗng, vô nghĩa, hợp với tình huống hai câu thơ “em đã có chồng - em nguyện thuỷ chung”: cái đức hạnh giọng như rít lên cứ nhắc đi nhắc lại mãi câu thoại đã thuộc lòng rồi!
XLVIII
-
Ура- hoan hô, vỗ tay, reo ầm ỹ,..
L.
13.quả cầu thủy tinh được dùng khi bói toán. Ánh sáng nến chiếu vào mặt quả cầu phía đối diện, người bói dựa vào hình ảnh mờ mờ này và bói chuyện tương lai.
LI.
Hình tượng cuộc đời được khai triển theo phép ẩn dụ khá đối lập nhau: Lý tưởng- Số phận - Cuộc đời. Thường có hai cách hiểu: a) cuộc đời là tiệc hội/ cuộc đời là bể khổ. b) cuộc đời là cuốn sách, cuốn tiểu thuyết.
4.Sadi (hay Saadi) ( khoảng giữa các năm 1203 và 1210-1292) nhà thơ Iran, sinh ra tại Shiras
12.роман có hai nghĩa, nên có thể hiểu hai cách: Ai không xem hết cuốn tiểu thuyết này ( chuyện tình của nàng)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Chúng tôi đã dùng văn bản Evghênhi Ônhêghin theo nguồn sau:
// Пушкин А. С. Полное собрание сочинений: В 16 т. — М.—Л.: Издательство АН СССР, 1937—1959. — Т. 6. Евгений Онегин. — 1937. — С. 1—205. — Примечания к «Евгению Онегину»: C. 191—195; Отрывки из путешествия Онегина: C. 197—205.
// Пушкин А. С. Полное собрание сочинений: В 10 т. — Л.: Наука, Ленинградское отделение, 1977—1979. — Т. 5. Евгений Онегин. Драматические произведения. — 1978. — С. 5—184.
Текст романа с комментариями В. В. Набокова, комментариями Ю. М. Лотмана и примечаниями Б. В. Томашевского.
(Theo: Стихи. ру)
2.Để hiểu đúng văn bản Evghênhi Ônhêghin, chúng tôi dựa vào các tác giả: Ю. М. Лотман , В. В. Набоков, Б. В.Томашевский và một số nguồn khác. Trên mạng có nhiều bài của người Nga phân tích một số khổ thơ trong Evghênhi Ônhêghin cũng giúp ích nhiều cho việc hiểu sâu văn bản.
Đã tham khảo bản dịch của các tác giả sau:
Tiếng Việt:
-blog 0912375717nhavan thai ba tan. Puskin, Evghênhi Ônhêghin
-Sách:
(A.X. Puskin. Evghênhi Ônhêghin, tiểu thuyết thơ, Thái Bá Tân dịch, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ, Hà Nội, 1984.)
Tiếng Anh:
1.Eugène Onegin. gutenberg.org
2.A.S. Puskin; Eugène Onegin (tr. Ch. Johnston)
3.Các chú thích trong bản dịch này đều dịch lại ( có rút gọn) ghi chú của Ю. М. Лотман , В. В. Набоков, Б. В.Томашевский là chính, có xử dụng thêm vài nguồn khác.
Лотман Ю. М. Роман А. С. Пушкина "Евгений Онегин": Комментарий: Пособие для учителя // Лотман Ю. М. Пушкин: Биография писателя; Статьи и заметки, 1960—1990; "Евгений Онегин": Комментарий. — СПб.: Искусство-СПБ, 1995. — С. 472—762.
V. Nabôkôp. Комментарий к роману «Евгений Онегин« , краткое содержание . Издательство Искусство-СПб/ Набоковский фонд, 1998.
Томашевский Б. В. Пушкин: В 2 кн. М.; Л., 1956, 1961.
4.Tranh minh họa của các họa sỹ sau:
Репин И. Е. (1844-1930)
Кузьмин Н. В. (1890-1987)
Самокиш-Судовская Елена Петровна (1863-1924);
Тимошенко Лидия Яковлевна (1903-1978);
Соколов П. П. (1826-1905);
Добужинский Мстислав Варелианович(1875-1957)
Рудаков К И (1891-1949)
Дмитрий Анатольевич Белюкин (1962- )
Марина Викторовна Нигматуллина (1961- )
(ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH
Người dịch xin chân thành cám ơn nhà thơ Huệ Thu, dù đang trong tâm trạng “Tạ từ”, “Thơ ơi, buồn quá”, “Xin tạm biệt”….vẫn nhiệt tình và cặm cụi gần một năm nay đăng bản dịch “Evghênhi Ônhêghin” trên “Sai mon thi dan”!
Xin cảm ơn các bạn đủ kiên nhẫn đọc hết tám chương tác phẩm này. Tôi hy vọng: khi đọc bản dịch này, các bạn sẽ ít nhiều có cảm nhận dễ chịu, hiểu được phần nào cái hay, cái đẹp của tiểu thuyết bằng thơ rồi yêu thích tác phẩm lớn nhất của đại thi hào Nga A.X. Puskin. Chỗ nào chưa đạt yêu cầu, chưa hay… là do lỗi người dịch hết!)
🍎🍇🍉🍈🍒🍑🍍
|