Khi Clinton tuyên bố ông không có quan hê tình dục (sexual relation) với Lewinsky mặc dù thừa nhận nàng có làm tình bằng miệng (oral sex) với ông đôi lần, thì thiên hạ nhao nhao lên xem xét lại định nghĩa của “giao cấu” (having sex). Hai nhà nghiên cứu của Viện Kinsey thăm dò dư luận của 600 sinh viên một đại học nọ và nhận được kết quả là 60% cho rằng như thế là chưa giao cấu (sexual intercourse), phải có “thông giao” (penetration) mới gọi là giao cấu Ngày nay mơ hồ về giao cấu làm ta nhớ lại ngày xưa mơ hồ về hôn nhân đã gây nên những ý kiến sôi nổi khác nhau của những người theo đạo Chúa (Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo, Do Thái…), vì đây là một vấn đề quan trọng để quyết định cho phép ly dị hay không.
Theo giáo lý, khởi thủy chỉ có ông Adam, rồi Chúa lấy xương sườn ông tạo nên bà Eva, để 2 người sống hạnh phúc, kết hợp với nhau trong hôn nhân tự nhiên. Sau khi ăn trái cấm hai vị bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng, nhưng hôn nhân vẫn là sắp đặt của Chúa. Loài người ở một mình thì không tốt, người nam sẽ lìa cha mẹ và dính líu với người nữ là vợ mình, và cả hai sẽ nên “một thịt”.
Muốn nên một thịt, thì phải thông giao. Mà muốn thông giao thì phải cương cứng. Nếu bất lực, không cương cứng để đưa vào, xuất tinh làm thụ thai có con, thì cho dù có làm hôn lễ, có ăn nằm, hôn nhân vẫn vô hiệu vì không làm tròn nghĩa vụ Chúa phán: “Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều đầy khắp mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất” (sách Sáng Thế Ký).
Thành thử, ngoài lý do thường gặp là ngoại tình, bất lực cũng là một lý do chính đáng khác để xin ly dị, đã làm các giáo sĩ điên đầu vì rất phức tạp,
phải xét tiếp đến chuyện kiểm chứng mất trinh, cương cứng, giao cấu, xuất tinh, thụ thai…. để có một quyết định sau cùng thích hợp, nhất là thời đó chưa hiểu rõ nguyên nhân bất lực là tâm lý, sinh lý, hay ma thuật…
Hãy nghe tả 1 trong các phiên tòa ở York và Canterbury của giáo hội Anh thế kỷ XV, thường dùng phụ nữ chân thực (honest) để kiểm tra bất lực của một ông:
“Chị chứng nhân phơi trần bộ ngực, hơ tay vào ngọn lửa cho ấm rồi cầm con cu với bìu dái của John, xoa bóp, ôm John, hôn mấy cái, kích thích để anh phô bầy cái nam tính, cương cứng của mình, và trách anh thật đáng xấu hổ không chứng tỏ được mình là đàn ông. Sau đó khi bị gạn hỏi, chị bảo rằng suốt thời gian đó con cu John dài gần 3 inches…giữ y nguyên, chả to hay nhỏ đi chút nào.”
Thật ra trong hoàn cảnh căng thẳng như vậy, lại thêm bị cáo buộc bất lực, thì người bình thường cũng khó có thể lên nổi. Giáo hội dính líu đến cái chuyện khó coi này chỉ vì muốn kiểm chứng hôn nhân có đã được hoàn tất (consummated) không. Nhưng các bác sĩ của giáo hội thắc mắc: Thế nào là hoàn tất? Chỉ việc thông giao? Hay cần phải xuất tinh? Có khi vợ còn phải cực khoái nữa để dễ thụ thai? Giáo hội vướng víu vào chuyện bất lực chỉ vì không muốn cho phép dễ ly dị, con chiên lập gia đình một vợ một chồng là để sinh con chứ không phải hưởng lạc. Thái độ khắt khe của Giáo hội đối với tình dục và hôn nhân có nhiều điều lý thú ít người biết mà bài này chỉ xin trình bầy vài khía cạnh.
Người đầu tỉên ảnh hưởng lớn nhất về vấn đề tình dục và hôn nhân là St. Augustine (354-430) Theo ông, tình dục con người đã lệch hướng quá xa đối với mục đích khởi thủy của Chúa. Trong Địa Đàng trước khi Adam và Eva phạm tội, giao cấu là chuyện tự nhiên, không đem lại cực khoái như ta hiểu ngày nay, và nhục dục hoàn toàn bị chi phối bởi lý trí. Hai vị không bị thôi thúc mãnh liệt bởi nhục dục như con cháu sau này ngoài Địa Đàng. Tình dục là hậu quả của phạm tội bởi hai vị, là hình phạt con cháu phải luôn luôn cưỡng chống lại đòi hỏi cám dỗ của xác thịt để được cứu rỗi ở đời sau trong nước Chúa. Giao cấu tự nó không xấu mà xấu vì cái khoái lạc cám dỗ người ta say mê làm tình.
Thành thử, tác phong tình dục là một vấn đề luân lý, là thước đo tính cách đạo đức. Giáo dân cần được kiểm soát về tình dục: tốt nhất là độc thân, nếu không được thì giải quyết trong hôn nhân, không được làm tình bừa bãi. Ngay trong hôn nhân, giao hợp chỉ để sinh con, chứ không phải để thỏa mãn nhục dục, tìm khoái lạc. Bởi vậy, từ thế kỷ XVI xuất hiện nhiều cẩm nang giải tội (penitential) để giáo sĩ tham khảo, dẫn dắt giáo dân vào khuôn phép. Tuy nhiên giáo sĩ cũng được nhắc nhở, khi gạn hỏi người xưng tội để ban phát hình phạt giải tội thích nghi, phải coi chừng phản tác dụng là có thể vẽ đường cho hưou chạy.
Theo cẩm nang, vợ chồng không được giao hợp vào Mùa Chay (Lent) Lễ Hiện Xuống (Pentecost) và Mùa Vọng (Advent). Ngoài ra, cấm kỵ là những ngày Thứ Tư, Thứ Sáu và Thứ Bẩy quanh năm; và thời gian vợ kinh nguyệt hoặc thai nghén hoặc còn cho con bú (sau khi sanh). Cũng coi như phạm tội các trường hợp giao cấu ban ngày, hoặc trần truồng không quần áo che đậy, hoặc tư thế khác tư thế được phép là chồng trên sấp, vợ dưới ngửa…Tình dục ngoài hôn nhân bất cứ dạng nào (dị tính, đồng tính, một mình, với người khác, thức, ngủ, tự nguyện, ép buộc…) đều coi là tội. St. Jerome (331-419/20) còn đi xa hơn, muốn giời hạn thân mật vợ chồng, cho rằng yêu vợ quá nhiệt tình cũng là tội.
Trước kia chỉ giáo sĩ trong tu viện, nhà thờ…mới bị yêu cầu tự nguyện sống độc thân. Từ nửa sau thế kỷ XI muốn đi tu ai cũng bị bắt buộc phải độc thân. Sang thế kỷ XII các quy định về tình dục, hôn nhân mới được san định thành Giáo Luật (Canon), khởi sự từ sách Decretum (1140) của luật gia Gratian, cũng trong tinh thần kiểm soát đòi hỏi cám dỗ của nhục dục, lên án thói dâm dục, ngoại tình, kê gian, làm tình trái kiểu cho phép…chúng là những tội có thể bị đưa ra xét xử tại tòa giáo hội. Giao cấu chỉ hợp cách khi hội 1 trong 3 điều kiện: để sinh con, để tránh cám dỗ ngoại tình, để đáp ứng đòi hỏi cần thiết của phối ngẫu (coi như nợ phải trả khi đồng ý kết hôn).
Thomas Aquinas cho rằng nếu món nợ này không trả được vì bất lực (do khuyết điểm tâm sinh lý như quá nhỏ tuổi, âm đạo quá hẹp, dương vật, ngọc hành khiếm khuyết, hay ma thuật trù yểm….) thì hôn nhân vô hiệu. Hôn nhân chỉ đòi hỏi thông giao và thỏa mãn (satiative copula) mà không cần xuất tinh, nên người luống tuổi không thể có con vẫn có thể lấy nhau; và ngay cho dù bất lực nhưng đồng ý và hài lòng thì vẫn có thể lấy nhau, gọi là hôn nhân tinh thần (spiritual marriage).
Có nơi cho thời gian thử thách (probation) trước khi ly dị vì e rằng bất lực chỉ là tạm thời. Có giáo hoàng còn cho phép đã ly dị có thể tái hơp. Cách giải quyết ly dị rất khác nhau, có khi kiểm tra kỹ càng vợ có mất trinh không, chồng có thật bất lực không….vì e có thông đồng, có những động cơ khác như tiền bạc, muốn tự do dâm đảng….Từ thế kỷ XVI Giáo hội La Mã quy định hôn nhân chỉ hoàn tất khi nam có thông giao và xuất tinh. Về phần nữ thì dễ dàng hơn, chỉ cần có âm hộ, âm đạo, không cần biết có tử cung hay trứng, nghĩa là không con không được coi là lý do để ly dị vợ.
Tình dục và hôn nhân trong đạo Chúa là một lịch sử dài đa dạng và phức tạp, bài này chỉ xin kể thêm 2 chuyện nổi bật Năm 1497 Giáo Hoàng Alexander VI bảo con gái Lucrezia Borgia khai rằng nàng lập gia đình 3 năm rồi mà hôn nhân vẫn chưa hoàn tất, nghĩa là chưa có giao cấu. Nàng sắn sàng tuyên thệ và để cho bà mụ kiểm tra. Chồng là Giovanni Sforza từ chối ra tòa giáo hội cũng như không chịu chấp nhân kiểm tra ở Milan. Một ủy ban cầm đầu là 2 hồng y tuyên bố hôn nhân vô hiệu và Lucrezia còn trinh, mặc dù vợ trước của Sforza chết khi sanh con. Cả nước Ý cười ầm lên. Sau cùng Sforza phải tuyên bố hôn nhân chưa hoàn tất và trả lại hồi môn.
Thế kỷ XV chứng kiến săn lùng phù thủy ở Châu Âu. Sách Malleus Maleficarum của giáo sĩ Heinrich Kramer là kim chỉ nam cho Giáo Tòa (Inquisition) thi hành nhiệm vụ. Theo Kramer hôn nhân là ân sủng của Chúa cho người ta có con cái.
Tuy nhiên Quỷ được Chúa cho phép một mặt làm con người mê đắm nhục dục, thích làm tình, nhưng mặt khác phá đám, chiêu dụ phù thủy tấn công hôn nhân (vì bản chất khoái lạc làm tình là tội lỗi) qua ma thuật làm nam nữ bất lực không thể giao hợp, hoặc vô sinh, xẩy thai, con chết khi sinh ra….Kramer dẫn chứng theo Peter of Pallude, Quỷ có 5 cách phá hoại : Hiện hình giả là người yêu, làm đàn ông lãnh cảm hết ham muốn, làm đàn bà trông ghê tởm trước mắt đàn ông, làm liệt dương, làm tắc nghẽn ống dẫn tinh. Nữ ít là nạn nhân hơn nam, vì hầu hết phù thủy là nữ, thường tìm nạn nhân là nam.
Trước kia giáo hội nhấn mạnh chính về mặt luật tự nhiên: ý nghỉa và mục đích của tình dục và hôn nhân là sinh con. Ngày nay đã có chuyển hướng sang phát triển cá nhân, giáo hội quan tâm đến các yếu tố tôn giáo, tình cảm, xã hội, tâm lý cũng như sinh lý của tình dục con người. Tình dục là nhân tố thiết yếu để con người phát triển trong tình yêu của Chúa cần được triển khai trong tình yêu nam nữ, kết tinh trong hôn nhân với trách nhiệm và dấn thân, chăm lo cho nhau cả tâm hồn lẫn thể xác. Xã hội biến chuyển không ngừng, và giáo hội cũng nhanh chóng đáp ứng các vấn đề thời đại như giao hợp tiền hôn nhân, ngừa thai, phá thai, độc thân của giáo si, đồng tính, mãi dâm…chúng nằm ngoài phạm vi bài này.
Tuy nhiên, những tiêu chuẩn luân lý từ thời xưa vẫn thấy phản ánh trong các luật của Âu Mỹ hiện đại. Tại Mỹ thông dâm, ngoại tình, kê gian vẫn là tội
phạm tại một số tiểu bang, và thỉnh thoảng, trong những trường hợp khác thường, vi phạm có thể bị đưa ra xét xử trước tòa. Một di tích của Giáo Luật có thể thấy trong trường hợp bạo hành gia đình. Nhiều tòa án Bắc Mỹ tha hoặc giảm hình phạt đối với bị can phạm tội hiếp dâm hoặc lạm dụng tình dục khi chứng minh được rằng nạn nhân là người phối ngẫu đã không chịu trả “món nợ hôn nhân”.
.
Phạm Đức Thân
|