Nov 21, 2024

Thơ dịch

Tùng Cương dịch Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương VI 🌱
Tùng Cương * đăng lúc 05:38:22 PM, Sep 04, 2024 * Số lần xem: 197
Hình ảnh
#1
#2
#3
#4
#5
#6
#7
#8
#9
#10
#11
#12

 

 



  Tùng Cương dịch
                      
         Yevgeny Onegin, A. Puskin

    Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin  Chương  I  🍁
               
 
Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương II  💛 

Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương III  🌹

    Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương  IV  🌼 -

     Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương V 🌷                       


                                                            ❤ 🌹 ❤

 

                                Chương  VI  🌱


ГЛАВА ШЕСТАЯ

La sotto i giorni nubilosi e brevi,
Nasce una gente a cui l’morir non dole.

Petr.[* 1]

 

I.

Заметив, что Владимир скрылся,
Онегин, скукой вновь гоним,
Близ Ольги в думу погрузился,
Довольный мщением своим.
За ним и Оленька зевала,
Глазами Ленского искала,
И бесконечный котильон
Ее томил, как тяжкий сон.
Но кончен он. Идут за ужин.
Постели стелют; для гостей
Ночлег отводят от сеней
До самой девичьи. Всем нужен
Покойный сон. Онегин мой
Один уехал спать домой.

 

CHƯƠNG SÁU

I

Vừa nhận thấy Vladimir đã đi đâu biến hẳn,

Ônhêghin lại càng buồn ngán ngẩm,

Ở bên Ônga, chàng chìm đắm nghĩ suy,

Trả được thù, hài lòng quá, đang vui.

Sau lưng chàng, Ônga ngáp dài ngáp ngắn,

Nàng đưa mắt kiếm tìm Lensky khắp chốn,

Mà nhạc chơi điệu Kotilion kéo quá lâu 

Càng khiến nàng mệt mỏi, như cơn mộng đau đầu.

Nhưng nhạc nghỉ. Cả nhà đi ăn tối.

Gia nhân trải giường. Cho khách qua đêm vội,

Phòng khách đầy người, phòng con gái kín liền.

Ai cũng thèm một giấc ngủ bình yên.

Còn Ônhêghin của tôi liền vội vã 
Một mình phóng xe về nhà ngủ đã.


II.

Всё успокоилось: в гостиной
Храпит тяжелый Пустяков
С своей тяжелой половиной.
Гвоздин, Буянов, Петушков
И Флянов, не совсем здоровый,
На стульях улеглись в столовой,
А на полу мосье Трике,
В фуфайке, в старом колпаке.
Девицы в комнатах Татьяны
И Ольги все объяты сном.
Одна, печальна под окном
Озарена лучом Дианы,
Татьяна бедная не спит
И в поле темное глядит.

 

II

Việc thu xếp nơi ngủ xong đâu đấy:

Trong phòng khách, Puschiakôp nặng cân đang ngáy,

Bà vợ nằm bên cũng béo tốt, đẫy đà.

Gvodđin, Buyanôp, Petushkôp và

Phlianôp chưa tỉnh ra, còn ngây ngất,

Ghép ghế lại làm giường nằm trong bếp tất,

Me xừ Trike nằm thoải mái trên sàn

Cổ quàng khăn, đầu mang mũ cũ sờn.

Đám con gái trong phòng Tachiana chèn chật ních 

Và Ônga cũng đều đang say ngủ tít.

Chỉ một mình, bên cửa sổ, thức ngồi buồn 

Trong ánh trăng ngời ngợi soi suông,

Tachiana khổ sở còn chưa ngủ nổi 

Nhìn mãi phía cánh đồng chìm trong màn tối.

 

5.chưa tỉnh ra…. Đây là cách nói tránh, vòng vèo, của các quý cô tỉnh lẻ. Họ không nói: tôi xỉ mũi, tôi toát mồ hôi, tôi nhổ nước bọt,.. Mà họ dùng: tôi làm sạch mũi, tôi phải dùng đến khăn tay, .. Họ cũng không kêu: cốc này , đĩa này bốc mùi. Mà nói: cốc này, đĩa này làm sao ấy!


III.

Его нежданным появленьем,
Мгновенной нежностью очей
И странным с Ольгой поведеньем
До глубины души своей
Она проникнута; не может
Никак понять его; тревожит
Ее ревнивая тоска,
Как будто хладная рука
Ей сердце жмет, как будто бездна
Под ней чернеет и шумит…
«Погибну», Таня говорит,
«Но гибель от него любезна.
Я не ропщу: зачем роптать?
Не может он мне счастья дать».

 

III 

Việc Ônhêghin tự nhiên xuất hiện,

Với ánh mắt đầy dịu dàng, thân thiện 

Thật lạ lùng cách cư xử với Ônga 

Đang khiến nàng xúc động quá sâu xa

Trong sâu thẳm đáy lòng đớn đau. Nàng không thể

Hiểu được việc chàng làm. Sao nàng buồn thế

Vì ghen tuông buồn tức trong lòng,

Như có bàn tay cứng rắn lạnh lùng 

Bóp chặt trái tim nàng, như vực thẳm 

Ẩn trong tim thét gào và trông tối sẫm …

“Chết mất thôi”, Tachiana tự nói ra,

“Nhưng chết vì chàng là thứ ta muốn mà.

Ta không trách ai: Cần gì trách móc?

Chàng không thể đem cho ta hạnh phúc”


IV.

Вперед, вперед, моя исторья!
Лицо нас новое зовет.
В пяти верстах от Красногорья,
Деревни Ленского, живет
И здравствует еще доныне
В философической пустыне
Зарецкий, некогда буян,
Картежной шайки атаман,
Глава повес, трибун трактирный,
Теперь же добрый и простой
Отец семейства холостой,
Надежный друг, помещик мирный
И даже честный человек:
Так исправляется наш век!

 

IV

Nào kể tiếp chuyện của tôi đi nhỉ!

Một khuôn mặt mới làm ta chú ý.

Ở cách năm vecta tính từ núi Đỏ xa xôi,

Làng của Lenski, đang sống an vui

Và tĩnh tại đến hôm nay trên trần thế,

Trong một xứ vùng sâu không ai quen triết lý,

Đó là Daretsky, dân anh chị một thời,

Từng đứng đầu một nhóm lao động khổ sai rồi,

Quản trẻ đốn hư, chủ vài sòng bạc,

Nay đổi tính, sống giản đơn và người cũng được,

Là bố trong gia đình, chưa lấy vợ bao giờ,

Một anh chàng đáng tin, một địa chủ hiền hoà 

Và thậm chí còn là người lương thiện:

Thế kỷ của ta tự sửa mình mới nên chuyện!

 

3.верста là đơn vị đo chiều dài của Nga, chuyển sang hệ mét bằng 1066,8 m.

11.отец … холостой…Một số địa chủ cai quản nông nô, đã ăn nằm với nông nô nữ và sinh ra những đứa con không hợp pháp, khi các nữ nông nô bỏ đi, họ để con lại cho chủ nuôi một mình.


V.

Бывало, льстивый голос света
В нем злую храбрость выхвалял:
Он, правда, в туз из пистолета
В пяти саженях попадал,
И то сказать, что и в сраженье
Раз в настоящем упоенье
Он отличился, смело в грязь
С коня калмыцкого свалясь,
Как зюзя пьяный, и французам
Достался в плен: драгой залог!
Новейший Регул, чести бог,
Готовый вновь предаться узам,
Чтоб каждым утром у Вери[1]
В долг осушать бутылки три.

 

V

Đã nhiều dịp, người đời khen ngợi lão 

Lòng can đảm ông tỏ ra bất hảo:

Nào kể rằng ông rút súng khỏi bao,

Đứng xa mười mét, bắn trúng đích rất cao,

Và phải kể: có lần trong chiến đấu 

Ông chứng tỏ oai hùng khi hăng máu,

Đang cưỡi trên lưng ngựa Canmức tiến lên 

Ông ngã kềnh rơi xuống đất đen,

Như người chớm say say, và bị quân Pháp bắt

Nhốt trong ngục một con tin có giá đắt!

Ông là Regun mới nhất, thần danh dự muôn đời,

Ông sẵn sàng lại ở tù lâu dài,

Để mỗi sáng, ông ra ngồi Very- khách sạn

Uống vài chai cho ghi nợ vô hạn.

 

4.сажень đơn vị đo chiều dài cũ của Nga, bằng 3 аршин, chuyển hệ mét bằng 2,134 m, 5 сажень bằng khoảng 10 m., hay gần 10 bước chân.

11.Regun Mark Antoni - viên tướng La Mã, (tk. III, trước công nguyên,) bị bắt làm tù binh 5 năm tại Karphagen, được cho  phép về Rôm để thỏa thuận điều khoản hoà ước, nhưng khi về tới Rôm, phát biểu trước nghị viện, Regun đã khước từ đề nghị này, do là người trọng danh dự, giữ lời hứa, ông vẫn quay về Karphagen, ở đó, ông bị bắt lại và bị tra tấn tới chết.

14.Very - tên Cafe Very trong vườn hoa Tuylidi,(trong các năm 1808-1817),  Pari, Pháp.

 


VI.

Бывало, он трунил забавно,
Умел морочить дурака
И умного дурачить славно,
Иль явно, иль исподтишка,
Хоть и ему иные штуки
Не проходили без науки,
Хоть иногда и сам впросак
Он попадался, как простак.
Умел он весело поспорить,
Остро и тупо отвечать,
Порой расчетливо смолчать,
Порой расчетливо повздорить,
Друзей поссорить молодых
И на барьер поставить их,

VI

Ông nhiều lúc, giễu đùa trêu ai trước,

Ông thừa sức giễu cười bao anh ngốc 

Nhưng lỡm người khôn sa bẫy mới tuyệt vời,

Lúc công khai, khi kín đáo kiểu chơi chơi,

Dù có lúc đôi trò đùa tai ác khác

Mà không phải không đem về quả chát 

Và gậy ông lại đập lưng ông

Ông thành trò cười, tìm chỗ trốn không xong.

Ông rất giỏi tếu vui khi tranh cãi,

Biết đối đáp ngu ngơ và thâm sâu phát hãi,

Lại nhiều khi, theo tính toán mải lặng im,

Nhiều lúc dùng đến cả võ huyên thuyên,

Khích đám trẻ tranh cãi nhau quên giới hạn 

Và đẩy họ thách đấu nhau bằng súng đạn.

VII.

Иль помириться их заставить,
Дабы позавтракать втроем,
И после тайно обесславить
Веселой шуткою, враньем.
Sed alia tempora![* 2] Удалость
(Как сон любви, другая шалость)
Проходит с юностью живой.
Как я сказал, Зарецкий мой,
Под сень черемух и акаций
От бурь укрывшись наконец,
Живет, как истинный мудрец,
Капусту садит, как Гораций,
Разводит уток и гусей
И учит азбуке детей.

 

VII

Hay có lúc, buộc họ cầm tay hoà hoãn,

Rồi ba kẻ lôi nhau đi ăn sáng,

Và âm thầm làm mất mặt họ nói chung

Bằng câu đùa vui, bằng nói dối xưng xưng.

Nhưng thời thế nay khác! Đều làm được 

(Như giấc mộng tỉnh yêu, một trò tinh nghịch khác)

Cũng qua đi với tuổi trẻ tinh nhanh thôi,

Như tôi từng nói rồi, Daretsky của tôi, 

Ẩn dưới bóng cây keo và anh đào dại,

Sau rồi biết tránh xa trời bão giông kéo lại,

Vẫn sống như vị thông thái chân tu,

Ngày ngày ra đồng trồng bắp cải, như Horat xưa,

Bỏ công sức chăm nuôi đàn gà vịt 

Và dạy chữ cho đàn con lít nhít.


5. Sed alia tempora! Nhưng thời thế nay khác! (tục ngữ Pháp: Autres temps autres moeurs).

VIII.

Он был не глуп; и мой Евгений,
Не уважая сердца в нем,
Любил и дух его суждений,
И здравый толк о том, о сем.
Он с удовольствием, бывало,
Видался с ним, и так нимало
Поутру не был удивлен,
Когда его увидел он.
Тот после первого привета,
Прервав начатый разговор,
Онегину, осклабя взор,
Вручил записку от поэта.
К окну Онегин подошел
И про себя ее прочел.

 

VIII 

Ông không ngốc và Evghênhi của tôi cố

Không coi trọng trái tim ông đang có,

Chàng chỉ ưa tinh thần trong suy nghĩ của ông,

Những chuyện lành mạnh về mọi thứ lung tung.

Đã nhiều lúc chàng vô cùng thông thoáng,

Cùng ông gặp gỡ, nên hôm sau, buổi sáng,

Chàng không hề ngạc nhiên tý chút nào,

Khi mà ông dẫn xác đến sớm sao.

Ngay lập tức sau vài câu chào hỏi,

Ông ta ngắt ngay đôi điều mới nói,

Với Ônhêghin, nở nụ cười khẩy hiểm sâu,

Giao cho chàng lá thư của Lensky mau.

Ônhêghin tiến lại gần ra cửa sổ,

Đọc thầm lá thư từng dòng, từng chỗ.

 

2.Daretski không tinh tế, không độ lượng, không ngay thẳng.


IX.

То был приятный, благородный,
Короткий вызов, иль 
картель:
Учтиво, с ясностью холодной
Звал друга Ленский на дуэль.
Онегин с первого движенья,
К послу такого порученья
Оборотясь, без лишних слов
Сказал, что он 
всегда готов.
Зарецкий встал без объяснений;
Остаться доле не хотел,
Имея дома много дел,
И тотчас вышел; но Евгений
Наедине с своей душой
Был недоволен сам собой.

 

IX

Là lời thách đấu nhẹ nhàng, cao thượng,

Hay thư đấu súng, tuy ngắn gọn:

Nhã nhặn thôi, khúc chiết thật lạnh lùng

Lensky thách bạn đấu súng với mình cùng.

Ngay động tác đầu tiên với người đại diện 

Tìm chàng gặp mang theo trách nhiệm,

Tay chống bàn, chàng không nói gì thừa,

Đáp ngay rằng lúc nào cũng sẵn sàng mà.

Daretsky đứng dậy, không một lời hòa giải;

Ông tỏ ý không muốn ngồi nán lại,

Lấy lý do nhà nhiều việc phải đi,

Ngay tức thì bước thẳng. Nhưng Evghênhi,

Khi ngồi lại cùng lòng mình chất vấn,

Chàng đã thấy không hài lòng về bản thân lắm.

X.

И поделом: в разборе строгом,
На тайный суд себя призвав,
Он обвинял себя во многом:
Во-первых, он уж был неправ,
Что над любовью робкой, нежной
Так подшутил вечор небрежно.
А во-вторых: пускай поэт
Дурачится; в осьмнадцать лет
Оно простительно. Евгений,
Всем сердцем юношу любя,
Был должен оказать себя
Не мячиком предрассуждений,
Не пылким мальчиком, бойцом,
Но мужем с честью и с умом.

 

X

Cho đáng kiếp, chàng nghĩ suy nghiêm khắc,

Chàng xem lại mình như quan toà theo mọi góc,

Chàng thấy mình mắc lỗi trong nhiều điều:

Lỗi trước tiên, chàng thấy rõ sai nhiều,

Trước tình cảm êm đềm, nhút nhát yêu của bạn,

Đêm hôm trước, vô duyên cợt đùa, rõ chán.

Lỗi thứ hai: dù tại thi sĩ mà ra

Có làm điều dại dột. Mười tám tuổi, anh ta

Đáng được bỏ qua mới phải. Evghênhi, nói thật,

Vẫn yêu quý chàng với tấm lòng nồng nhiệt nhất,

Evghênhi không nên vì định kiến cứ chạy theo

Bị đá đi đá về như trái bóng sao,

Không nên nóng nảy, hung hăng như trẻ dại,

Có danh dự, thông minh, là đàn ông mới phải.


XI.

Он мог бы чувства обнаружить,
А не щетиниться, как зверь;
Он должен был обезоружить
Младое сердце. «Но теперь
Уж поздно; время улетело…
К тому ж — он мыслит — в это дело
Вмешался старый дуэлист;
Он зол, он сплетник, он речист…
Конечно, быть должно презренье
Ценой его забавных слов,
Но шепот, хохотня глупцов…»
И вот общественное мненье![2]
Пружина чести, наш кумир!
И вот на чем вертится мир!

 

XI

Đáng ra phải biết ngăn tình cảm lại,

Không xù hết lông, điên lên như thú dại;

Chàng đáng ra phải tước vũ khí ngay

Của nhà thơ trẻ tuổi. “Nhưng giờ đây 

Thì đã muộn; Thời gian đã cạn…

Thêm vào nữa, chàng suy - người dây vào chuyện

Là tay từng đấu súng, loại cáo già,

Hắn ác tâm, đưa chuyện, xúc xiểm người ta…

Rõ ràng nhất, phải tỏ ra khinh miệt 

Những lời hắn giải khuây ba hoa quen miệng,

Nhưng tiếng thì thầm, cười cợt của đám ngồi lê…”

Và đây là dư luận xã hội gớm ghê!

Danh dự - sợi lò so, ta coi trọng,

Là nền móng xây nên tòa nhà cuộc sống!

XII.

Кипя враждой нетерпеливой,
Ответа дома ждет поэт;
И вот сосед велеречивый
Привез торжественно ответ.
Теперь ревнивцу то-то праздник!
Он всё боялся, чтоб проказник
Не отшутился как-нибудь,
Уловку выдумав и грудь
Отворотив от пистолета.
Теперь сомненья решены:
Они на мельницу должны
Приехать завтра до рассвета,
Взвести друг на́ друга курок
И метить в ляжку иль в висок.

 

XII 

Sôi sùng sục vì căm hờn thôi thúc mãi,

Nhà thơ trẻ ngồi nhà chờ đáp lại;

Và thế là vị hàng xóm hách dịch kia

Vẻ mặt trang trọng mang câu trả lời về kìa.

Giờ thì kẻ ghen tuông lòng vui như hội!

Chàng vẫn sợ Evghênhi tìm đường chạy vội,

Trưng ra nguyên do nửa thật nửa đùa thôi,

Bịa ra ngay một nguyên cớ trời ơi,

Không dám ưỡn ngực ra phơi miệng súng.

Giờ đây mọi hoài nghi tan biến chóng:

Họ phải đi đến cối xay gió ngoài đồng 

Sớm ngày mai vào lúc trước rạng đông,

Hai bạn sẽ chĩa súng vào nhau đấy 

Và nhằm bắn vào chân hay đầu vậy.

 

14.dịch nghĩa: nhằm vào chân hay vào thái dương. Đây là biệt ngữ thường dùng trong các cuộc đấu súng. Người đấu súng thường nghiêng đầu ra sau, dùng súng che kín mặt để tránh đạn. Chúng tôi chọn cách dịch gọn hơn là: nhằm vào chân hay đầu… Khi tham gia đấu súng, hai người có thể ứng xử như sau: a) nhằm vào chân là cách một người chỉ muốn hoàn thành thủ tục một cách hình thức: đã bắn địch thủ, chỉ định gây thương tích, không muốn cướp đi mạng sống người kia; b) ngắm vào đầu là nuôi hận thù và phải trả thù, là cố giết chết kẻ kia. Hai ứng xử này là gợi ý cho địch thủ có cách đáp lại thích hợp.

 

XIII.

Решась кокетку ненавидеть,
Кипящий Ленский не хотел
Пред поединком Ольгу видеть,
На солнце, на часы смотрел,
Махнул рукою напоследок —
И очутился у соседок.
Он думал Оленьку смутить,
Своим приездом поразить;
Не тут-то было: как и прежде,
На встречу бедного певца
Прыгнула Оленька с крыльца,
Подобна ветреной надежде,
Резва, беспечна, весела,
Ну точно та же, как была.

 

XIII 

Bụng đã định tỏ ra căm người phản bội,

Lensky sục sôi không muốn vội

Gặp Ônga ngay trước cơ hội đấu súng làm gì,

Chàng ngước nhìn mặt trời, ngó đồng hồ hoài,

Rồi tay phẩy, ra ý không cần nghĩ lại -

Chàng có mặt ngay trước nhà bạn gái.

Chàng định qua làm nàng phải ngỡ ngàng 

Bằng việc chàng tới thăm lại nhà nàng;

Nhưng khá lạ: cứ như thường, mọi bận,

Bước ra đón chàng nhà thơ bất hạnh 

Là Ônga từ bậc tam cấp nhảy lao ra,

Hệt như niềm hy vọng phấp phới bay xa,

Trông tỉnh táo, vô lo, mặt hoa hớn hở,

Hệt vẻ mặt của nàng đêm trước đó.


XIV.

«Зачем вечор так рано скрылись?»
Был первый Оленькин вопрос.
Все чувства в Ленском помутились,
И молча он повесил нос.
Исчезла ревность и досада
Пред этой ясностию взгляда,
Пред этой нежной простотой,
Пред этой резвою душой!..
Он смотрит в сладком умиленье;
Он видит: он еще любим;
Уж он, раскаяньем томим,
Готов просить у ней прощенье,
Трепещет, не находит слов,
Он счастлив, он почти здоров…

 

XIV

“Sao tối trước, anh ra về sớm vậy?”

Ônga hỏi mở đầu trước đấy.

Trong lòng chàng mọi cảm xúc nháo nhào,

Chàng im lìm buồn bã làm sao.

Và bực bội, ghen tuông biến đi đâu hết cả 

Trước ánh mắt của Ônga trong sáng quá,

Trước vẻ thân yêu, giản dị, thương thương,

Trước tâm hồn sáng không tì vết như gương!..

Chàng ngắm mãi thấy lòng mình mềm lại;

Lenski biết rõ: nàng yêu chàng ngây dại;

Dù chàng đang mệt mỏi tại hối hận hơn,

Đã sẵn sàng cất lời xin lỗi nàng luôn,

Tim run rẩy không tìm ra ngôn từ để nói,

Chàng hạnh phúc, thấy bình yên đã tới…


XV.  XVI.  XVII.

И вновь задумчивый, унылый
Пред милой Ольгою своей,
Владимир не имеет силы
Вчерашний день напомнить ей;
Он мыслит: «Буду ей спаситель.
Не потерплю, чтоб развратитель
Огнем и вздохов и похвал
Младое сердце искушал;
Чтоб червь презренный, ядовитый
Точил лилеи стебелек;
Чтобы двухутренний цветок
Увял еще полураскрытый».
Всё это значило, друзья:
С приятелем стреляюсь я.

 

XV - XVI - XVII 

Lại buồn bã, lại đăm chiêu suy nghĩ,

Khi đứng trước nàng Ônga yêu quý,

Vladimir không còn sức để nói ra,

Kể lại nàng nghe câu chuyện tối hôm qua;

Chàng suy nghĩ: “Ta là cứu tinh cho nàng vậy.

Ta không chịu cho kẻ hư thân, đốn mạt ấy 

Dùng lời ngon ngọt, than thở cháy trong lòng

Mua chuộc con tim trẻ non dại của nàng,

Để sâu bọ đáng khinh, càng độc hại

Đục ăn thủng cây hoa lan phá hoại 

Để loài hoa tỏa hương sắc lúc ban đêm 

Vừa đơm bông đã gục xuống úa tàn luôn”.

Thưa các bạn, nghĩa là tôi đã quyết:

Phải đấu súng, một trong hai phải chết.


XVIII.

Когда б он знал, какая рана
Моей Татьяны сердце жгла!
Когда бы ведала Татьяна,
Когда бы знать она могла,
Что завтра Ленский и Евгений
Заспорят о могильной сени;
Ах, может быть, ее любовь
Друзей соединила б вновь!
Но этой страсти и случайно
Еще никто не открывал.
Онегин обо всем молчал;
Татьяна изнывала тайно;
Одна бы няня знать могла,
Да недогадлива была.

 

XVIII 

Giá lúc đó chàng lưu tâm biết được 

Tachiana chịu bao thương đau, tủi nhục!

Giá lúc này Tachiana được biết rằng,

Giá cơ may, nàng mà biết rõ ràng 

Hôm sau đó cả Lensky và Evghênhi đã

Tranh một chỗ nằm dưới bùn sâu mà đấu đá;

Thì tình yêu của nàng đã giúp họ hiểu nhau

Trở lại bình thường hệt thuở ban đầu!

Nhưng mê muội này còn nằm trong bí mật 

Không ai nói ra dù tình cờ nhất.

Ônhêghin im lặng giữ thật kín, sâu;

Tachiana âm thầm giấu phiền muộn đáy lòng đau;

U già hoạ chăng là người may hiểu rõ,

Thì chậm chạp, u không đoán được nữa.
 

XIX.

Весь вечер Ленский был рассеян,
То молчалив, то весел вновь;
Но тот, кто музою взлелеян,
Всегда таков: нахмуря бровь,
Садился он за клавикорды
И брал на них одни аккорды,
То, к Ольге взоры устремив,
Шептал: не правда ль? я счастлив.
Но поздно; время ехать. Сжалось
В нем сердце, полное тоской;
Прощаясь с девой молодой,
Оно как будто разрывалось.
Она глядит ему в лицо.
«Что с вами?» — Так.— И на крыльцо.

 

XIX

Cả buổi tối, Lenski như người lơ đãng,

Khi vui vẻ như xưa, khi im lặng;

Nhưng những ai được ưu ái của Nàng Thơ 

Thường tỏ ra như vậy: Lúc chau mày vẩn vơ,

Chàng ngồi thẳng vào đàn giải khuây đôi phút 

Và các ngón tay chọn vài hợp âm nhẹ lướt,

Lúc thì nhìn về phía Ônga, giọng dịu êm,

Nói thì thầm: Có thực anh hạnh phúc không em?

Nhưng đã muộn; đến giờ đi rồi. Sao đau thắt

Tim run rẩy nỗi buồn dâng trong lòng đắng ngắt;

Khi chia tay người bạn gái trẻ trung,

Trái tim chàng tan nát ngàn vạn mảnh con.

Nàng đưa mắt hướng lên chàng nhìn thẳng.

“Anh sao vậy?” - Bình thường. - Rồi bước ra cửa hẳn.


XX.

Домой приехав, пистолеты
Он осмотрел, потом вложил
Опять их в ящик и, раздетый,
При свечке, Шиллера открыл;
Но мысль одна его объемлет;
В нем сердце грустное не дремлет:
С неизъяснимою красой
Он видит Ольгу пред собой.
Владимир книгу закрывает,
Берет перо; его стихи,
Полны любовной чепухи,
Звучат и льются. Их читает
Он вслух, в лирическом жару,
Как Дельвиг пьяный на пиру.

 

XX

Về nhà vội, chàng lôi ra súng lục,

Xem lại kỹ, rồi sau đưa vào bọc

Cất vào ngăn kéo rồi cởi bỏ áo ngoài,

Ánh nến soi, chàng kiếm Shille đọc hoài;

Nhưng tâm trí chàng nấu nung ý nghĩ;

Lòng buồn bã không một giây ngủ kỹ:

Không thể nào tả hết vẻ đẹp của nàng,

Lenski thấy Ônga hiện trước mặt chàng.

Vladimir liền gập trang sách lại,

Chàng cầm bút; Tự nhiên, thơ tuôn mãi

Những dòng thơ thấm đẫm hơi thở tình yêu 

Tự vang lên, cứ thế hiện ra. Chàng đọc theo

Rõ thành tiếng trong cơn đam mê dữ dội,

Hệt Đenvich đang say, ứng tác ngay trong tiệc hội.

XXI

Стихи на случай сохранились,
Я их имею; вот они:
«Куда, куда вы удалились,
Весны моей златые дни?
Что день грядущий мне готовит?
Его мой взор напрасно ловит,
В глубокой мгле таится он.
Нет нужды; прав судьбы закон.
Паду ли я, стрелой пронзенный,
Иль мимо пролетит она,
Всё благо: бдения и сна
Приходит час определенный;
Благословен и день забот,
Благословен и тьмы приход!

 

XXI

Bài thơ ấy, vừa hay còn lưu lại,

Tôi đang giữ, mời bạn xem qua vậy:

“Ơi mùa Xuân tươi đẹp của tôi ơi

Tháng ngày vàng son biến đâu hết mất rồi?

Ngày mai tới đem về tương lai gì vậy 

Tôi căng mắt nhìn mà sao không thấy 

Nó ẩn trong bóng tối dầy đặc đêm sâu 

Chẳng ai cần. Luật đời luôn đúng như nhau 

Tên bắn trúng, tôi gục mau ngã xuống 

Hay đạn trượt qua, không hề nao núng

Gì cũng xong. Giờ phút thanh thản với ngủ yên

Rồi đến tìm ta, như nhất định hiển nhiên;

Ôi hạnh phúc ngày âu lo đã đến, 

Ôi sung sướng giờ đêm đen đã điểm!

 

9-10.mũi tên hay viên đạn là từ tượng trưng chỉ cái chết.


                 

XXII

“Блеснет заутра луч денницы
И заиграет яркий день;
А я, быть может, я гробницы
Сойду в таинственную сень,
И память юного поэта
Поглотит медленная Лета,
Забудет мир меня; но ты
Придешь ли, дева красоты,
Слезу пролить над ранней урной
И думать: он меня любил,
Он мне единой посвятил
Рассвет печальный жизни бурной!..
Сердечный друг, желанный друг,
Приди, приди: я твой супруг!..»

 

XXII 

“Buổi mai sớm, ánh dương soi rực rỡ,

Bầu trời sáng trong, bắt đầu một ngày nữa;

Có lẽ là tôi sẽ bước xuống mồ,

Nơi đất sâu huyền bí đang đón chờ,

Và ký ức về nhà thơ trẻ tuổi 

Sẽ chìm nghỉm dưới dòng Lãng quên trôi nổi,

Thế giới này sẽ quên ta hẳn; nhưng riêng em 

Có đến đây chăng, hỡi cô gái đẹp xinh,

Có nhỏ lệ trên mộ ta khi sáng sớm 

Và có nghĩ: chàng yêu mình nồng thắm,

Chàng đã dâng hiến cho một mình ta

Buổi bình minh đời buồn lắm bão táp phong ba! ..

Ơi người bạn chân tình - ta luôn mong thấy,

Em hãy đến, đến đây, ta là chồng em đấy!..” 

 

XXIII

Так он писал темно и вяло
(Что романтизмом мы зовем,
Хоть романтизма тут нимало
Не вижу я; да что нам в том?)
И наконец перед зарею,
Склонясь усталой головою,
На модном слове 
идеал
Тихонько Ленский задремал;
Но только сонным обаяньем
Он позабылся, уж сосед
В безмолвный входит кабинет
И будит Ленского воззваньем:
«Пора вставать: седьмой уж час.
Онегин, верно, ждет уж нас».

 

XXIII 

Chàng đã viết, giọng thơ buồn, tăm tối 

(Thơ lãng mạn mà ta quen nói tới,

Dù ta xem mãi không thấy lãng mạn đâu.

Thế thì ta còn trách móc làm sao?)

Và sau chót, trước khi trời hửng sáng

Vẻ mặt mệt nhoài, đầu gục xuống, 

Khi dùng từ thời thượng “lý tưởng”, nghe thật kêu

Chàng chìm dần vào giấc ngủ phiêu diêu 

Rồi lơ lửng trong cơn mơ hấp dẫn 

Chàng ngủ thiếp như chìm vào quên lãng hẳn 

Thì lão hàng xóm ùa vào phòng đang lặng thinh

Và bắt đầu gọi đánh thức Lenski 

“Nào hãy dậy: đã bảy giờ rồi đấy.

Giờ chắc hẳn, Ônhêghin chờ ta lâu quá vậy”.


XXIV

Но ошибался он: Евгений
Спал в это время мертвым сном.
Уже редеют ночи тени
И встречен Веспер петухом;
Онегин спит себе глубоко.
Уж солнце катится высоко,
И перелетная метель
Блестит и вьется; но постель
Еще Евгений не покинул,
Еще над ним летает сон.
Вот наконец проснулся он
И полы завеса раздвинул;
Глядит — и видит, что пора
Давно уж ехать со двора.

 

XXIV

Nhưng lão đã nhầm. Evghênhi đang lúc ấy 

Vẫn còn ngủ say sưa như chết vậy.

Trời sáng dần, bóng tối thấy nhạt theo

Ánh sao Mai hiện cùng tiếng gà gáy eo sèo;

Evghênhi mê mệt ngủ như không có gì phải vội.

Mặt trời đã bò lên cao ngang núi,

Bão mùa đông gào rú, lướt ngang qua 

Trời sáng rồi, gió rít; nhưng Evghênhi của ta

Vẫn yên vị trên giường, chưa buồn dậy,

Chàng nằm lặng im, trong cơn mơ sôi động vậy

Và sau cùng, chàng trở dậy, xuống giường luôn,

Chàng đưa tay kéo tấm rèm sang bên;

Đưa ánh mắt nhìn trời, thấy luôn quá rõ,

Đến lúc phải rời nhà, từ lâu rồi đó.

 

XXV

Он поскорей звонит. Вбегает
К нему слуга француз Гильо,
Халат и туфли предлагает
И подает ему белье.
Спешит Онегин одеваться,
Слуге велит приготовляться
С ним вместе ехать и с собой
Взять также ящик боевой.
Готовы санки беговые.
Он сел, на мельницу летит.
Примчались. Он слуге велит
Лепажа[3] стволы роковые
Нести за ним, а лошадям
Отъехать в поле к двум дубкам.

 

XXV

Chàng lắc lắc chuông. Thấy người vội chạy 

Vào phòng là gia nhân Guillôt, người Pháp đấy,

Gia nhân đem áo khoác với giầy đi,

Đưa cả đồ rửa mặt cho Evghênhi.

Chàng vội vã khoác lên người quần áo,

Bắt gia nhân phải chuẩn bị như đã bảo 

Tất mọi điều rồi nhanh chóng theo chàng,

Đặc biệt là hộp vũ khí phải mang,

Xe trượt tuyết phải sẵn sàng để chạy.

Lên xe ngựa, phóng nhanh ra cối xay gió đấy.

Xe tới nơi, chàng sai khiến gia nhân 

Ôm hộp súng mác Lepagiơ định mệnh luôn 

Bám từng bước sau chàng, còn hai con ngựa

Cho buộc đợi bên hai cây sồi nọ.

 

XXVI

Опершись на плотину, Ленский
Давно нетерпеливо ждал;
Меж тем, механик деревенский,
Зарецкий жернов осуждал.
Идет Онегин с извиненьем.
«Но где же,— молвил с изумленьем
Зарецкий,— где ваш секундант?»
В дуэлях классик и педант,
Любил методу он из чувства,
И человека растянуть
Он позволял — не как-нибудь,
Но в строгих правилах искусства,
По всем преданьям старины
(Что похвалить мы в нем должны).

 

XXVI

Vịn vào đập, để tay, Lenski lo lắng 

Đang sốt ruột đợi chờ từ lâu lắm;

Giữa lúc này, ông thợ cơ khí ở quê đây 

Là Daretski chửi đổng cối xay gió, thớt đá quay,

Ônhêghin tiến lại, nói đôi câu xin lỗi.

“Thế ông ấy đâu? - Tiếng Daretski ngạc nhiên hỏi,-

Vậy người làm chứng của anh đâu?”

Ông là người kiểu xưa, kỹ tính, trong đấu súng nhau,

Thích cung cách làm việc theo tình cảm

Và muốn khiến người ta thêm căng thẳng 

Ông cho rằng- không đại khái, qua loa,

Nhưng phải theo nguyên tắc cứng rắn của ông cha,

Thực hiện mọi yêu cầu từ xưa để lại
(Về việc ấy, ta cần khen ông mới phải).


XXVII 

“Мой секундант? — сказал Евгений,—
Вот он: мой друг, monsieur Guillot
Я не предвижу возражений
На представление мое:
Хоть человек он неизвестный,
Но уж конечно малый честный».
Зарецкий губу закусил.
Онегин Ленского спросил:
«Что ж, начинать?» — Начнем, пожалуй,
Сказал Владимир. И пошли
За мельницу. Пока вдали
Зарецкий наш и 
честный малый
Вступили в важный договор,
Враги стоят, потупя взор.

 

XXVII 

“Người làm chứng của tôi ư? -Evghênhi nói-,

Ông ta đấy, thưa ông, là me xừ Guillôt

Tôi nghĩ rằng mình không bị phản đối khi

Còn đang lo giới thiệu người làm chứng phía tôi:

Dù người bình thường thôi, không có tiếng

Nhưng chắc hẳn, nhỏ thôi mà đáng kính”.

Daretski nhè nhẹ cắn nhay môi.

Ônhêghin lên tiếng hỏi Lenski:

“Thế nào nhỉ? Bắt đầu chưa? “- Ta làm nhé,

Vladimir nói. Và họ đi về phía 

Khoảng đất bằng sau cối xay gió ở xa.

Daretski và người nhỏ bé đáng kính kia

Đã cất tiếng bàn dăm ba điều quan trọng,

Hai địch thủ đứng im, mắt nhìn xuống.

 

XXVIII

Враги! Давно ли друг от друга
Их жажда крови отвела?
Давно ль они часы досуга,
Трапезу, мысли и дела
Делили дружно? Ныне злобно,
Врагам наследственным подобно,
Как в страшном, непонятном сне,
Они друг другу в тишине
Готовят гибель хладнокровно…
Не засмеяться ль им, пока
Не обагрилась их рука,
Не разойтиться ль полюбовно?..
Но дико светская вражда
Боится ложного стыда.

 

XXVIII 

Hai địch thủ! Tự khi nào cơn khát máu

Đã xô đẩy hai người về hai đầu thách đấu?

Tự lúc nào những giờ phút vui chung

Tửu hậu, trà dư, suy nghĩ, làm cùng

Đã chấm dứt? Nay thành thù truyền kiếp

Như ác mộng, khó hiểu thay, khủng khiếp,

Họ âm thầm, lẳng lặng , chuẩn bị thêm 

Cho nhau chết, rõ máu lạnh, vô tâm…

Liệu họ có cơ may cùng cười nụ,

Khi chưa kịp nhuốm máu hồng trên tay họ,

Liệu cơ may nào giúp họ chia tay nhau

Lại bình thường, thân thiết, như ngày đầu,

Nhưng thù hận giới thượng lưu là hoang dã 

Sợ xấu hổ, họ mang trong mình bệnh sỹ giả.


 

XXIX

Вот пистолеты уж блеснули,
Гремит о шомпол молоток.
В граненый ствол уходят пули,
И щелкнул в первый раз курок.
Вот порох струйкой сероватой
На полку сыплется. Зубчатый,
Надежно ввинченный кремень
Взведен еще. За ближний пень
Становится Гильо смущенный.
Плащи бросают два врага.
Зарецкий тридцать два шага
Отмерил с точностью отменной,
Друзей развел по крайний след,
И каждый взял свой пистолет.

 

XXIX

Kìa súng đã rút ra trông sáng bóng,

Nghe búa gõ vào que thông nòng nạp thuốc súng.

Đạn đưa vào tận cuối của nòng,

Thử bóp cò bật kêu tạch lần đầu xong,

Bột thuốc súng bay ra trông xam xám

Rơi xuống dưới. Cò được lên chờ bắn 

Đầu đánh lửa hình răng, được cài hẳn một lần.

Đứng khuất sau một gốc cây ở gần

Là gia nhân Guillôt đang còn bối rối.

Hai địch thủ cởi áo khoác vứt ra làm ranh giới.

Daretski đo đúng ba mươi hai bước chân,

Nếu có sai thì chỉ tính bằng phân,

Hai người bạn được đưa về hai vạch đứng,

Từng người một đưa tay cầm lấy súng.

 

2-7.Súng mác Lapagiơ được coi là vũ khí đáng tin trong đấu súng. Thường được bán cặp hai súng một hộp, có kèm linh kiện phụ trợ: nòng thông súng để nạp thuốc súng và đạn, đồ đúc đạn, …. Khi đi đấu súng, từng người đều đem súng riêng. Người làm chứng của hai phía hứa danh dự là súng chưa hề dùng, sau đó bốc thăm chọn súng. Người làm chứng nạp đạn, giao súng cho thân chủ. Nếu loạt bắn đầu không đạt yêu cầu, phải bắn lại, hai đối thủ đổi súng cho nhau.

  Bóp cò lần đầu, chế độ an toàn, không có đạn; Bóp cò lần hai, ở chế độ bắn, cho đạn thật.


XXX

“Теперь сходитесь».
Теперь сходитесьХладнокровно,
Еще не целя, два врага
Походкой твердой, тихо, ровно
Четыре перешли шага,
Четыре смертные ступени.
Свой пистолет тогда Евгений,
Не преставая наступать,
Стал первый тихо подымать.
Вот пять шагов еще ступили,
И Ленский, жмуря левый глаз,
Стал также целить — но как раз
Онегин выстрелил… Пробили
Часы урочные: поэт
Роняет молча пистолет,

 

XXX

“Nào tiến lại! Giờ cả hai cùng bước lại,

Hãy tiến lên. Hai con người máu lạnh

Chưa nhằm vào nhau, hai kẻ tử thù

Vững chân đi, bình thản, bước đều,

Họ đã vượt qua vừa hay bốn bước,

Là bốn bậc trên con đường chết chóc.

Evghênhi đưa tay nâng súng của mình

Chân vẫn đi và chẳng hề dừng,

Là người trước nhất lạnh lùng giương súng,

Chàng đi tiếp thêm năm bước đúng

Còn Lenski mắt trái ngắm nheo nheo 

Cũng bắt đầu ngắm- nhưng vừa đúng lúc sao

Ônhêghin bóp cò, giờ định mệnh ào đến:

Thi sĩ lặng đi, buông súng rơi xuống tuyết,
 

 

XXXI

На грудь кладет тихонько руку
И падает. Туманный взор
Изображает смерть, не муку.
Так медленно по скату гор,
На солнце искрами блистая,
Спадает глыба снеговая.
Мгновенным холодом облит,
Онегин к юноше спешит,
Глядит, зовет его… напрасно:
Его уж нет. Младой певец
Нашел безвременный конец!
Дохнула буря, цвет прекрасный
Увял на утренней заре,
Потух огонь на алтаре!..

 

XXXI

Chàng lặng lẽ đặt tay lên ngang ngực

Và ngã xuống. Mắt tối sầm mờ mịt 

Chứng tỏ chàng chết thật, không phải đau.

Vậy là từ trên dốc núi cao,

Sáng rực rỡ, chan hoà trong ánh nắng,

Một ụ tuyết to vừa trượt xuôi đổ thẳng,

Thấy trong người lạnh toát bất ngờ,

Ônhêghin bước vội lại gần nhà thơ,

Nhìn rồi gọi, đều lặng tờ: không còn thở.

Chàng đã chết! Ôi nhà thơ tuổi nhỏ

Đã tìm cho mình cái kết để muôn đời!

Bão đã tan, tài sắc một đời người 

Đã tàn úa khi bình minh vừa hé rạng,

Lửa đã tắt trên bàn thờ, không còn sáng!..


 

XXXII

Недвижим он лежал, и странен
Был томный мир его чела.
Под грудь он был навылет ранен;
Дымясь, из раны кровь текла.
Тому назад одно мгновенье
В сем сердце билось вдохновенье,
Вражда, надежда и любовь,
Играла жизнь, кипела кровь:
Теперь, как в доме опустелом,
Всё в нем и тихо и темно;
Замолкло навсегда оно.
Закрыты ставни, окна мелом
Забелены. Хозяйки нет.
А где, бог весть. Пропал и след.


XXXII

Chàng nằm đó, im lìm, trông là lạ,

Trán in rõ cuộc đời  này mệt quá.

Ngực bị xuyên đạn bắn thủng, lộ vết thương;

Máu chảy ra như hơi khói bốc lên.

Chỉ cách đó ít giây trái tim chàng còn đập,

Đầy hy vọng, tình yêu và thù hận,

Cuộc sống còn sôi sục, máu nóng cuồn cuộn trôi:

Giờ đây như ngôi nhà vắng, bặt tiếng người,

Tất mọi thứ trong chàng im lìm, tăm tối;

Mọi vật được phủ che đi kín lối.

Cửa khép rồi, cánh cửa sổ im lìm

Dấu niêm phong gắn khắp cùng lặng im.

Cửa bịt chặt, chủ nhà đi vắng hết.

Có trời biết, đi đâu. Sạch bong không dấu vết.

 

Vài con số bạn nên biết thêm: Lenski bị bắn chết trong đấu súng khi 18 tuổi; Evghênhi tham gia đấu súng lúc 26 tuổi. Ônga 16 tuổi, khi Evghênhi và Lenski đấu súng.  Tachiana 17 tuổi. (Theo Yu. M. Lotman)

XXXIII

Приятно дерзкой эпиграммой
Взбесить оплошного врага;
Приятно зреть, как он, упрямо
Склонив бодливые рога,
Невольно в зеркало глядится
И узнавать себя стыдится;
Приятней, если он, друзья,
Завоет сдуру: это я!
Еще приятнее в молчанье
Ему готовить честный гроб
И тихо целить в бледный лоб
На благородном расстоянье;
Но отослать его к отцам
Едва ль приятно будет вам.

 

XXXIII

Thật thú vị khi bài thơ hài táo tợn

Làm nổi đóa kẻ thù mang tội lớn;

Thật là hay khi được thấy hắn ta mau

Hạ thấp đôi sừng hăng máu húc nhau,

Chợt bỗng chốc tự soi mình vào gương ngắm

Và xấu hổ nhận ra bản thân hắn;

Thú vị hơn, nếu hắn, thưa bạn ơi

Gào rú lên vì ngốc: đây là tôi!

Thú hơn nữa trong khi đang im ắng,
Đem tặng hắn chiếc áo quan sáu tấm,
Và im lìm nhằm súng thẳng vầng trán hèn

Ở khoảng xa khi họng súng vừa tầm;

Nhưng giờ có cho hắn đi về cùng cụ kị,

Thì có chắc, bạn coi còn thú vị.

 

XXXIV

Что ж, если вашим пистолетом
Сражен приятель молодой,
Нескромным взглядом, иль ответом,
Или безделицей иной
Вас оскорбивший за бутылкой,
Иль даже сам в досаде пылкой
Вас гордо вызвавший на бой,
Скажите: вашею душой
Какое чувство овладеет,
Когда недвижим, на земле
Пред вами с смертью на челе,
Он постепенно костенеет,
Когда он глух и молчалив
На ваш отчаянный призыв?

 

XXXIV

Giả sử súng của anh đang có đạn

Rồi nhằm bắn làm chết ngay người bạn,

Hay là vì họ nhìn khiếm nhã, tại trả lời,

Hay chỉ vì lý do đất hỡi trời ơi,

Sỉ nhục bạn khi đang ngồi nhắm rượu,

Hay thậm chí trong cơn điên hậm hực

Họ vênh vao thách đấu với ta ngay,

Bạn nói xem: bạn nghĩ thế nào đây,

Cảm xúc kiểu gì ngự trị trong ta là thật,

Khi người chết nằm im trên mặt đất,

Trước mắt ta, họ mới mất vừa xong,

Tấm xác thân mai mốt ắt hóa xương,

Khi cái xác biến thành câm điếc đặc,

Dù bạn gọi, xác người càng câm bặt?

        
      

XXXV

В тоске сердечных угрызений,
Рукою стиснув пистолет,
Глядит на Ленского Евгений.
«Ну, что ж? убит»,— решил сосед.
Убит!.. Сим страшным восклицаньем
Сражен, Онегин с содроганьем
Отходит и людей зовет.
Зарецкий бережно кладет
На сани труп оледенелый;
Домой везет он страшный клад.
Почуя мертвого, храпят
И бьются кони, пеной белой
Стальные мочат удила,
И полетели как стрела.

 

XXXV

Lòng đau khổ, trái tim đang dằn vặt,

Cầm khẩu súng, ngón tay chàng siết chặt,

Evghênhi đứng lặng nhìn Lenski.

“Thôi xong, chết rồi”- Chàng nói giọng tự tin

Đã chết thật! Mồm kêu lên hốt hoảng,

Chàng sốc nặng, Dậy trong lòng thương cảm,

Chàng đi lùi, cất tiếng gọi mọi người.

Daretski nhẹ nhàng bế xốc lên và đưa rồi 

Gọn thi thể Lenski đã lạnh tanh vào xe ngựa,

Lão ta chở đi vật báu-là hàng đáng sợ

Thấy hơi mùi người chết, ngựa khịt khịt mũi ngay,

Bị quất roi, quanh mép bọt phủ trắng đầy 

Làm ướt hết chiếc hàm thép vây mép ngựa,

Và xe phóng nhanh như tên, bị ma dọa.

 

7.Có nhà nghiên cứu chuyên về “Evghênhi  Ônhêghin” đã nhận xét vai trò của Daretski trong kết cục bi thảm vụ đấu súng như sau: Daretski chấp nhận me xừ Guillôt với tư cách người làm chứng cho Evghênhi là tự nhận việc sỉ nhục của Evghênhi với ông ta, theo quy định không thành văn, thì hai người làm chứng phải” bằng vai “nhau, nhưng Guilôt chỉ là người hầu làm thuê cho Evghênhi mà thôi; Daretski không tiến hành hoà giải hai người đấu súng; Daretski không mời Guilôt bàn về điều khoản đấu súng một ngày trước đó, mà làm sát giờ đấu súng; khi Evghênhi đến muộn gần hai tiếng, đáng ra Daretski phải cho dừng đấu súng, làm biên bản hủy đấu súng, vì một bên đến quá muộn, thông thường một bên đến muộn nửa tiếng là đã có thể hủy đấu súng được rồi. Vậy, Daretski có một phần trách nhiệm trong cái chết của Lenski.

10.Theo V.Nabôkôp, có lẽ là lỗi chính tả. Đúng ra phải là: кладь- hãy đặt xuống, hãy để xuống!


XXXVI 

Друзья мои, вам жаль поэта:
Во цвете радостных надежд,
Их не свершив еще для света,
Чуть из младенческих одежд,
Увял! Где жаркое волненье,
Где благородное стремленье
И чувств и мыслей молодых,
Высоких, нежных, удалых?
Где бурные любви желанья,
И жажда знаний и труда,
И страх порока и стыда,
И вы, заветные мечтанья,
Вы, призрак жизни неземной,
Вы, сны поэзии святой!

 

XXXVI

Ơi các bạn của tôi, có buồn thương thi sĩ:

Đang độ tuổi mộng mơ, niềm vui, ý trí,

Nhà thơ chưa kịp làm gì giúp ích cho đời,

Vừa mới thay trang phục trẻ thơ thôi,

Đã tàn úa! Thế là hết nóng lòng, xúc động 

Hết mơ ước, chờ mong, khát vọng?

Hết tâm tư, suy nghĩ trẻ trung 

Vừa dịu dàng, táo bạo, cao sang 

Hết ước vọng, tình yêu bao mãnh liệt,

Hết khao khát học hành và làm việc,

Hết sợ lo xấu hổ và mắc lỗi sai,

Và bạn ơi, các mơ ước lặng lẽ ơi,

Chính các bạn là ảo ảnh cuộc đời phi trần thế,

Chính các bạn là ước mơ thi vị thiêng liêng nhé!

 

XXXVII 

Быть может, он для блага мира
Иль хоть для славы был рожден;
Его умолкнувшая лира
Гремучий, непрерывный звон
В веках поднять могла. Поэта,
Быть может, на ступенях света
Ждала высокая ступень.
Его страдальческая тень,
Быть может, унесла с собою
Святую тайну, и для нас
Погиб животворящий глас,
И за могильною чертою
К ней не домчится гимн времен,
Благословение племен.

 

XXXVII

Chàng có thể ra đời để điểm trang thế giới 

Hay để hưởng tiếng tăm, vinh quang sáng chói;

Nàng thơ chàng đã im mất tiếng rồi

Tiếng thơ chàng như chuông ngân mãi không thôi 

Còn vang vọng muôn đời. Rồi có thể 

 Cuộc đời lắm thang bậc dành cho thi sĩ

Và cho chàng một nấc thang cao vời.

Nhưng bóng đen đau khổ chực chờ người,

Có thể sẽ đưa chàng rời xa mãi đấy 

Mang cả bí mật thiêng liêng và ta chỉ thấy 

Chàng chết đi là tiếng nói giầu sức sống tràn trề 

Sẽ mất theo, chôn chặt dưới đáy mồ

Không còn được nghe bài ca thời đại,

Không có dịp nhận lời nguyện cầu từ nhân loại.

 

 

XXXVIII.   XXXIX. 

А может быть и то: поэта
Обыкновенный ждал удел.
Прошли бы юношества лета:
В нем пыл души бы охладел.
Во многом он бы изменился,
Расстался б с музами, женился,
В деревне счастлив и рогат
Носил бы стеганый халат;
Узнал бы жизнь на самом деле,
Подагру б в сорок лет имел,
Пил, ел, скучал, толстел, хирел,
И наконец в своей постеле
Скончался б посреди детей,
Плаксивых баб и лекарей.

 

XXXVIII.   XXXIX

Nhưng có thể đời chàng, nhà thơ thật 

Sẽ mang số phận bình thường nhất.

Tháng năm thơ ấu sẽ lặng lẽ trôi qua:

Con tim chàng nhiệt tình rồi lạnh giá, phôi pha,

Chàng cũng trải qua biết bao thay đổi,

Chia tay với nhạc, thơ rồi lấy vợ vội,

Sống ở làng thật hạnh phúc, đợi mọc sừng 

Rét mùa đông mặc áo bông độn dầy lưng;

Sẽ thấu hiểu cuộc đời như vốn có

Bốn mươi tuổi, bệnh đau xương nhăn nhó,

Rồi uống, ăn, buồn, phát béo, nhẽo ra

Và cuối cùng, nằm thẳng cẳng trên giường nhà,

Chàng sẽ chết giữa quây quần con cái,

Phụ nữ khóc nỉ non và thầy lang chữa mãi.

XL

Но что бы ни было, читатель,
Увы, любовник молодой,
Поэт, задумчивый мечтатель,
Убит приятельской рукой!
Есть место: влево от селенья,
Где жил питомец вдохновенья,
Две сосны корнями срослись;
Под ними струйки извились
Ручья соседственной долины.
Там пахарь любит отдыхать,
И жницы в волны погружать
Приходят звонкие кувшины;
Там у ручья в тени густой
Поставлен памятник простой.

XL

Nhưng dù có thế nào, người đọc hỡi,

Than ôi, chàng người yêu trẻ tuổi,

Một nhà thơ, hay mơ mộng đăm chiêu 

Đã chết rồi bởi tay bạn thân yêu!

Có một chỗ gần làng: nhìn sang phía trái,

Nơi nuôi dưỡng tinh thần nhiều hứng khởi mãi,

Hai cây thông rễ mọc chằng chịt nhau;

Ngay ở bên là nguồn nước chảy mau

Những dòng suối chạy qua thảo nguyên bên cạnh.

Ở đó thợ cầy thích nghỉ ngơi yên lặng,

Thợ gặt đàn bà có bình rỗng mang theo

Vục bình sâu lấy nước làm sóng vỗ lao xao;

Ngay bên suối dưới bóng râm dày đặc

Tấm bia mộ trông bình thường được đặt.

 

13-14.Mộ chàng không được để trong nghĩa trang của làng, cùng với những người khác chết do già yếu, bệnh tật bình thường, việc chàng chết bị coi như người tự vẫn nên phải đặt mộ ở chỗ riêng, biệt lập.


 

XLI 

Под ним (как начинает капать
Весенний дождь на злак полей)
Пастух, плетя свой пестрый лапоть,
Поет про волжских рыбарей;
И горожанка молодая,
В деревне лето провождая,
Когда стремглав верхом она
Несется по полям одна,
Коня пред ним остановляет,
Ремянный повод натянув,
И, флер от шляпы отвернув,
Глазами беглыми читает
Простую надпись — и слеза
Туманит нежные глаза.

 

XLI

Cạnh nơi ấy,(Trời bắt đầu mưa đều hạt,

Mưa xuân tí tách rơi trên đồng lúa mạch)

Người chăn gia súc kì cạch đan giầy đi xa,

Hát bài ca người đánh cá trên sông Volga;

Có cô gái trẻ là người thành phố

Đã sống một mùa đông ở làng đó,

Khi nàng phi vó ngựa đi ngang,

Mình nàng qua cánh đồng rộng mênh mang 

Đã dừng ngựa khi nhận ra nấm mộ

Dây cương siết căng nhằm hãm ngựa,

Và vén cao dải khăn che quanh mũ đội đầu,

Đưa mắt nhanh chớp nhoáng đọc mau

Dòng chữ khắc giản đơn và lệ chảy 

Làm mờ mịt đôi mắt hiền biết mấy.


 

XLII 

И шагом едет в чистом поле,
В мечтанья погрузясь, она;
Душа в ней долго поневоле
Судьбою Ленского полна;
И мыслит: «Что-то с Ольгой стало?
В ней сердце долго ли страдало,
Иль скоро слез прошла пора?
И где теперь ее сестра?
И где ж беглец людей и света,
Красавиц модных модный враг,
Где этот пасмурный чудак,
Убийца юного поэта?»
Со временем отчет я вам
Подробно обо всем отдам,

 

XLII

Ngựa chậm bước trên đồng không còn lúa,

Nàng chìm đắm sâu vào tâm tư quá;

Đầu óc nàng bận bịu nghĩ ngợi về

Số phận Lenski sao lại thật ê chề;

Và cứ nghĩ: “Rồi có chuyện gì với Ônga nhỉ?

Tim cô có buồn đau lâu dài không nghỉ 

Hay ngày buồn đẫm lệ vút qua mau?

Và giờ người chị gái đang ở đâu?

Biến đâu kẻ lẩn tránh người đời và thế giới

Kẻ thù thật của bao nhiêu cô gái,

Cái người kỳ quặc, buồn chán, giờ đâu rồi,

Kẻ giết oan nhà thơ trẻ tuổi đời?”

Rồi có lúc, tới ngày tôi kể hết 

Mọi chi tiết chuyện này mà tôi biết,


XLIII 

Но не теперь. Хоть я сердечно
Люблю героя моего,
Хоть возвращусь к нему, конечно,
Но мне теперь не до него.
Лета к суровой прозе клонят,
Лета шалунью рифму гонят,
И я — со вздохом признаюсь —
За ней ленивей волочусь.
Перу старинной нет охоты
Марать летучие листы;
Другие, хладные мечты,
Другие, строгие заботы
И в шуме света и в тиши
Тревожат сон моей души.

 

XLIII 

Nhưng không phải bây giờ. Dù tôi còn lưu luyến

Yêu nhân vật của tôi luôn đáng mến,

Dù tôi quay về chuyện người ấy, tất nhiên,

Nhưng lúc này tôi chưa muốn xới lên,

Tuổi tác dẫn ta vào văn xuôi nghiêm túc,

Năm tháng chạy theo vần thơ quái ác,

Còn tôi đành thú thật, thở dài luôn,

Tôi gian nan theo đuổi thơ, nhác lười hơn.

Không còn muốn đi con đường viết cổ

Chỉ bôi chữ bẩn hết trang này trang nọ;

Nhiều ước mơ khác thật lạnh lùng,

Nhiều quan tâm khác, nghiêm túc vô cùng,

Ngay trong cuộc đời xô bồ và tĩnh lặng

Vẫn quấy động giấc mơ hồn tôi sâu đậm.


 

XLIV 

Познал я глас иных желаний,
Познал я новую печаль;
Для первых нет мне упований,
А старой мне печали жаль.
Мечты, мечты! где ваша сладость?
Где, вечная к ней рифма, 
младость?
Ужель и вправду наконец
Увял, увял ее венец?
Ужель и впрямь и в самом деле
Без элегических затей
Весна моих промчалась дней
(Что я шутя твердил доселе)?
И ей ужель возврата нет?
Ужель мне скоро тридцать лет?

 

XLIV

Tôi hiểu ra mình còn nhiều mong ước khác,

Tôi nhận ra buồn phiền mới làm tôi day dứt;

Chuyện ước mơ, tôi chẳng khao khát gì hơn,

Tôi tiếc thương nỗi phiền muộn của độ xưa luôn.

Ổi mơ ước, ước mơ! còn đâu  vị ngọt ?

Còn đâu tứ thơ muôn đời, thanh xuân đẹp thật ?

Không lẽ nào là sự thật cuối cùng 

Tuổi trẻ rồi cũng tàn úa, héo mòn

Không có lẽ nói thẳng ra và luôn đúng

Không bóng dáng buồn rầu, không đau đớn

Mùa xuân đời tôi năm tháng đã vút trôi 

(Là điều tôi dặn mình nhớ, dù vẫn đùa vui)?

Không có lẽ thanh xuân bất thái lai hẳn? 

Không có lẽ, tôi sắp ba mươi chẵn?


 

XLV 

Так, полдень мой настал, и нужно
Мне в том сознаться, вижу я.
Но так и быть: простимся дружно,
О юность легкая моя!
Благодарю за наслажденья,
За грусть, за милые мученья,
За шум, за бури, за пиры,
За все, за все твои дары;
Благодарю тебя. Тобою,
Среди тревог и в тишине,
Я насладился… и вполне;
Довольно! С ясною душою
Пускаюсь ныне в новый путь
От жизни прошлой отдохнуть.[* 3]

 

XLV

Vậy là cuộc đời tôi đã qua một nửa,

Phải thừa nhận điều này, tôi nhìn thấy cả.

Nhưng đời là vậy: Ta nhẹ nhõm chia tay

Ơi tuổi xuân dễ chịu của tôi này!

Cám ơn nhé về bao niềm vui sướng,

Bao buồn bực, đớn đau, đáng yêu lắm ,

Sự ồn ảo, bão táp với tiệc vui,

Về mọi điều, về mọi quà tặng của đời;

Cám ơn bạn. Giữa một trời lo lắng 

Và không khí bình yên tĩnh lặng,

Tôi tận hưởng… và cảm nhận đủ đầy;

Thôi đủ rồi! Với tâm hồn sáng trong này

Giờ tôi bước lên ngay con đường mới,

Nghỉ đôi chút, sau quãng đời vừa đi khỏi.

 

XLVI 

Дай оглянусь. Простите ж, сени,

 Где дни мои текли в глуши,
Исполнены страстей и лени
И снов задумчивой души.
А ты, младое вдохновенье,
Волнуй мое воображенье,
Дремоту сердца оживляй,
В мой угол чаще прилетай,
Не дай остыть душе поэта,
Ожесточиться, очерстветь
И наконец окаменеть
В мертвящем упоенье света,
В сем омуте, где с вами я
Купаюсь, милые друзья![4]

 

XLVI

Nào nhìn lại. Căn phòng ơi, tha lỗi nhé,

Nơi ngày tháng đời tôi qua lặng lẽ,

Đầy say mê và thêm cả biếng lười 

Bao giấc mơ trong hồn đầy ắp tâm tư rồi.

Còn bạn, niềm hứng khởi trẻ yêu đời, mạnh mẽ

Hãy lay động trí tưởng tượng trong tôi nhé 

Hãy thức con tim vẫn ngủ mê,

Hãy thường xuyên thăm viếng chúng tôi nghe,

Xin đừng để tâm hồn nhà thơ ra băng giá,

Sống tàn khốc, nhẫn tâm, chai sạn quá

Và sau cùng, trở thành gỗ đá thôi

Cuộc đời này đầy quyến rũ chết người,

Trong vực thẳm là nơi tôi và bạn,

Bạn thân mến, ta đang cùng ngụp lặn!

 

1. Cuối dòng 1 có thể dùng 1 trong 2 cách:
                        tha lỗi nhé, xin chào nhé ( người dịch).

 

Puskin viết chương sáu năm 1826, cùng thời gian có vụ án các nhà cách mạng tháng Chạp đã kết thúc. Nhiều nhà lãnh đạo, khởi xướng, người tham gia cuộc khởi nghĩa đã bị bắt, ra toà và nhận án tù đầy, có người bị xử tử. Không khí xã hội trầm lắng, nặng nề được phản ánh qua âm điệu trầm buồn, bi thảm cả chương này. 

 

Vấn đề bản chất và tương lai dòng văn cổ điển chuyển từ cuộc luận chiến văn học sang lĩnh vực suy ngẫm về bản chất lịch sử, chính trị, và đạo đức của dòng văn này.

 

CHÚ THÍCH

Chương Sáu

 

Lời đề từ 

 

La sotto i giorni nubilosi e brevi,
Nasce una gente a cui l’morir non dole.

Petr.[* 1]

 

Ở nơi, bầu trời phủ đầy mây mù và ngày quá ngắn, sẽ ra đời một bộ tộc (dân tộc), khi phải chết, họ không thấy đau đớn.
Petra.
Trích của Francesco Petrarca (1304-1374) nhà thơ Ý. Từ khổ XXVIII tác phẩm “Kể về mađôna Laura”

Lời đề từ này thiếu một câu ở giữa: “có kẻ thù bẩm sinh của thế giới “, đây là nguyên nhân không sợ chết, nằm trong tính tàn khốc bẩm sinh của bộ tộc này. Do bỏ dòng giữa này, người ta có thể giải thích việc bộ tộc không sợ chết với lý do khác: là do tâm trạng vỡ mộng, chán đời, thấy sống và không sống cũng như nhau, tâm hồn già cỗi trước tuổi…

(Chuyện ngoài lề: nhiều người Nga coi những lời trên là sấm trạng tiên đoán về số phận, có thể là của nước Nga.

“Tâm thế ác cảm Nga” có lẽ đã có từ lâu trong một số giới ở Châu Âu. ( xem: Nga du ký của Epghênhi, khổ III:

(…)

Với châu Âu - chàng sục sôi căm ghét

Cái chính sách của châu Âu tàn khốc,

Luôn gây ra muôn bê bối linh tinh..

(…)

Một số tác giả châu Âu vin vào lời sấm nói trên và cho rằng người thuộc bộ tộc này coi sống và không sống không khác nhau, nên không tiếc mạng sống của mình, các tác giải loại như thế đã dùng lời sấm trên giải thích cho nhiều sự kiện thuộc các lĩnh vực của Nga với thái độ thiếu thiện chí rõ ràng.

Thí dụ:

-Có tác giả phương Tây nhận xét các cuộc đấu súng ở Nga là tàn khốc quá và gọi đó là các “vụ giết người  được hợp pháp hóa”. Ở châu Âu, thường bắn súng trong khoảng cách 25-35 bước, ở Nga chỉ là 15-20 bước chân. Người châu Âu khi đấu súng thường cả hai cùng bắn trượt là đã xong cuộc đấu súng, còn danh dự của cả hai coi như đã được khôi phục. Ở Nga, hai đối thủ thường chấp nhận điều kiện bắn nhau đến kết quả cuối cùng nghĩa là phải có người chết.

-Đầu thế kỷ XX, khi tư tưởng cách mạng nảy sinh và lan ra một số nước châu Âu, có chính khách Tây Âu đã sửa câu này theo ý khác, đại ý là: Cứ để cách mạng diễn ra ở nước nào, mà khi mất nước ấy, châu Âu không thấy tiếc là được.

-Một vài tác giả châu Âu giải thích nguyên nhân vì sao người Nga đã thắng nhiều cuộc đối đầu của châu Âu chống lại Nga trong suốt mấy trăm năm qua: từ Napoleon, đến Hitle thời đại chiến thứ hai, (…) cũng vận dụng lời sấm này, nhưng diễn đạt theo cách bóp méo lịch sử và hạ thấp tính cách Nga , kiểu như: Nga luôn thắng trận vì các tướng lĩnh Nga quen chiến thuật “biển người “, sẵn sàng hy sinh lính một cách không thương tiếc, còn lính Nga quen cúc cung theo lệnh chỉ huy, không biết quý mạng sống của mình…)

                                                   
                                             💕💚💖


 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.