Lời Nói Đầu
Tình cờ đọc được bài thơ tiếng Anh trên Facebook nói về Thằng Cu Tý của đàn ông lúc về già. Bài thơ được viết bởi Willie Nelson năm ông 75 tuổi. Cái tựa The Penis Poem nếu dịch sát nghĩa sang tiếng Việt thì không được thanh tao lắm nhưng ngôn ngữ thơ thì rất dí dỏm, có vài thi ảnh độc đáo, có khả năng “thọt léc” người đọc rất mạnh.
Tôi vào Google tra cứu thì thấy có đến trên 50 trang Web đăng tải tác phẩm này với những lời giới thiệu và nhận xét ưu ái. Sự quan tâm của đông đảo độc giả đã thúc đẩy tôi đọc kỹ lại bài thơ và viết vài dòng goi là góp mặt với vườn thơ rộng lớn của nhân loại.
Hơn nữa, chính tôi mấy năm trước cũng có viết một bài “tự thú” tương tự nên nhân tiện vừa đưa ra vài nhận xét thi pháp cho bài thơ mới đọc vừa khoe bài thơ của mình với độc giả. Hy vọng “mua vui cũng được một vài trông canh”
The Penis Poem
Poem by Willie Nelson – (When he was 75)
My nookie days are over 7
My pilot light is out 6
What used to be my sex appeal 8
Is now my water spout 6
Time was when, on its own accord 8
From my trousers it would spring 7
But now I've got a full-time job 8
To find the fuckin’ thing 6
It used to be embarrassing 8
The way it would behave 6
For every single morning 8
It would stand and watch me shave 7
Now as old age approaches 7
It sure gives me the blues 6
To see it hang its little head 8
And watch me tie my shoes! 6
Chú thích:
Đây là bài thơ tiếng Anh, chữ có thể “đa âm tiết”, nên ở cuối mỗi câu tôi có một con số để chỉ số âm tiết của câu đó.
Tôi cũng sử dụng chút “màu xanh đỏ” để làm rõ nét cách gieo vần của tác giả.
https://www.staths.com/poem-by-willie-nelson-when-he-was-75/
Tự dịch thoát
Bài Thơ Về Thằng Cu Tý
(Thơ của Willie Nelson, viết năm 75 tuổi)
Những ngày “anh lính trẻ” của tôi đã qua
đèn hoa tiêu đã tắt
cái từng rất khêu gợi dục tình của tôi
giờ chỉ là vòi nước
Có lúc, theo động lực tự nhiên của thời gian
từ trong quần tôi nó tự bật lên
nhưng bây giờ phải mò mẫm cả buổi
để tìm cái thằng chết tiệt đó
Nó thường hành xử
một cách đáng xấu hổ
khi sáng nào cũng vậy
cứ đứng nghiêm nhìn tôi cạo râu
Giờ đây khi tuổi già đã đến
chắc tôi sẽ buồn
nhìn cái đầu bé con của nó treo lòng thòng
xem tôi (cúi xuống) buộc dây giày.
Nhận Xét Về Kỹ Thuật Thơ (Thi Pháp)
Tứ Thơ: Nỗi buồn đậm nét khôi hài của thi sĩ khi nhận thấy sự biến đổi của Thằng Cu Tý lúc về già.
Tứ thơ như thế chỉ là chuyện thường tình, xưa như trái đất, nhưng cách tiếp cận, diễn đạt tứ thơ - đặc biệt là thi ảnh – thì lại rất độc đáo, khôi hài.
Tựa Đề: “The Penis Poem” không được “đẹp” lắm. Nếu dịch sát nghĩa sẽ hơi tục nên tôi phải tạm dịch là “Bài Thơ Về Thằng Cu Tý”.
Thể Thơ: Thơ Mới phân mảnh đứt đoạn, 4 đoạn, mỗi đoạn 4 câu.
Dòng Chảy Của Tứ Thơ: Vì phân mảnh đứt đoạn nên tứ thơ không có dòng chảy. Bài thơ chỉ là 4 “hố thơ” riêng biệt, không nối kết với nhau.
Câu Cú, Ngôn Ngữ: Câu cú chắc gọn; ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, rất khôi hài
Thi Ảnh: Tuyệt vời
a/
What used to be my sex appeal
Is now my water spout
cái từng rất khêu gợi dục tình của tôi
giờ chỉ là vòi nước
b/
But now I've got a full-time job
To find the fuckin’ thing
nhưng bây giờ tôi phải mò mẫm cả buổi (làm việc toàn thời gian)
để tìm cái thằng chết tiệt đó!
c/
For every single morning
It would stand and watch me shave
khi sáng nào cũng vậy
cứ đứng nghiêm nhìn tôi cạo râu
d/
To see it hang its little head
And watch me tie my shoes!
nhìn cái đầu bé con của nó treo lòng thòng
xem tôi (cúi xuống) buộc dây giày.
Bố Cục:
Đoạn 1: Thời vàng son của Thằng Cu Tý đã qua.
Đoạn 2:
Hai câu đầu: Lúc còn phong độ
Hai câu sau: Khi đã “hết pin”
Đoạn 3: Lúc còn son trẻ
Đoạn 4: Lúc về già
Thế trận chữ nghĩa mạch lạc, độc giả dễ “bắt”, nhưng dàn trải tứ thơ như thế hơi bị trùng lặp.
Kết Luận:
Cảnh tượng:
“nhìn cái đầu bé con của nó treo lòng thòng
xem tôi (cúi xuống) buộc dây giầy”
mặc dù rất ấn tượng cũng chỉ là một trong 4 hình ảnh tội nghiệp, đáng thương của Thằng Cu Tý lúc tác giả về già. Kết luận như thế thiếu tính tổng hợp, bao quát.
Một điểm không hợp lý nữa ở đây là khi buộc dây giầy, đã mặc quần áo rồi, thì làm sao “nhìn cái đầu bé con của nó treo lòng thòng” được?
Vần: Cước vận gián cách 2/4, đoạn 3 có thêm 1/3
Nhàm Chán Vần: Vần đủ độ ngọt nhưng không gây cảm giác ầu ơ, nhàm chán.
Số Âm Tiết Trong Câu: Thay đổi với biên độ hẹp (từ 6 đến 8)
Nhịp Điệu: Không đơn điệu, nhờ số âm tiết trong câu thay đổi.
Dòng Âm Điệu: Do phân mảnh đứt đoạn nên không có dòng âm điệu.
Độ Dài Của Bài Thơ: Bài thơ thuộc loại ngắn, có 112 âm tiết
Tâm Thế Của Thi Sĩ:
a/ Đối với tứ thơ: Hãnh diện nhắc lại thời “anh lính trẻ” bằng một giọng khôi hài, không tiếc nuối, đã vui vẻ chấp nhận cái thực trạng của tuổi già về phương diện sinh lý của mình. Tâm thế có thể nói là “bình lặng”.
b/ Đối với hình thức thơ: Tay vẫn còn bị trói trong quy luật của Thơ Mới. Có nhúc nhích để phá lệ chút ít về số âm tiết trong câu nhưng dây trói vẫn còn khá chặt.
Cao Trào (điểm nhấn của tứ thơ): Bài thơ không có điểm nhấn, không có cao trào.
Dòng Cảm Xúc: Không có dòng cảm xúc, 4 đoạn là 4 hố thơ, cảm xúc của hố nào nằm im ở hố đó.
Cảm Xúc Tầng 1 (đến từ câu chữ, bóng gió - đặc biệt là thi ảnh): Chất khôi hài từ những thi ảnh tuyệt vời tạo khoái cảm rất manh, độc giả vừa đọc, vừa cười thầm suốt cả 4 đoạn. Đây là điểm nổi bật của bài thơ.
Cảm Xúc Tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận chữ nghĩa): Khá mạnh.
Cảm xúc tầng 3 (đến từ tâm thế cao hứng): Không có, vì tác giả làm thơ lúc tỉnh táo, tâm “bình lặng”. Hơn nữa, bài thơ lại ngắn, tứ thơ phân mảnh đứt đoạn, không có dòng chảy, không tạo được cao trào.
Kết Luận Chung Cuộc:
Nhận xét Thi Pháp (kỹ thuật thơ) chú trọng kỹ thuật nên tính khách quan rất rõ nét. Nhưng khi dựa vào những nhận xét kỹ thuật đó để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ thì người thưởng thức thơ sành điệu hoặc người bình thơ sẽ đưa cái chủ quan của mình vào – coi trọng “phương tiện thẩm mỹ” này, coi nhẹ “phương tiện thẩm mỹ” kia. “Cái chủ quan” đó sẽ dẫn đến việc đánh giá mức độ Hay, Dở của bài thơ khác nhau.
Đây là cách thưởng thức thơ, bình thơ bài bản, tiếp cận bài thơ toàn diện.
Nếu là bài bình thơ tôi sẽ dùng “cái chủ quan” của mình nhào nắn, tổng hợp những “phương tiện thẩm mỹ” ở phần nhận xét thi pháp để đưa ra quyết định về giá trị nghệ thuật, nói nôm na là cho điểm bài thơ. “Điểm số” (bằng lời) trao tặng bài thơ chỉ có từ 5 đến 10% là từ “cái chủ quan” khi tổng hợp, còn 90 đến 95% là từ những nhận xét thi pháp mang tính kỹ thuật hiển hiện rất rõ ràng trên văn bản của bài thơ.
Nhưng ở đây, trong khung cảnh một bài Nhận Xét Thi Pháp, kết luận chung cuộc tôi xin để tùy độc giả thẩm định.
Tiếp theo là bài thơ À Ra Thế của tôi cũng viết về Thằng Cu Tý lúc tuổi già.
À RA THẾ
Mấy đứa con tưởng tôi hà tiện 7
sợ tốn điện, hao tiền 5
thật ra không phải vậy 5
Thuở ấy 2
bụng tôi rất săn 4
chỉ hơi lên gân 4
sáu cục nổi lên cuồn cuộn 6
phía dưới bụng 3
Thằng Cu Tý hùng dũng hiên ngang 7
tư thế sẵn sàng chiến đấu 6
Tắm xong đứng trước gương 5
càng nhìn càng thấy thuơng 5
cành nhìn càng hãnh diện 5
Bẵng đi mấy chục năm 5
một hôm đang tắm chợt nhìn lại mình 8
bụng không còn sáu cục 5
mà phình ra cao hơn ngực 6
phía dưới bụng 3
Thằng Cu Tý gầy yếu, xanh xao 7
gục đầu ủ rũ 4
càng nhìn càng thấy buồn 5
càng nhìn càng tủi hổ 5
Từ đó 2
tôi có thói quen 4
tắm đêm, không mở đèn 5
Nhận Xét Thi Pháp
Bố Cục:
À Ra Thế được chia làm 3 đoạn:
1/
“Mấy đứa con tưởng tôi hà tiện
sợ tốn điện, hao tiền
thật ra không phải vậy”
Bóng gió nói đến cách hành xử “kỳ cục” khiến mấy đứa con tưởng là hà tiện.
2/
“Thuở ấy” … gục đầu ủ rũ”
Trạng thái của Thằng Cu Tý ở 2 giai đoạn của cuộc đời: a/ hùng dũng hiên ngang và b/ gục đầu ủ rũ.
3/
“Từ đó
tôi có thói quen
tắm đêm, không mở đèn”.
Đây là cách hành xử “kỳ cục” khiến mấy đứa con (và độc giả) tưởng là ông bố hà tiện (bóng gió nói đến ở đoạn đầu).
Tuyệt Chiêu Liên Hoàn
Đoạn đầu bóng gió nói đến một cách hành xử “kỳ cục” khiến mấy đứa con tưởng mình “hà tiện, sợ tốn điện, hao tiền”. Phần sau của thân bài phơi bày trạng thái “gục đầu ủ rũ” của Thằng Cu Tý để có lý do “bật mí” cách hành xử “kỳ cục đó:
“Từ đó
Tôi có thói quen
tắm đêm, không mở đèn”.
Đây chính là kết luận độc đáo của bài thơ.
Nhận biết được cách hành xử “kỳ cục” này mấy đứa con (và cả độc giả) mỉm cười gật gù nói thầm “À Ra Thế”! Cái Tựa của bài thơ được phát sinh một cách điệu nghệ và đậm tính khôi hài.
Có thể nói lối phối hợp này là một tuyệt chiêu liên hoàn của kỹ thuật thơ.
Tứ Thơ: “Nỗi buồn” khi thấy Thằng Cu Tý lúc về già.
Thể Thơ: Thơ Mới biến thể, nhất khí liền mạch.
Dòng Chảy Của Tứ Thơ: Ngoại trừ mấy câu nhập đề (có vẻ như đứt đoạn nhưng phối hợp với đoạn kết và tựa đề sẽ tạo thành một tuyệt chiêu liên hoàn về kỹ thuật thơ) phần còn lại của tứ thơ liền lạc từ câu đầu đến câu cuối.
Câu Cú, Ngôn ngữ: Câu cú chắc gọn, hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp; ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu
Thi Ảnh: Khá đẹp, gợi cảm
Số Chữ Trong Câu: Thay đổi tùy tiện với biên độ rộng; câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 8 chữ.
Vần: Cước vận liên tiếp từ đầu đến cuối. Có 2 chỗ thoát vận để thoải mái diễn đạt tứ thơ nhưng không ảnh hưởng độ ngọt của vần và dòng chảy của âm điệu. Ngoài ra, cũng có 2 chỗ sử dụng yêu vẫn khá có duyên:
1/
Mấy đứa con tưởng tôi hà tiện
sợ tốn điện, hao tiền
2/
“Thằng Cu Tý hùng dũng, hiên ngang
tư thế sẵn sàng chiến đấu”
Độ Ngọt Của Vần: Ngọt đậm nhưng không nhàm chán.
Lý do:
a/ Bài thơ ngắn.
b/ Có 2 chỗ thoát vận + 2 chỗ yêu vận.
c/ Số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng.
Dòng Âm Điệu: Không du dương như thơ Lục Bát nhưng tương đối trơn tru, dẫn người đọc đi từ đầu đến cuối bài không ngừng nghỉ.
Nhịp Điệu: Nhờ số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng nên nhịp điệu sinh động chứ không đều đều, tẻ nhạt.
Độ Dài Của Bài Thơ: Bài thơ có 123 chữ, vẫn còn ngắn, chưa đủ để cảm xúc có “sóng sau dồn sóng trước” tạo hồn thơ.
Tâm Thế Của Thi Sĩ:
b/ Đối với hình thức thơ: Đã thoát khỏi trói buộc từ những luật tắc gò bó của Thơ Mới, đặc biệt là cách gieo vần phóng khoáng.
b/ Đối với tứ thơ: Nhắc đến Thằng Cu Tý “xưa và nay” như nhắc đến một kỷ niệm đẹp, một cách khôi hài ý nhị. Tâm thế có thể xem là “bình lặng”, “nỗi buồn” thực sự không có.
Cao Trào (điểm nhấn của tứ thơ): Tứ thơ có dòng chảy nên bài thơ có cao trào
“Thằng Cu Tý gầy yếu xanh xao
gục đầu ủ rũ
càng nhìn càng thấy buồn
càng nhìn càng tủi hổ”
Đây là lúc “nỗi buồn” lên cao ngất. Nhưng “nỗi buồn” ở đây được trưng ra chỉ để làm nổi bật chất khôi hài của bài thơ. Viết đến đây tác giả chẳng cảm thấy xót xa, nuối tiếc gì mà đang cười thầm trong bụng.
Dòng Cảm Xúc: Có dòng chảy tứ thơ, có dòng âm điệu nên bài thơ cũng có dòng cảm xúc. Có điều bài thơ viết về “nỗi buồn” mà từ đầu đến cuối cứ vừa viết vừa cười thầm (lòng không xao động) thì dòng cảm xúc không thể có sóng. Dòng cảm xúc không có sóng thì không thể có cảm xúc tầng 3 (tức là hồn thơ). Hơn nữa, bài thơ lại ngắn nên nếu cứ “gọi là có” thì cũng không đáng kể.
Cảm Xúc Tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Mạnh
Cảm Xúc Tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận chữ nghĩa): Mạnh.
Cảm Xúc Tầng 3 (đến từ tâm thế cao hứng của thi sĩ): Không đáng kể.
Nhận Xét Chung Cuộc:
Tôi đã đưa ra nhận xét về những tiêu chí chính để thẩm định giá trị của bài thơ. Nhận xét chung cuộc HAY hay DỞ - sẽ đậm tính chủ quan - xin nhường cho bạn đọc.
BÀN RỘNG THÊM
Bài thơ The Penis Poem của Willie Nelson thuộc thể loại phân mảnh, đứt đoạn, tứ thơ không liên tục chảy thành dòng mà chỉ là 4 hố thơ riêng biệt. Không có dòng chảy của tứ thơ nên không có dòng âm điệu và dĩ nhiên, không có dòng cảm xúc. Cơ hội để có cảm xúc tầng 3 (hồn thơ) gần như là Zero.
Bởi vậy, từ khi nhận ra “điểm yếu quá lớn” của thể thơ này, lúc vung bút làm thơ, tôi đã chạy theo nắm áo cô em nhất khi liền mạch.
Cái Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ “À Ra Thế”
1/ Thể Thơ: Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch.
2/ Dòng Chảy Của Tứ Thơ: Do thể thơ nhất khí liền mạch nên có dòng chảy của tứ thơ.
3/ Vần: Gieo vần tự do phóng túng, cước vận liên tiếp là chính.
4/ Dòng Âm Điệu: Do cước vận liên tiếp là chính nên bài thơ có dòng âm điệu.
5/ Số Chữ Trong Câu: Số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng (2-8) đã hóa giải:
a/ Hội chứng nhàm chán vần (nếu có)
b/ Cám giác đều đều tẻ nhạt của nhịp điệu.
Nhờ 2 điểm này dòng âm điệu đã thông thoáng, trơn tru.
6/ Dòng Cảm Xúc: Khi có dòng chảy của tứ thơ và dòng âm điệu thì cảm xúc từ “cơn cao hứng” cũng sẽ bám vào đó chảy thành dòng.
7/ Độ Dài Của Bài Thơ: Bài thơ không đủ độ dài để cảm xúc lớn mạnh, có “sóng sau dồn sóng trước”, tạo hồn thơ.
8/ Tâm Thế Của Thi Sĩ: “Nỗi buồn” được tính khôi hài hóa giải nên tâm thế của thi sĩ có thể xem là “bình lặng”.
Với cái nền kỹ thuật (gồm 8 điểm) như trên mà bài thơ đủ độ dài và tâm thế của thi sĩ lại thuộc loại yêu thương nồng cháy, buồn bã thê lương, căm ghét điên cuồng, ham muốn cực điểm… hoặc ít ra cũng có chút ít “hỷ nộ ái ố” gì đó trước cảnh đời thì hồn thơ sẽ xuất hiện.
TÓM LẠI
Trong hai bài thơ về Thằng Cu Tý thì bài The Penis Poem của Willie Nelson, với Kỹ Thuật Thơ (Thi Pháp) như đã phân tích ở trên, sẽ chỉ có khả năng diễn đạt suy nghĩ,tâm tình của tác giả chứ không thể tạo hồn thơ.
Bài À Ra Thế có được 6 trong 8 điểm của cái nền kỹ thuật (thất bại ở hai điểm 7 và 8) nên xem có vẻ nhỉnh hơn bài The Penis Poem nhưng vẫn thiếu cái quý nhất là hồn thơ.
Bài Thơ Đã Đến Đích
Có một bài thơ đã đến đích, cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng, đã cho thi sĩ và độc giả giao tiếp với nhau bằng Tiếng Người Chân Thật, đó là bài Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương.
Mời độc giả đọc bài Bình Thơ dưới đây để hy vọng sẽ cảm nhận được sự khác biệt đó.
SAY ĐI EM
Tác giả: Vũ Hoàng Chương.
1/
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương…
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần…
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
3/
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
4/
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Lời Nói Đầu:
Nhiều năm trước tôi đã viết lời bình cho bài thơ đặc biệt này với tựa đề Say Đi Em - Một Bài Thơ “Tới Bến”. Đó là kiểu bình thơ “bài bản, trường lớp” - tiếp cận, phân tích toàn diện bài thơ – như một bài Luận Văn (Essay) ở bậc đại học.
Lần này, nhân dịp mở trang Blog Lý Thuyết Thơ tôi “Thăm Lại Bài Thơ” để nhấn mạnh vài “phương tiện thẩm mỹ” mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã sử dụng một cách điệu nghệ để đưa bài thơ lên đỉnh cao chót vót của nghệ thuật thi ca.
Những “phương tiện thẩm mỹ” đó là:
1/ Bố cục dàn ý hợp lý
2/ Nối kết các ý khi chuyển đoạn khéo léo.
3/ Sử dụng vần điệu nghệ - vị ngọt rất đậm nhưng không ngán
4/ Nhịp điệu sống động
5/ Dòng tứ thơ, dòng âm điệu, dòng cảm xúc – 3 dòng nhập một, chảy rất mạnh.
6/ Đoạn kết tuyệt vời
7/ Tạo được cao trào và kết thúc ở cao trào/ hồn thơ lênh láng
Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương
VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng – rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:
Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)
Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc.
Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc.
Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.
Tứ Thơ
Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Bố Cục Dàn Ý
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.
2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.
3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say không còn biết chi đời”.
4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó – sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ
Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ – cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán.
Có thể tạm gọi đây là một loại Thơ Mới Biến Thể, rất gần với Thơ Tự Do.
“Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ.
1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng thì thôi.
2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.
3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn gieo vần gián cách:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận với vần ôm ở đoạn kết.
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.
4/ Chuyển đoạn ăn khớp: Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo – từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.
a/ Đoạn 1 qua đoạn 2
Từ:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
qua:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.
b/ Đoạn 2 qua đoạn 3
Từ:
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
qua:
Say đi em! Say đi em!
Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.
c/ Đoạn 3 qua đoạn 4
Từ:
Say không còn biết chi đời
qua:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.
Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
Điệp Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 – Nói Về Cơn Say
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) – điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ – cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” – của tác giả.
Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.
Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy. Nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.
Đoạn Kết Tuyệt Vời
Sau khi đã uống đến “Say không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:
Nhưng em ơi!
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “Đất trời nghiêng ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA kết thúc một bản nhạc, được viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài ba.
Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh – đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.
Cảm Xúc Dâng Tràn – Hồn Thơ Lai Láng
Cảm xúc tầng 1:
Theo tôi, VHC thành công trong việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc, trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.
Cảm xúc tầng 2:
Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.
Cảm xúc tầng 3:
Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ lai láng. Để có hồn thơ lai láng bài thơ cần mấy điều kiện sau đây:
1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.
2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ và âm điệu để cùng chảy một dòng. Đến đoạn 3, với hiệu ứng đặc biệt của dòng âm điệu, dòng thơ chảy rất nhanh và rất mạnh.
3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, đến cuối đoạn thì lý trí đã biệt tăm, biệt tích, thi sĩ đã “Say không còn biết chi đời”. Hơn nữa, nội dung bài thơ lại thuộc loại “ngược dòng” nên “cơn điên” phải cực mạnh và “nhiệt độ sôi của cảm xúc” phải rất cao mới có thể phủ mờ lý trí để vuợt qua nỗi Sợ Xấu, Sợ Nhục với người đời cuả VHC.
4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.
Kết Luận
Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo nên hồn thơ cực mạnh.
Hơn nữa, bài thơ lại kết thúc ở cao trào nên hồn thơ không những cực mạnh lại còn có sức ngân vang trong tâm hồn người đọc mặc dù bài thơ đã hết.
Tôi cho rằng cùng với thi phẩm Say Đi Em của mình, Vũ Hoàng Chương không những đã có thể bước vào Bến Bờ Thi Ca mà còn xứng đáng ngồi vào hàng ghế trang trọng nhất.
PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com
|