Tùng Cương dịch
                      
         Yevgeny Onegin, A. Puskin

    Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin  Chương  I  🍁
               
 
Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương II  💛 

Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương III  🌹

    Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương  IV  🌼 -
                       

                                                            ❤ 🌹 ❤

 

                                                  Chương V  🌷

        
    

ГЛАВА ПЯТАЯ


О, не знай сих страшных снов,
‎Ты, моя Светлана!

Жуковский

 

I.

В тот год осенняя погода
Стояла долго на дворе,
Зимы ждала, ждала природа.
Снег выпал только в январе
На третье в ночь. Проснувшись рано,
В окно увидела Татьяна
Поутру побелевший двор,
Куртины, кровли и забор,
На стеклах легкие узоры,
Деревья в зимнем серебре,
Сорок веселых на дворе
И мягко устланные горы
Зимы блистательным ковром.
Все ярко, все бело кругом.

 

CHƯƠNG NĂM

Mong nàng không phải qua những cơn ác mộng này

Hỡi nàng Svetlana của tôi ơi!

Giukốpski

I.

Vào năm đó, mùa thu lưu luyến mãi,

Nấn ná rõ lâu, như mong ở lại,

Cả đất trời ngóng đợi mùa đông về.

Mãi tháng giêng, mới có tuyết đầu mùa 

Sáng mồng ba, tuyết rơi. Tờ mờ đã dậy

Qua cửa sổ, Tachiana nhìn thấy:

Trời sáng rồi, tuyết phủ trắng cả sân,

Cả bồn hoa, mái nhà với bờ giậu bao quanh,

Trên mặt kính in hình băng nguệch ngoạc 

Cây cỏ khoác áo mùa đông màu bạc,

Chim ác là kêu quang quác ngoài sân,

Khắp núi đồi phủ khăn tuyết mỏng tang,

Mùa đông đến trải thảm long lanh khắp chốn.

Mọi vật sáng ngời, trắng trong, trắng muốt.

 

II.

Зима!.. Крестьянин, торжествуя,
На дровнях обновляет путь;
Его лошадка, снег почуя,
Плетется рысью как-нибудь;
Бразды пушистые взрывая,
Летит кибитка удалая;
Ямщик сидит на облучке
В тулупе, в красном кушаке.
Вот бегает дворовый мальчик,
В салазки 
жучку посадив,
Себя в коня преобразив;
Шалун уж заморозил пальчик:
Ему и больно и смешно,
А мать грозит ему в окно…


II.

Mùa đông tới! Người nông dân hoan hỉ

Dùng xe trượt tuyết vẫn lên đường không nghỉ;

Ngựa kéo xe ngửi hơi tuyết trên đường,

Đi từ từ nước kiệu, kiều cầm chừng;

Cầy in lại những vệt lằn trong tuyết,

Xe mui kín hùng hổ bay như chớp

Người đánh xe ngồi im thít trên thành xe,

Mặc áo lông, dây lưng thắt đỏ hoe.

Có cậu bé đang tung tăng trong tuyết,

Cậu đặt chó cún lên xe vẻ đầy thân thiết 

Đóng giả làm ngựa kéo xe phóng thật nhanh;

Mải chơi lâu, ngón tay lạnh như băng:

Tay đau nhức, vẫn cười nghiêng cười ngả,

Mẹ dọa dẫm cậu bé qua cửa sổ đủ cả…

 

III.

Но, может быть, такого рода
Картины вас не привлекут:
Всё это низкая природа;
Изящного не много тут.
Согретый вдохновенья богом,
Другой поэт роскошным слогом
Живописал нам первый снег
И все оттенки зимних нег[1];
Он вас пленит, я в том уверен,
Рисуя в пламенных стихах
Прогулки тайные в санях;
Но я бороться не намерен
Ни с ним покамест, ни с тобой,
Певец Финляндки молодой[2]!

 

III.

Nhưng có lẽ, những bức tranh như thế 

Không làm bạn đáng lưu tâm nhiều quá:

Chỉ thấy là thiên nhiên rất bình thường;

Nhìn kĩ xem, cảnh đẹp có đâu nhiều.

Được sưởi ấm nhờ Trời động viên hết sức 

Nhà thơ khác dùng vần thơ cháy rực

Vẽ cho ta tuyệt cảnh tuyết đầu mùa,

Bao niềm vui hương sắc hoan lạc ngày đông về;

Ông lôi cuốn ta và tôi càng tin tưởng,

Bằng những áng thơ nhiệt tình bốc lửa 

Tả chuyến đi bí mật theo xe trượt tuyết băng;

Nhưng tôi không định bỏ sức  đấu tranh

Ngay lúc này với ông ta và anh, đừng đợi,

Ơi thi sĩ trẻ đem Phần Lan ra ca ngợi!

IV.

Татьяна (русская душою,
Сама не зная, почему)
С ее холодною красою
Любила русскую зиму,
На солнце иней в день морозный,
И сани, и зарею поздной
Сиянье розовых снегов,
И мглу крещенских вечеров.
По старине торжествовали
В их доме эти вечера:
Служанки со всего двора
Про барышень своих гадали
И им сулили каждый год
Мужьев военных и поход.

 

IV.

Tachiana (thật người Nga tận gan, ruột đấy 

Nàng không biết vì sao mình lại vậy)

Sao lạnh lùng vẻ đẹp một mình nàng 

Mùa đông Nga nàng yêu thích hết lòng 

Hạt băng hiện trong ánh dương ngày giá lạnh

Cả xe trượt tuyết và buổi chiều chạng vạng,

Tuyết màu hồng đóng đống sáng rực lên 

Trong bóng đêm các lễ hội Giáng sinh.

Theo tục cũ thì cả thôn mở hội

Các đêm lễ diễn ra từng nhà một:

Các cô người ở cùng đến từ cả khu

Cùng chơi trò bói số cho các tiểu thư,

Năm nào cũng đoán nhiều cô tiên nữ 

Sẽ cưới được chồng là sỹ quan quân ngũ.


V.

Татьяна верила преданьям
Простонародной старины,
И снам, и карточным гаданьям,
И предсказаниям луны.
Ее тревожили приметы;
Таинственно ей все предметы
Провозглашали что-нибудь,
Предчувствия теснили грудь.
Жеманный кот, на печке сидя,
Мурлыча, лапкой рыльце мыл:
То несомненный знак ей был,
Что едут гости. Вдруг увидя
Младой двурогий лик луны
На небе с левой стороны,

 

V.

Tachiana rất tin lời sấm truyền lại 

Từ quá khứ xa xưa trong dân gian còn mãi,

Tin giấc mơ, những việc đoán bài Tây,

Tin những điềm báo trước qua mặt trăng này.

Riêng điềm báo, nàng để tâm chú ý 

Sao nàng thấy huyền bí những gì chứng kiến 

Đều nhắc ta trước sẽ có biến cố gì,

Nhiều lần linh cảm khiến nàng lặng người đi.

Mèo õng ẹo khi đang ngồi trên bếp,

Miệng gừ gừ, chân đưa lên lau mép:

Thì rõ ràng là điềm báo trước với nàng 

Khách tới nhà là chắc. Đang yên bỗng thấy rằng

Treo lơ lửng trăng non lưỡi liềm sáng

Nếu xuất hiện trên bầu trời từ phía trái,

 


VI.

Она дрожала и бледнела.
Когда ж падучая звезда
По небу темному летела
И рассыпалася, — тогда
В смятенье Таня торопилась,
Пока звезда еще катилась,
Желанье сердца ей шепнуть.
Когда случалось где-нибудь
Ей встретить черного монаха
Иль быстрый заяц меж полей
Перебегал дорогу ей,
Не зная, что начать со страха,
Предчувствий горестных полна,
Ждала несчастья уж она.

 

VI.

Mặt tái xám, toàn thân đang run rẩy,

Vừa rụng xuống một ngôi sao - nàng thấy

Bay trên bầu trời tối sẫm như bưng ,

Rồi vỡ tan thành nhiều mảnh, - lúc này đây,

Đang bối rối, Tachiana đâm hấp tấp,

Ngay giữa lúc ngôi sao trên đường rơi tiếp,

Trái tim nàng muốn nói hết với nàng, thì

Hoặc nhiều khi đến một chỗ bất kỳ,

Nàng gặp phải thày tu mặc đen sì ở đó,

Hay chú thỏ chạy nhanh trên đồng lúa,

Chợt lao qua vụt cắt trước mặt nàng,

Chưa biết làm gì khi hốt hoảng, hãi hùng,

Trong linh cảm nghĩ suy đầy đau đớn,

Nàng thấp thỏm chờ điều không may tới sớm.

VII.

Что ж? Тайну прелесть находила
И в самом ужасе она:
Так нас природа сотворила,
К противуречию склонна.
Настали святки. То-то радость!
Гадает ветреная младость,
Которой ничего не жаль,
Перед которой жизни даль
Лежит светла, необозрима;
Гадает старость сквозь очки
У гробовой своей доски,
Всё потеряв невозвратимо;
И всё равно: надежда им
Лжет детским лепетом своим.

 

VII.

Sao thế nhỉ? Lạ lùng khi phát hiện 

Ẩn trong nỗi sợ của nàng là bí hiểm:

Chính tự nhiên đã kiến tạo ra con người,

Khi nhiều mâu thuẫn cùng lúc sóng đôi

Lễ Giáng sinh tới rồi. Vui ơi là vui quá!

Tuổi trẻ thích bói tương lai vì cả tin lạ

Họ không hề tiếc nuối bạ điều gì,

Phía trước là cả cuộc đời rộng dài

Đang bừng sáng, không thể nào ngắm hết;

Tuổi già đoán định qua kính nhìn nát bét 

Khi cỗ săng sáu tấm đứng gần kề,

Mất hết thôi, không lấy lại được gì;

Nhưng dù vậy, với người già - niềm hy vọng 

Vẫn thỏ thẻ dối lừa không biết ngượng.



VIII.

Татьяна любопытным взором
На воск потопленный глядит:
Он чудно-вылитым узором
Ей что-то чудное гласит;
Из блюда, полного водою,
Выходят кольца чередою;
И вынулось колечко ей
Под песенку старинных дней:
«Там мужички-то всё богаты,
Гребут лопатой серебро;
Кому поем, тому добро
И слава!»
 Но сулит утраты
Сей песни жалостный напев;
Милей 
кошурка сердцу дев[3].

 

VIII.

Tachiana tò mò nhìn mê mải,

Thấy mảnh sáp nến còn nóng chảy:

Nước lạnh làm sáp co thành bức vẽ diệu kỳ 

Cho ta hay huyền diệu một điều gì;

Từ đáy bát còn đang đầy những nước 

Hiện ra đám nhẫn nối đuôi nhau từng chiếc;

Nhẫn của nàng lập tức được vớt lên

Trong tiếng ca nhiều bài cổ đã nghe quen :

“Sẽ lấy được chồng giàu sang, quý phái

Lắm vàng, bạc cần dùng xẻng xúc mãi;

Ta hát về ai, người ấy lại được phần may

Vinh hiển thay!” Nhưng điệp khúc đáng thương này 

Đã báo trước luôn phần mất mát;

Các cô gái mê nghe bài về chú mèo nhất.


IX.

Морозна ночь; всё небо ясно;
Светил небесных дивный хор
Течет так тихо, так согласно…
Татьяна на широкий двор
В открытом платьице выходит,
На месяц зеркало наводит;
Но в темном зеркале одна
Дрожит печальная луна…
Чу… снег хрустит… прохожий; дева
К нему на цыпочках летит
И голосок ее звучит
Нежней свирельного напева:
Как ваше имя?[4] Смотрит он
И отвечает: Агафон.

 

IX.

Đêm đông rét; Cả bầu trời trong sáng;

Hợp xướng diệu kì triệu vì sao hát váng

Tiếng ca bay lặng lẽ, quá hài hoà…

Tachiana ra sân rộng bao la

Người khoác áo không cài khuy, để mở,

Quay gương hướng vào mặt trăng nhìn thẳng;

Nhưng gương soi tối đen chỉ thấy một hình

Vầng trăng buồn như run rẩy một mình…

Kìa… Tuyết lạo xạo…người qua. Nàng điva vội vã

Nhón đầu ngón chân bay đến gần người lạ

Và giọng nàng nói chợt vang lên

Nghe dịu dàng hơn cả tiếng sáo tiêu:

Tên gì thế? Anh ta nhìn trong chớp mắt 

Và tiếng đáp: Tên Agaphôn là chắc chắn .

X.

Татьяна, по совету няни
Сбираясь ночью ворожить,
Тихонько приказала в бане
На два прибора стол накрыть;
Но стало страшно вдруг Татьяне…
И я — при мысли о Светлане
Мне стало страшно — так и быть…
С Татьяной нам не ворожить.
Татьяна поясок шелковый
Сняла, разделась и в постель
Легла. Над нею вьется Лель,
А под подушкою пуховой
Девичье зеркало лежит.
Утихло все. Татьяна спит.

 

X.

Tachiana theo u già dẫn lối

Chuẩn bị đủ cho buổi đêm xem bói,

U bảo đem vào phòng tắm, nói nhẹ nhàng,

Đặt lên hai bộ bói rồi phủ kín mặt bàn;

Nhưng bỗng chốc Tachiana thấy mình càng sợ hãi …

Còn tôi - lại nghĩ về Svetlana mãi 

Tôi thấy lo và quả thật như thánh bảo rằng…

Cùng với Tachiana xem bói là không thành.

Nàng tháo khỏi người chiếc dây lưng lụa,

Cởi áo khoác và lên giường nằm ngủ.

Thần Lel bay lơ lửng phía trên nàng,

Dưới đầu nàng là chiếc gối lông mềm 

Gương con gái đương nằm im lìm thật 

Mọi thứ lặng im. Tachiana liền ngủ mất.


XI.

И снится чудный сон Татьяне.
Ей снится, будто бы она
Идет по снеговой поляне,
Печальной мглой окружена;
В сугробах снежных перед нею
Шумит, клубит волной своею
Кипучий, темный и седой
Поток, не скованный зимой;
Две жордочки, склеены льдиной,
Дрожащий, гибельный мосток,
Положены через поток:
И пред шумящею пучиной,
Недоумения полна,
Остановилася она.
 

 

XI.

Tachiana thấy giấc mơ kì lạ thật.

Đang trong mộng, nàng như đi vạ vật 

Qua khu rừng phủ đầy tuyết khắp nơi,

Bốn bề là bóng tối chán kinh người;

Giữa các ụ tuyết chất cao nằm trước mặt 

Dòng lũ lớn, tối đen, tung bọt trắng

Đang sục sôi cuốn thành sóng bạc đầu 

Dòng lũ này không bị lạnh rét hoá băng mau;

Hai thanh gỗ được băng gắn liền lại

Cũng thành chiếc cầu con rập rềnh, nhìn ái ngại 

Được bắc qua trên dòng lũ gầm gào:

Và trước dòng nước xoáy đang sôi réo ầm ào,

Nàng chợt thấy không hiểu gì hết cả,

Đành đứng lại, không biết làm gì nữa.

 


Khổ XI-XXI
Cơn mộng. Trong giấc mơ của Tachiana có một số thành tố cấu trúc thú vị. Dòng suối sôi réo cuồn cuộn chính là dòng suối hiền hoà, bình thường, đã được phóng đại lên nhiều lần trong giấc mộng, suối nảy chảy gần chiếc ghế nơi Tachiana đã ngồi phệt xuống, khi trốn chạy do không muốn gặp Ônhêghin ở chương ba, XXXVIII, 13. Bên cạnh nhánh suối nhỏ của con suối êm đềm này là nơi chôn cất Lenski ở chương sáu, XL, 9. Cũng dòng suối này tượng trưng cho chướng ngại ngăn cách giữa Tachiana và Ônhêghin. Trong lúc mơ, nàng đã vượt qua suối nhờ sự giúp đỡ của một con gấu lớn. Con gấu này hoá ra được Ônhêghin đỡ đầu, giống y như chuyện viên tướng dáng người to như gấu, sau này là chồng của Tachiana, khi ông xuất hiện ở chương tám, thì ra, ông là người có họ và là bạn của Ônhêghin. Những con quái vật có mặt trong phòng, ngồi quanh bàn trong giấc mộng, khi Ônhêghin có mặt, dáng dấp như ông chủ của chúng, xét theo quan hệ chủ đề thì được lặp lại qua hình tượng những người khách được hoá trang nghịch dị đến dự lễ thánh của Tachiana, đã ngầm báo mộng trước sẽ có cuộc cãi vã nhau giữa Ônhêghin và Lenski và cảnh Tachiana hốt hoảng thức giấc thoát khỏi cơn mơ.
(V. Nabôkôp,sách đã dẫn, tr.23)


XII.

Как на досадную разлуку,
Татьяна ропщет на ручей;
Не видит никого, кто руку
С той стороны подал бы ей;
Но вдруг сугроб зашевелился,
И кто ж из-под него явился?
Большой, взъерошенный медведь;
Татьяна ах! а он реветь,
И лапу с острыми когтями
Ей протянул; она скрепясь
Дрожащей ручкой оперлась
И боязливыми шагами
Перебралась через ручей;
Пошла — и что ж? медведь за ней!

 

XII.

Như ly biệt, gặp chuyện đời ngang trái,

Tachiana than vãn khi nhìn ra dòng suối;

Không thấy ai từ phía bờ bên kia

Có thể giơ tay đón đỡ nàng qua;

Nhưng bất chợt, đống tuyết to xê dịch,

Con gì đó dưới ụ tuyết kia xuất hiện?

Một con gấu khổng lồ, xù lông hết cả lên,

Tachiana gào to! còn gấu rú to hơn,

Nó đưa tới bàn chân đầy móng sắc,

Nàng bám lấy, đành níu mau cho chắc

Bằng bàn tay run rẩy, cố bấu vào,

Chân chạy nhanh, bụng sợ hãi làm sao

Nàng đã vượt được qua dòng suối;

Chân vừa bước - thấy gì? Gấu theo sau gót đuổi!

XIII.

Она, взглянуть назад не смея,
Поспешный ускоряет шаг;
Но от косматого лакея
Не может убежать никак;
Кряхтя, валит медведь несносный;
Пред ними лес; недвижны сосны
В своей нахмуренной красе;
Отягчены их ветви все
Клоками снега; сквозь вершины
Осин, берез и лип нагих
Сияет луч светил ночных;
Дороги нет; кусты, стремнины
Метелью все занесены,
Глубоко в снег погружены.

 

XIII.

Tachiana chẳng dám quay nhìn lại,

Dồn hết sức, chạy nhanh hơn, mê mải;

Nhưng muốn rời xa gấu lông lá to đùng 

Nàng không tài nào thoát được gấu khùng;

Vừa gầm rú, gấu vừa đưa chân gạt đổ;

Những cây chắn lối; đám thông đứng yên một chỗ

Mang vẻ xinh đẹp cau có của riêng mình;

Tuyết nặng nề bám trên khắp cây rừng,

Cành oằn xuống. Xuyên qua hàng đỉnh ngọn 

Liễu hoàn diệp, bạch dương, cây gia trần trụi 

Các hành tinh đêm rọi sáng chiếu qua đây;

Đường có đâu, chỉ thấy gềnh xiết và bụi cây

Bị bão tuyết tràn qua phủ đầy kín mít,

Vùi mọi thứ trong lớp sâu dày tuyết.


XIV.

Татьяна в лес; медведь за нею;
Снег рыхлый по колено ей;
То длинный сук ее за шею
Зацепит вдруг, то из ушей
Златые серьги вырвет силой;
То в хрупком снеге с ножки милой
Увязнет мокрый башмачок;
То выронит она платок;
Поднять ей некогда; боится,
Медведя слышит за собой,
И даже трепетной рукой
Одежды край поднять стыдится;
Она бежит, он всё вослед:
И сил уже бежать ей нет.

 

XIV.

Tachiana vào rừng; gấu bám theo từng bước;

Tuyết ngập tới đầu gối, chân nàng nhấc;

Khi thì cành cây dài chọc đúng cổ nàng,

Lúc cành ngang giựt mất khuyên tai vàng,

Khi thì tuyết xốp giữ đế giày ẩm ướt,

Tuột rơi khỏi chân nàng trong hố tuyết;

Lúc nàng làm tuột rơi mất khăn che đầu;

Vì làm sao kịp cúi xuống nhặt lên đâu;

Tiếng gấu khụt khịt sau lưng nghe sợ hãi 

Và thậm chí, vì ngượng, tay nàng run yếu mãi

Không dám dùng kéo váy trở lại bình thường,

Khi váy đang bị vướng kéo trễ dưới hông;

Nàng cứ chạy, gấu lao theo sát sạt:

Sức rời rã, muốn chạy mà bất lực thật.



XV.

Упала в снег; медведь проворно
Ее хватает и несет;
Она бесчувственно-покорна,
Не шевельнется, не дохнет;
Он мчит ее лесной дорогой;
Вдруг меж дерев шалаш убогой;
Кругом всё глушь; отвсюду он
Пустынным снегом занесен,
И ярко светится окошко,
И в шалаше и крик, и шум;
Медведь промолвил: 
здесь мой кум:
Погрейся у него немножко!
И в сени прямо он идет,
И на порог ее кладет.

 

XV.

Nàng ngã xuống tuyết. Gấu nhanh như chớp 

Đỡ nàng dậy và bế đi chạy tiếp;

Nàng đành ngoan phó thác hết cho gấu thôi,

Người cứng đờ, bất động, không hẳn chết rồi;

Gấu đang ẵm nàng theo đường rừng đầy tuyết

Bỗng chính giữa rừng hiện lên túp lều nát;

Thấy vắng tanh vắng ngắt, tuyết phủ dầy 

Che lấp gần hết túp lều tranh giữa rừng này 

Có ô cửa sổ để ánh đèn rọi chiếu,

Trong lều lẫn tiếng kêu với tiếng huyên náo,

Gấu nói ra: Đây nhà cha đỡ đầu của tôi;

Cô hãy đành sưởi tạm ở đây cho ấm người!

Gấu tiến thẳng vào căn phòng phía trước,

Đặt nàng lên bậu cửa căn lều nát.

XVI

Опомнилась, глядит Татьяна:
Медведя нет; она в сенях;
За дверью крик и звон стакана,
Как на больших похоронах;
Не видя тут ни капли толку,
Глядит она тихонько в щелку,
И что же видит?.. за столом
Сидят чудовища кругом:
Один в рогах с собачьей мордой,
Другой с петушьей головой,
Здесь ведьма с козьей бородой,
Тут остов чопорный и гордый,
Там карла с хвостиком, а вот
Полу-журавль и полу-кот.

 

XVI.

Chợt tỉnh lại, Tachiana nhìn quanh bốn hướng:

Không thấy gấu; nàng ở gian phòng trước;

Sau cửa nghe tiếng hét và cốc lanh canh,

Như đang trong đám ma lớn, linh đình;

Không ai hiểu có chuyện gì xảy ra nữa,

Nàng ghé mắt nhìn qua khe gỗ,

Nàng thấy gì? …Ngồi lố nhố bên bàn là

Đủ các loài ma quỷ ở trong nhà:

Đầu tiên loại có sừng, mõm là mõm chó,

Sau đến thứ lắc lư đầu gà sống đó 

Chỗ này là phù thủy mang bộ râu dê,

Chỗ kia là bộ xương rõ cao ngạo gớm ghê,

Anh lùn tịt kia có đuôi đang ngồi đó,

Con vật nửa sếu, nửa mèo cũng có.


 

XVII

Еще страшней, еще чуднее:
Вот рак верьхом на пауке,
Вот череп на гусиной шее
Вертится в красном колпаке,
Вот мельница вприсядку пляшет
И крыльями трещит и машет:
Лай, хохот, пенье, свист и хлоп,
Людская молвь и конский топ[5]!
Но что подумала Татьяна,
Когда узнала меж гостей
Того, кто мил и страшен ей,
Героя нашего романа!
Онегин за столом сидит
И в дверь украдкою глядит.

 

XVII.

Còn có cảnh kinh hồn và li kỳ hơn nữa:

Kìa tôm lại đè lên con nhện chúa,

Rồi sọ người trên cổ ngỗng chễm trệ ngồi 

Cứ quay tròn quay tít trong lồng màu đỏ hoài,

Rồi chiếc cối xay nhảy ngồi không biết mệt

Vừa vẫy cánh vừa đập nghe phát khiếp 

Tiếng hát hò, chó sủa, vỗ đập, cười rồ,

Tiếng người lầm bầm, tiếng vó ngựa đập dồn!

Nhưng lúc đó Tachiana còn nghĩ gì đấy 

Trong đám khách đang ngồi kia - nàng thấy 

Một người nàng yêu quá, hãi hùng thay 

Đó là nhân vật chính cuốn tiểu thuyết này!

Ônhêghin tĩnh tại bên bàn trông càng bệ vệ nữa

Thỉnh thoảng mắt trộm nhìn ra phía cửa.

 

XVIII

Он знак подаст: и все хлопочут;
Он пьет: все пьют и все кричат;
Он засмеется: все хохочут;
Нахмурит брови: все молчат;
Он там хозяин, это ясно:
И Тане уж не так ужасно,
И любопытная теперь
Немного растворила дверь…
Вдруг ветер дунул, загашая
Огонь светильников ночных;
Смутилась шайка домовых;
Онегин, взорами сверкая,
Из-за стола гремя встает;
Все встали; он к дверям идет.

 

XVIII.

Chàng ra hiệu, phòng vỗ tay bôm bốp;

Hễ chàng uống: chúng gào lên, cùng nốc;

Chàng bật cười: lũ ngốc rũ rượi cười; 

Chàng cau mày: tất cả lặng tức thời;

Chàng là chủ ở đây - điều này đã rõ:

Và Tanhia chẳng còn kinh hãi nữa,

Giờ đây nàng lại thấy tò mò hoài 

Nàng đưa tay mở cánh cửa ra ngoài…

Bỗng gió thổi thốc vào làm tắt ngấm

Các cây nến để qua đêm đang cháy sáng

Cả đám ma xó nhốn nháo hết cả lên;

Ônhêghin nhìn mắt ánh long lanh;

Chàng đứng dậy khỏi bàn gây ồn hơn nữa;
Cả lũ đứng theo; chàng đi ra cửa

XIX

И страшно ей; и торопливо
Татьяна силится бежать:
Нельзя никак; нетерпеливо
Метаясь, хочет закричать:
Не может; дверь толкнул Евгений:
И взорам адских привидений
Явилась дева; ярый смех
Раздался дико; очи всех,
Копыта, хоботы кривые,
Хвосты хохлатые, клыки,
Усы, кровавы языки,
Рога и пальцы костяные,
Всё указует на нее,
И все кричат: мое! мое!


XIX.

Nàng vừa sợ; vừa cuống cuồng vội vã

Tachiana cố hết sức làm sao thoát đã:

Không được rồi; lại càng sốt ruột hơn 

Nàng vẫy vùng, muốn thét thật to lên:

Nhưng đành chịu; Evghênhi mở cửa toang hết cỡ:

Trước mắt lũ quỷ ma từ địa ngục cả

Là cô nàng hiện ra; tiếng cười rú điên cuồng

Vang lên nghe hung dữ; tất cả dồn mắt cùng

Từ Vòi xoắn tít, đến nào Móng ngựa,

Từ Đuôi có mào, rồi Răng nanh lợn nữa

Những Râu dài, đám lưỡi đậm máu me,

Các cặp sừng, ngón chân rặt mấu giơ khoe,

Cùng nhìn thẳng vào nàng ngay tức khắc,

Và ai cũng kêu: của ta là cái chắc.

 

XX

Мое! — сказал Евгений грозно,
И шайка вся сокрылась вдруг;
Осталася во тьме морозной.
Младая дева с ним сам-друг;
Онегин тихо увлекает[6]
Татьяну в угол и слагает
Ее на шаткую скамью
И клонит голову свою
К ней на плечо; вдруг Ольга входит,
За нею Ленской; свет блеснул;
Онегин руку замахнул,
И дико он очами бродит,
И незваных гостей бранит;
Татьяна чуть жива лежит.


XX.

Của ta đấy! - Evghênhi gào lên hung hãn,

Và cả lũ quỷ ma đều biến hẳn;

Trong bóng đêm đông rét buốt căm căm

Còn lại hai người: cô gái trẻ măng

Bên nhân vật chính - chàng trai của truyện;

Evghênhi chuyển nàng về một góc đầy thân thiện 

Đặt nàng lên chiếc ghế xập xệ, sắp long luôn 

Và chàng hơi cúi đầu mình để nghiêng nghiêng 

Sắp gần xuống vai nàng; Chợt Ônga bước đến,

Đi sau tiếp là Lenski; bừng lên ánh sáng;

Ônhêghin làm động tác dứt khoát phảy tay,

Đưa mắt nhìn hệt như mắt thú hoang đây,

Chàng chửi rủa khách không mời mà tới vậy,

Tachiana nửa tỉnh nửa mê nằm im đấy.

 

XXI.

Спор громче, громче; вдруг Евгений
Хватает длинный нож, и вмиг
Повержен Ленской; страшно тени
Сгустились; нестерпимый крик
Раздался… хижина шатнулась…
И Таня в ужасе проснулась…
Глядит, уж в комнате светло;
В окне сквозь мерзлое стекло
Зари багряный луч играет;
Дверь отворилась. Ольга к ней,
Авроры северной алей
И легче ласточки, влетает;
«Ну, — говорит, — скажи ж ты мне,
Кого ты видела во сне?»

 

XXI.

Tiếng tranh cãi to hơn; Evghênhi bất chợt 

Vớ lấy một con dao dài, nhanh như chớp,

Lenski bị thương; kết cục khủng khiếp rồi;

Một tiếng kêu quá sức chịu con người 

Vang lên rõ …Túp lều lung lay muốn sập …

Và Tanhia tỉnh giấc kinh hoàng, người run bần bật… 

Mở mắt nhìn, trong phòng thật sáng rồi;

Chiếu rọi qua lớp kính cửa sổ phủ băng dầy

Tia mặt trời đằng đông hồng lên đang nhún nhảy;

Cửa được mở. Ônga vào tìm chị đấy,

Nàng tươi vui hơn Nữ thần rạng đông,

Nhanh hơn chim nhạn, nàng phóng vào luôn;

“Nào,- nàng nói,- Chị cho em biết nhé,

Chị đã thấy ai trong khi mơ thế?”

XXII.

Но та, сестры не замечая,
В постеле с книгою лежит,
За листом лист перебирая,
И ничего не говорит.
Хоть не являла книга эта
Ни сладких вымыслов поэта,
Ни мудрых истин, ни картин;
Но ни Виргилий, ни Расин,
Ни Скотт, ни Байрон, ни Сенека,
Ни даже Дамских Мод Журнал
Так никого не занимал:
То был, друзья, Мартын Задека[7],
Глава халдейских мудрецов,
Гадатель, толкователь снов.

 

XXII.

Nhưng Tachiana không nhận ra em gái,

Sách mở sẵn trong tay, nằm trên giường mãi,

Nàng lật từ trang nọ tới trang kia,

Nàng im lìm, không nói điều gì sẻ chia.

Dù cho cuốn sách này không hề phải 

Là sáng tác ngọt ngào của nhà thơ vĩ đại,

Không phải chân lý thâm sâu, chẳng phải bức tranh,

Nhưng không là Vỉginia, chẳng phải Rasin,

Không phải cả Seneka, Bairơn, Scôt 

Thậm chí chẳng là tờ Thời trang nữ nốt,

Tóm lại không thu hút chú ý của ai:

Thưa bạn bè, đây là Martưn  Dađeka 

Thủ lĩnh những bộ óc vùng Khalđây một dạo,

Nhà bói toán, bậc thầy luận bàn mộng ảo.

 

8.Vỉginia 

8.Rasin Gian (1639-1699), kịch gia Pháp.

9.Seneka Lutski - nhà hoạt động quốc gia Lamã, nhà triết học.

Scôt 

Martưn Dađêka- ẩn sỹ, tác giả nhiều sách bói toán.


XXIII.

Сие глубокое творенье
Завез кочующий купец
Однажды к ним в уединенье
И для Татьяны наконец
Его с разрозненной 
Мальвиной
Он уступил за три с полтиной,
В придачу взяв еще за них
Собранье басен площадных,
Грамматику, две Петриады,
Да Мармонтеля третий том.
Мартин Задека стал потом
Любимец Тани… Он отрады
Во всех печалях ей дарит
И безотлучно с нею спит.

 

XXIII.

Một tác phẩm viết sâu, uyên thâm vậy,

Được một vị thương gia buôn đường xa đem lại

Đã tìm về nhà họ tại một ngày 

Và sau này thành của Tanhia ngay 

Kèm theo sách là tập Malvina lẻ bộ 

Nhận ba rúp  rưỡi, thương gia đã nhượng hộ

Nhà phải đưa thêm tuyển tập thơ ca

Có nhiều bài ngụ ngôn được viết thô, xem ra,

Sách ngữ pháp, hai cuốn Petriada nữa,

Cùng với tập ba Marmontel kèm cả.

Martưn Dađeka sau đó đã được mê

Cuốn Tachiana ưa thich hàng ngày…Sách đem về

Cho Tanhia biết bao niềm vui khi buồn chán,

Trên tay suốt, ngủ ngày sách ôm không ngán.

 

5.Malvina - tiểu thuyết của nhà văn Pháp Maria Kotten.

6.полтина = полтинник = 50 копеек

Petriađa - anh hùng ca về Piôtr Đại đế

Marmontel -nhà văn Pháp, phái từ điển bách khoa.

 


XXIV.

Ее тревожит сновиденье.
Не зная, как его понять,
Мечтанья страшного значенье
Татьяна хочет отыскать.
Татьяна в оглавленье кратком
Находит азбучным порядком
Слова: бор, буря, ведьма, ель,
Еж, мрак, мосток, медведь, мятель
И прочая. Ее сомнений
Мартын Задека не решит;
Но сон зловещий ей сулит
Печальных много приключений.
Дней несколько она потом
Все беспокоилась о том.

 

XXIV.

Ngủ thấy mộng làm Tachiana lúng túng.

Nàng không biết hiểu thế nào cho đúng,

Muốn tự mình kiểm chứng, hiểu thêm 

Ý nghĩa từng giấc mộng thấy mà kinh.

Tachiana kiếm tìm theo danh mục rút ngắn 

Lần theo trật tự abc xem hết hẳn 

Các từ: rừng thông, phù thủy, bão tố, cây thông,

Nhím, bóng đêm, gấu, bão tuyết, cầu con v.v.

Nhiều nghi vấn của nàng đâm tắc tị,

Chính Martưn Dađeka không giải quyết xong, đành chịu;

Nhưng những cơn ác mộng hứa đem lại cho nàng 

Quá nhiều lần ngao du lắm buồn phiền.

Rồi phải mất mấy ngày liền sau đấy,
Nàng ngay ngáy lo gặp điều từng mơ thấy.


XXV.

Но вот багряною рукою[8]
Заря от утренних долин
Выводит с солнцем за собою
Веселый праздник имянин..
С утра дом Лариных гостями
Весь полон; целыми семьями
Соседи съехались в возках,
В кибитках, в бричках и в санях.
В передней толкотня, тревога;
В гостиной встреча новых лиц,
Лай мосек, чмоканье девиц,
Шум, хохот, давка у порога,
Поклоны, шарканье гостей,
Кормилиц крик и плач детей.

 

XXV.

Nhưng với cánh tay mang màu hồng thắm 

Bình minh khắp thảo nguyên vào sáng sớm 

Cùng mặt trời mọc kéo mang theo 

Không khí tưng bừng tiệc hội vui  sao…

Từ sáng sớm, nhà Larin người vào đông kín

Đâu cũng thấy họ hàng, làng xóm đến;

Kéo cả nhà tới dự lễ, đi đủ loại xe

Xe không mui, xe mui kín, xe trượt tuyết băng.

Trong phòng trước người va chạm nhau, ý ới

Phòng khách gặp gỡ những khuôn mặt mới,

Tiếng chó con sủa dài, tiếng hôn chút các cô,

Cười rũ, ồn ào, giẫm chân nhau ngay cửa to,

Tiếng khách khứa hỏi chào, tiếng đế giày xao xác,

Trẻ gào khóc, tiếng các cô lát xát.


XXVI.

С своей супругою дородной
Приехал толстый Пустяков;
Гвоздин, хозяин превосходный,
Владелец нищих мужиков;
Скотинины, чета седая,
С детьми всех возрастов, считая
От тридцати до двух годов;
Уездный франтик Петушков,
Мой брат двоюродный, Буянов,
В пуху, в картузе с козырьком[9]
(Как вам, конечно, он знаком),
И отставной советник Флянов,
Тяжелый сплетник, старый плут,
Обжора, взяточник и шут.

 

XXVI.

Cùng bà vợ người đẫy đà, cao lớn

Puschiakốp béo tròn theo xe đến sớm;

Gvôdđin một ông chủ rất tuyệt vời 

Là chủ dân muzik đói suốt đời;

Vợ chồng lão Skôchinư, một đôi đầu tóc bạc,

Đủ lứa tuổi, đàn con trông nháo nhác,

Từ ba mươi xuống đến đứa lên hai;

Petushkốp anh chàng hào hoa cỡ huyện thôi,

Chú em họ của tôi, Buianốp 

Mặc áo lông, đội mũ lưỡi trai cứng nốt,

(Chắc quý ngài đã quen với ông này),

Cố vấn Phlianốp đã nghỉ hưu nhiều ngày,

Giỏi đưa chuyện, một tay lừa đảo cũ,

Tham ăn nhất, một anh hề, ăn đút lót đủ.


XXVII.

С семьей Панфила Харликова
Приехал и мосье Трике,
Остряк, недавно из Тамбова,
В очках и в рыжем парике.
Как истинный француз, в кармане
Трике привез куплет Татьяне
На голос, знаемый детьми:
Réveillez-vous, belle endormie.[* 1]
Меж ветхих песен альманаха
Был напечатан сей куплет;
Трике, догадливый поэт,
Его на свет явил из праха,
И смело вместо 
belle Nina[* 2]
Поставил 
belle Tatiana.[* 3]

 

XXVII 

Gia đình Panphil Kharlikôv đưa nhau đi dự lễ 

Cùng có mặt là me xừ Trike, phải kể, 

Vốn sắc lời, đến từ Tambốp gần đây,

Kính thường đeo, tóc giả hung hung phất phơ bay.

Là người Pháp chính tông, trong túi hay có sẵn 

Nhân lễ thánh, một đoạn thơ dành cho Tanhia để tặng,

Giọng nói ra, con trẻ nghe nhận ra ngay:

Dậy đi nào, người đẹp đang ngủ say

In trong số bài hát xa xưa trong almanach 

Đã có bản in bài thơ này là chắc chắn;

Trike là nhà thơ rất giỏi ranh ma,

Đã hồi sinh bài thơ từ một xác mà ra 

Ông dũng cảm thay “Nhina xinh đẹp”

Bằng một đoạn “Tachiana đẹp tuyệt.”

 

8.Réveillez-vous, belle endormie.[tiếng Pháp] 

13.belle Nina

14.belle Tatiana.


XXVIII.

И вот из ближнего посада
Созревших барышень кумир,
Уездных матушек отрада,
Приехал ротный командир;
Вошел… Ах, новость, да какая!
Музыка будет полковая!
Полковник сам ее послал.
Какая радость: будет бал!
Девчонки прыгают заране[10];
Но кушать подали. Четой
Идут за стол рука с рукой.
Теснятся барышни к Татьяне;
Мужчины против; и, крестясь,
Толпа жужжит, за стол садясь.

 

XXVIII 

Và kia nữa, đến từ ven đô gần nhất 

Một công tử ngon lành với nàng quá lứa thật,

Là niềm vui các bà mẹ phố huyện chờ trông,

Một chỉ huy đại đội vừa đến xong;

Chàng vào lễ…: Tin mới toanh, trời hỡi!

Dàn quân nhạc, cả nhà ơi, sẽ tới!

Lệnh được ban từ một đại tá kí rồi.

Vui làm sao vũ hội chắc chắn tuyệt vời!

Mấy cô gái định ra sàn nhảy nhót,

Nhưng nhà chủ mời khách vào ăn trước.

Cứ từng đôi tiến vào chỗ, tay trong tay.

Mấy quý cô vây chặt Tachiana ngay;

Ngồi đối diện, đàn ông giơ tay làm dấu thánh,

Tiếng khách khứa lao xao, ngồi vào bàn kê sẵn.

 

13…крестясь …Trước khi ăn, người Nga có nghi thức làm dấu thánh trên ngực, cám ơn Chúa cho họ đồ ăn, thức uống, họ nghiêng thân người hạ thấp xuống ghế, khi người hầu dẫn khách vào và kéo ghế cho khách.


XXIX.

На миг умолкли разговоры;
Уста жуют. Со всех сторон
Гремят тарелки и приборы
Да рюмок раздается звон.
Но вскоре гости понемногу
Подъемлют общую тревогу.
Никто не слушает, кричат,
Смеются, спорят и пищат.
Вдруг двери настежь. Ленской входит,
И с ним Онегин. «Ах, творец! —
Кричит хозяйка: — Наконец!»
Теснятся гости, всяк отводит
Приборы, стулья поскорей;
Зовут, сажают двух друзей.

 

XXIX

Trong thoáng chốc, tiếng chuyện trò đã tắt;

Mọi người mải bận ăn. Nghe rõ nhất 

Đĩa bát ăn và thìa nĩa chạm lanh canh

Va vào nhau, cốc chén phát tiếng vang.

Nhưng sau đó, khách bắt đầu càng ầm ỹ 

Tăng không khí ồn ào trong tiệc lễ.

Không ai nghe, mọi người chỉ hét to,

Người cười, người tranh cãi, giọng líu lo.

Cửa bỗng mở. Lenski hiện ra trước mắt

Đi bên cạnh là Evghênhi. “Ôi kìa thi sỹ thật!-

Bà Larina hét lên: -Cuối cùng đủ mặt cả rồi!”

Khách ngồi dồn, chung tay góp nhiều người 

Dọn bớt bát, lấy cho người ngồi thêm ghế;

Ai cũng gọi, cũng mời ngồi ngay nhé.


XXX.

Сажают прямо против Тани,
И, утренней луны бледней
И трепетней гонимой лани,
Она темнеющих очей
Не подымает: пышет бурно
В ней страстный жар; ей душно, дурно;
Она приветствий двух друзей
Не слышит, слезы из очей
Хотят уж капать; уж готова
Бедняжка в обморок упасть;
Но воля и рассудка власть
Превозмогли. Она два слова
Сквозь зубы молвила тишком
И усидела за столом.

 

XXX

Evghênhi được xếp vào chỗ Tachiana ngồi đối diện,

Tanhia nhợt nhạt hơn ánh trăng ban mai vừa hiện,

Dáng như nai bị truy đuổi sát chân ,

Không dám nhìn đôi mắt sẫm đen hơn,

Nàng bức bối như đang lên cơn sốt,

Người chợt nóng bừng bừng, sao mà ngột;

Có hai người đứng dậy chúc mừng,

Nàng không nghe được, nước mắt rưng rưng 

Chỉ chực chảy thành dòng; ơi cô em bất hạnh 

Dễ bị ngất vì người như choáng mạnh;

Nhưng đức hạnh và sức mạnh lý trí của nàng 

Giúp vượt qua tất cả. Nàng nói đôi lời nhẹ nhàng 

Đáp lại khách, tiếng qua khe răng , càng không rõ

Nói xong hết, nàng loay hoay ngồi về chỗ.

 

1.Trong tiệc, khách nam và nữ được xếp chỗ ngồi tuỳ theo vị trí của chủ nhà. Trong lễ thánh của Tachiana, chỗ của người chủ lễ là ở giữa dãy. Mọi người xếp Ônhêghin ngồi vào vị trí trang trọng, đối diện với Tachiana, khiến nàng lúng túng vì mọi người có thể tưởng rằng Evghênhi và Tachiana sẽ cưới nhau.



XXXI.

Траги-нервических явлений,
Девичьих обмороков, слез
Давно терпеть не мог Евгений:
Довольно их он перенес.
Чудак, попав на пир огромный,
Уж был сердит. Но, девы томной
Заметя трепетный порыв,
С досады взоры опустив,
Надулся он и, негодуя,
Поклялся Ленского взбесить
И уж порядком отомстить.
Теперь, заране торжествуя,
Он стал чертить в душе своей
Каррикатуры всех гостей.

 

 

XXXI

Chuyện con gái lên cơn thần kinh co giật,

Hay ngất xỉu, lệ chảy dài, chán thật,

Đã từ lâu, Evghênhi phát ngán cả người 

Đã nhiều lần, chàng chịu đựng đủ rồi.

Kẻ kỳ quặc hôm nay ngồi đại tiệc,

Lại tỏ vẻ bực mình. Nhưng khi nhận thấy được 

Nàng điva mệt mỏi, điệu buồn phiền,

Chàng cúi nhin xuống thấp vì bực mình,

Chàng nổi đóa và bùng lên thành tức giận,

Chàng thề sẽ khiến Lenski lên cơn điên thật 

Phải trả thù cho bõ hận vô cùng.

Và giờ đây, tỏ ra sớm đắc thắng, vui mừng,

Chàng vạch sẵn trong đầu từng kế hoạch 

Vẽ tranh biếm họa vui về toàn thể khách.


XXXII.

Конечно, не один Евгений
Смятенье Тани видеть мог;
Но целью взоров и суждений
В то время жирный был пирог
(К несчастию, пересоленный)
Да вот в бутылке засмоленной,
Между жарким и блан-манже,
Цимлянское несут уже;
За ним строй рюмок узких, длинных,
Подобно талии твоей,
Зизи, кристалл души моей,
Предмет стихов моих невинных,
Любви приманчивый фиял,
Ты, от кого я пьян бывал!

 

XXXII

Tất nhiên, chắc không phải mình Evghênhi mới thấy 

Tachiana tỏ ra ngại ngùng, vụng về biết mấy;

Nhưng mục tiêu mọi ánh mắt, luận bàn là

Gia nhân đem bánh ga tô béo ngậy bày ra

(Không may lắm, được nêm sao mặn chát)

Thêm vào đó, trong chai đưa mời khách

Giữa món rán và món thạch sữa đông

Gia nhân đem ra rượu Simlianskoie cùng;

Rồi một loạt ly chân dài, thân ngắn,

Trông giống hệt eo thon của nàng Didi lắm,

Nàng là viên kim cương sáng trong hồn tôi,

Là người tôi nhắc trong nhiều tác phẩm sáng ngời,

Nàng hấp dẫn như rượu tình tha thiết 

Đây là thứ làm tôi nhiều lần say quên hết!

 

8.цимплянское несут.. là rượu vang sủi vùng sông Đông , theo tên gọi trại Simplianskoie. Tại nhà Evghênhi , ngày thường đã uống vang đắt giá của Pháp, trong lễ thánh của Tachiana mà chỉ mời khách vang Simplianskoie, rẻ tiền hơn.

 

10.Didi là tên hồi nhỏ và dùng ở nhà của Evpraksia Vulph(1810-1883), một tiểu thư nhà Ôsipôp. Gia đình Ôsipôp sống tại Trigorxkoie, gần với Mikhailôpxkoie của nhà ngoại Puskin. Hai gia đình luôn giữ quan hệ gần gũi, thân mật với nhau.

 


XXXIII.

Освободясь от пробки влажной,
Бутылка хлопнула; вино
Шипит; и вот с осанкой важной,
Куплетом мучимый давно,
Трике встает; пред ним собранье
Хранит глубокое молчанье.
Татьяна чуть жива; Трике,
К ней обратясь с листком в руке,
Запел, фальшивя. Плески, клики
Его приветствуют. Она
Певцу присесть принуждена;
Поэт же скромный, хоть великий,
Ее здоровье первый пьет
И ей куплет передает.

 

XXXIII

Chiếc nút được khui ra từ chai rượu,

Chai nổ bốp; Rượu phun ra sủi bọt;

Với dáng người vẻ trịnh trọng làm sao,

Như vượt thai nghén thơ lắm khổ đau,

Trike đứng dậy, trước mặt đông quan khách

Đang nín lặng , cả phòng im phăng phắc.

Tachiana xao động không cất nên lời;

Trike hướng về nàng, tờ giấy trong tay rồi,

Hát giọng giả. Cả phòng vỗ tay cùng nhắc 

Người vừa hát. Nàng làm theo quy tắc

Phải ngồi ngay xuống sát nhà thơ;

Dù vĩ đại, thi sỹ vẫn khiêm nhường chưa,

Người đầu tiên hát mừng ngày sinh thiếu nữ,

Đã tặng trọn bài thơ mang bao nhiêu ý tứ.


XXXIV.

Пошли приветы, поздравленья;
Татьяна всех благодарит.
Когда же дело до Евгенья
Дошло, то девы томный вид,
Ее смущение, усталость
В его душе родили жалость:
Он молча поклонился ей,
Но как-то взор его очей
Был чудно нежен. Оттого ли,
Что он и вправду тронут был,
Иль он, кокетствуя, шалил,
Невольно ль иль из доброй воли,
Но взор сей нежность изъявил:
Он сердце Тани оживил.

 

XXXIV

Người lên chúc, kẻ chào mừng liên tục;

Tachiana cám ơn mọi người đầy chân thực.

Nhưng mà khi đến lượt Evghênhi,

Tachiana lộ mệt mỏi, hiện ra thì

Vừa lúng túng, vừa bơ phờ, hoảng hốt

Làm chàng thấy dậy lên lòng thương xót:

Chàng lặng im nghiêng xuống cúi chào nàng,

Nhưng ánh nhìn chàng có nét khác thường 

Đầy kỳ diệu nhẹ nhàng. Hay có phải 

Chàng cảm động thật lòng mình trở lại,

Hay chàng đang đóng kịch nhằm xoa dịu, trêu ngươi,

 Đó có do thiện chí, hay bắt buộc thôi,

Nhưng ánh mắt chàng dịu dàng nói lên tất cả:

Làm xúc động Tachiana, con tim run lên quá.


XXXV.

Гремят отдвинутые стулья;
Толпа в гостиную валит:
Так пчел из лакомого улья
На ниву шумный рой летит.
Довольный праздничным обедом
Сосед сопит перед соседом;
Подсели дамы к камельку;
Девицы шепчут в уголку;
Столы зеленые раскрыты:
Зовут задорных игроков
Бостон и ломбер стариков,
И вист, доныне знаменитый,
Однообразная семья,
Все жадной скуки сыновья.

 

XXXV

Tiếng xê dịch ghế ngồi nghe lạch cạch;

Rất đông người đổ dồn vào phòng khách:

Như ong tuôn ra từ tổ chứa mật ngon

Tràn ra đồng vo ve tiếng rộn vang,

No nê quá khi dự xong bữa tiệc

Các ông địa chủ láng giềng thở khụt khịt;

Các bà tìm chỗ gần bếp sưởi tán nhăng;

Các cô nàng ngồi một góc chuyện lan man;

Cả một dãy bàn bọc dạ xanh được mở hẳn:

Chào mời đám người ham chơi cờ bạc lắm 

Trò bốstôn và lombe phục vụ đám già đây,

Và trò wist vẫn nổi tiếng xưa nay,

Một hội những người đồng lòng hay cùng dạng

Họ gắn với nỗi buồn tham lam có hạng 

 

9.Bàn bọc dạ xanh phục vụ các con bạc, người chơi dùng phấn viết lên mặt bàn ghi tiền đặt.

11.Tên một số trò bạc: bôstôn, lômber, wist.


XXXVI.

Уж восемь робертов сыграли
Герои виста; восемь раз
Они места переменяли;
И чай несут. Люблю я час
Определять обедом, чаем
И ужином. Мы время знаем
В деревне без больших сует:
Желудок — верный наш брегет;
И к стате я замечу в скобках,
Что речь веду в моих строфах
Я столь же часто о пирах,
О разных кушаньях и пробках,
Как ты, божественный Омир,
Ты, тридцати веков кумир!

 

XXXVI

Trò chơi wist mỗi vòng là ba ván,

Xong ba ván tiền thắng thua thanh toán;

Sau tám vòng, họ đổi chỗ tám lần;

Chè được mang ra. Tôi đoán giờ như thần, 

Quen xác định nhờ bữa trưa và chè nước,

Bữa ăn tối. Thời gian ai chả thuộc

Ở làng quê có công việc vội vã đâu:

Dạ dày là đồng hồ đáng tin cậy biết bao;

Thêm vào nữa, xin nói trong ngoặc kép 

Rằng trong các khổ thơ tôi hay viết,

Tôi nói toàn chuyện tiệc rượu nhỏ to,

Kể các đồ ăn, các trò mở nắp rượu bia,

Hệt như thánh Ômir ngày trước,

Ba mươi thế kỷ nay, người đời mê ngài suốt!

 

1.Môn wist: một роберт là ba ván, chơi xong ba ván thì thanh toán tiền thắng thua, và người chơi phải đổi chỗ cho nhau để chơi tiếp .

14.Gomer, Ômer, Ômir đều là tên một người (khoảng tk. VIII, trước công nguyên) nhà thơ huyền thoại cổ Hy Lạp, được xem là tác giả của Iliad và Ôđisêy. Nhưng người ta vẫn nghi vấn đây là một nhà thơ hay là người đại diện của một nhóm nhà thơ viết hai bản trường ca nổi tiếng này.


XXXVII.  XXXVIII.  XXXIX.

Но чай несут: девицы чинно
Едва за блюдечки взялись,
Вдруг из-за двери в зале длинной
Фагот и флейта раздались.
Обрадован музыки громом,
Оставя чашку чаю с ромом,
Парис окружных городков,
Подходит к Ольге Петушков,
К Татьяне Ленский; Харликову,
Невесту переспелых лет,
Берет тамбовский мой поэт,
Умчал Буянов Пустякову,
И в залу высыпали все,
И бал блестит во всей красе.

 

XXXVII.XXXVIII. XXXIX

Nhưng chè tới: Đám các nàng con gái

Để động tới món chè, còn õng ẹo mãi,

Bỗng từ sau cửa, trong phòng lớn, rộng dài 

Tiếng kèn phagôt và sáo cất lên rồi.

Nhạc làm khách thấy trong người háo hức,

Bỏ chè lại với rượu rum dở dang từ trước,

Là tài trai các thị trấn ven đô 

Petushkôp tiến lại mời Ônga ,

Lenski bước tới mời Tachiana nhảy;

Cô nàng quá lứa Kharlikôva ấy 

Được nhà thơ Tambôp của tôi đến mời chào,

Buianốp đưa nàng Puschiakôva đi theo,

Các đôi bước vào gian phòng nhảy,

Và vũ hội sáng rực lên, đẹp biết mấy.


XL.

В начале моего романа
(Смотрите первую тетрадь)
Хотелось вроде мне Альбана
Бал петербургский описать;
Но, развлечен пустым мечтаньем,
Я занялся воспоминаньем
О ножках мне знакомых дам.
По вашим узеньким следам,
О ножки, полно заблуждаться!
С изменой юности моей
Пора мне сделаться умней,
В делах и в слоге поправляться,
И эту пятую тетрадь
От отступлений очищать.

 

XL

Phần đầu tiểu thuyết mà tôi đang viết

(Mời bạn đọc nhiều trang cuốn thứ nhất )

Dường như tôi muốn giống Alban

Tả về đêm vũ hội  ở Peterburg nhiều hơn;

Nhưng do mải vui, mơ viển vông rỗng tuếch,

Tôi kể lại những nhớ nhung tôi thích

Về đôi chân các quý bà tôi quen.

Theo dấu chân của các bạn nhỏ xinh

Tôi lạc lối, khi sa đà kể đôi chân nhiều thế!

Giờ không muốn đi theo vết chân tuổi trẻ 

Đã đến ngày tôi phải khôn ngoan ra,

Phải sửa mình trong mọi việc và thơ ca,

Đây là quyển vở thứ năm tôi đã viết,

Đành bỏ hết các đoạn xa đề không cần thiết.

 

       3-4.Alban là họa sỹ người Ý, tk. XVII.


XLI.

Однообразный и безумный,
Как вихорь жизни молодой,
Кружится вальса вихорь шумный;
Чета мелькает за четой.
К минуте мщенья приближаясь,
Онегин, втайне усмехаясь,
Подходит к Ольге. Быстро с ней
Вертится около гостей,
Потом на стул ее сажает,
Заводит речь о том, о сем;
Спустя минуты две потом
Вновь с нею вальс он продолжает;
Все в изумленье. Ленский сам
Не верит собственным глазам.

 

XLI

Vừa đơn điệu vừa điên khùng đến thế,

Như cơn lốc cuộc đời khi còn trẻ,

Lốc ồn ào điệu nhảy valxơ quay quay;
Đôi từng đôi thấp thoáng vun vút bay.

Đã gần đến phút giây trả thù như toan tính,

Ônhêghin nhếch mép cười, mồm che kín,

Chàng lại gần Ônga. Hai người bước rất nhanh 

Ôm nhau quay, nhảy gần đám khách chung quanh,

Sau điệu nhảy chàng dìu nàng nhanh về chỗ,

Bắt đầu kể lăng nhăng về chuyện này chuyện nọ;

Khoảng chừng hai ba phút thoảng qua,

Chàng lại mời nàng nhảy tiếp điệu valxơ;

Ai cũng ngạc nhiên. Lenski càng vậy 

Không tin được những gì chàng vừa thấy.



XLII.

Мазурка раздалась. Бывало,
Когда гремел мазурки гром,
В огромной зале всё дрожало,
Паркет трещал под каблуком,
Тряслися, дребезжали рамы;
Теперь не то: и мы, как дамы,
Скользим по лаковым доскам.
Но в городах, по деревням
Еще мазурка сохранила
Первоначальные красы:
Припрыжки, каблуки, усы
Всё те же: их не изменила
Лихая мода, наш тиран,
Недуг новейших россиян.

 

XLII 

Điệu madurka rộn rã vang lên. Thường thấy,

Khi nhạc madurka gầm như sấm dậy,

Phòng nhảy to, mọi thứ giật lên ngay,

Sàn gỗ rung bần bật dưới đế giày

Cánh cửa cũng rung, kêu cót két;

Ngày nay, ngược lại: chúng ta, như quý bà hết,

Để chân trôi theo sàn gỗ sáng bóng vecni.

Nhưng ở thành phố, các làng quê

Điệu valxơ vẫn mang hồn xưa cũ:

Những nét đẹp ban đầu  điệu nhảy cổ

Từ kiểu giầy, cách nhảy, để râu ria

Vẫn còn nguyên, được mốt dở buông tha,

Dù bạo chúa mốt làm ta quay cuồng mãi,

Cái bệnh của người Nga thời hiện đại.


XLIII. XLIV.

Буянов, братец мой задорный,
К герою нашему подвел
Татьяну с Ольгою; проворно
Онегин с Ольгою пошел;
Ведет ее, скользя небрежно,
И наклонясь ей шепчет нежно
Какой-то пошлый мадригал,
И руку жмет — и запылал
В ее лице самолюбивом
Румянец ярче. Ленский мой
Всё видел: вспыхнул, сам не свой;
В негодовании ревнивом
Поэт конца мазурки ждет
И в котильон ее зовет.

 

XLIII.XLIV

Buianôp, chú em tôi tinh quái 

Dẫn Tachiana với Ônga cho Ônhêghin gặp lại;

Ônhêghin khôn khéo bỏ đi với Ônga 

Dẫn nàng đi, chẳng giấu giếm, công khai,

Đầu cúi xuống, thì thầm với nàng nghe nho nhỏ 

Chắc đang đọc thơ ngợi ca tầm phào nào đó

Chàng siết chặt tay Ônga - tỏ thân mật thêm,

Khuôn mặt nàng vẻ kiêu hãnh sáng lên 

Má hồng đỏ hây hây thêm rừng rực.

Nhìn thấy hết, máu Lenski sôi sùng sục

Trong lòng chàng bùng cháy cục cơn ghen,

Chàng giận hơn, không làm chủ được bản thân; nên 

Nhà thơ đợi cho điệu madurka chơi hết 

Mời nàng nhảy điệu kôtiliôn kế tiếp.


XLV.

Но ей нельзя. Нельзя? Но что же?
Да Ольга слово уж дала
Онегину. О боже, боже!
Что слышит он? Она могла…
Возможно ль? Чуть лишь из пеленок,
Кокетка, ветреный ребенок!
Уж хитрость ведает она,
Уж изменять научена!
Не в силах Ленский снесть удара;
Проказы женские кляня,
Выходит, требует коня
И скачет. Пистолетов пара,
Две пули — больше ничего —
Вдруг разрешат судьбу его.

 

XLV

Nhưng nàng chối. Không được ư? Vì sao vậy?

Vì Ônga đã hẹn với Ônhêghin cùng nhẩy.

Ối trời ơi! Hỡi đất ơi!

Chàng nghe gì chưa đấy? Nàng hứa rồi…

Sao có thể? Gần như từ hồi còn quấn tã,

Nàng đã thích làm bộ, sao nông nổi quá!

Luôn chạy theo cái cách khôn ranh,

Nàng đã quen trò phản bội ma lanh!

Lenski chịu không quen vì đòn đánh;

Chàng nguyền rủa đàn bà vì tính tình đỏng đảnh,

Bỏ đi luôn, chàng sai dắt ngựa ra ngoài,

Phóng về nhà. Hai khẩu súng có rồi 

Cộng với đạn hai viên - là những gì cẩn thiết 

Chợt phán quyết đời chàng: sống hay chết.

 

CHÚ THÍCH

Chương Năm

Lời đề từ:

О, не знай сих страшных снов,
‎Ты, моя Светлана!

Жуковский

 

Mong nàng không phải qua những cơn ác mộng này

Hỡi nàng Svetlana của tôi ơi!

Giukốpski