Ngày Xuân Ngồi Đọc Thơ Tình
Thân Trọng Sơn
Tết và Xuân, Xuân và Tết, thời điểm kỳ lạ trong một năm. Vừa trông chờ vừa mong đừng đến. Vừa lưu luyến rét đông vừa háo hức xuân ấm. Vừa khép kín đoàn tụ gia đình vừa chan hoà xôn xao lễ hội. Vừa lặng lẽ hoài niệm chuyện riêng tư vừa hân hoan cùng nhau "nâng chén ta chúc nơi nơi". Mỗi người một tâm trạng nên mỗi người một cách đón Xuân. Có cách gì vui Xuân, thưởng Xuân, hưởng Xuân không ồn ào mà vẫn rộn ràng vang vọng, không kiểu cách mà vẫn phong lưu ân tình? Ai kia du Xuân vãng cảnh, kẻ nọ trở gót quy cố hương. Cũng chỉ cố tìm thanh bình trong tâm tưởng. Nhưng e chừng sắm sanh chuẩn bị tư trang hành lý cũng nhiêu khê lắm. Chi bằng ngồi yên mà cho tâm trí bay bổng. Mở trang sách, đàm đạo với tiền nhân. Thử tìm đến vài nhà thơ ở nhiều đất nước khác nhau.
Nếp sống, nếp nghĩ có khác, và tình yêu dù muôn màu muôn vẻ nhưng vẫn có mẫu số chung. Bởi thế cho nên: Ngày Xuân ngồi đọc thơ tình, Thơ ai sao thấy có mình ở trong. Chỉ cần nói với nhau một điều. Thường thơ nhiều ẩn dụ, biểu tượng, hình ảnh, có khi không cần giải bày minh bạch.
Chỉ nhắc đến giòng sông, Là thấy ngay biển cả,
Xin mời nhé, năm bài thơ, dịch của năm tác giả Âu Mỹ, kèm theo vài dòng giới thiệu. 1. MÙA THU Anh đành để cho gia đình phân tán
Túp lều tranh, em và anh ẩn náu
Chỉ chúng ta thôi đang ngồi ở đấy
Ta vẫn bên nhau qua bao giờ khắc
Hỡi lá rừng, hãy cứ rơi xào xạc
Tất cả quyến luyến, hân hoan, say đắm,
Em ngã vào vòng tay anh âu yếm
Em hạnh phúc trên đường anh khổ luỵ BORIS PASTERNAK Nghe tên Boris Leonidovich Pasternak (Борис Леонидович Пастернак) mọi người đều nghĩ đến Bác sĩ Zhivago, cuốn truyện nổi tiếng với số phận ly kỳ không kém gì tác giả của nó. Khi tác phẩm ra đời (năm 1955), dưới áp lực những lời công kích, phê phán của giới văn học và chính trị, không một nhà xuất bản nào nhận bản thảo. Phải chờ đến một năm sau, tác phẩm mới được xuất bản tại nước Ý, bản tiếng Nga và bản dịch tiếng Ý! Ngay sau đó, cuốn truyện được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác, xuất bản tại nhiều quốc gia khác (tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch, Phần Lan…) Bản tiếng Anh đầu tiên do Max Hayward và Manya Harari dịch, xuất bản vào tháng 8 năm 1958, là bản dịch tiếng Anh duy nhất được biết trong suốt 50 năm và trong hai năm 1958, 1959 đứng đầu danh sách best-seller của báo The New York Times trong 26 tuần. Còn bản gốc, tất nhiên bằng tiếng Nga, chỉ được in tại Liên Xô lần đầu tiên vào năm 1988! Độc giả Việt Nam, may mắn hơn, đã thưởng thức tuyệt phẩm này qua bản dịch "Vĩnh biệt tình em" của Nguyễn Hữu Hiệu, do Tổ hợp Gió xuất bản tại Saigon năm 1974.
(Nói thêm một chút về chuyện giải Nobel. Giải Nobel về văn học được trao cho ông vào năm 1958, một sự kiện làm tốn bao nhiêu giấy mực từ thời điểm đó đến tận hàng chục năm về sau. Phản hồi nhanh chóng của Boris Pasternak khi được tin, là bức điện tín gửi ngay sang Thuỵ Điển: "Vô cùng biết ơn, cảm động, tự hào, ngạc nhiên, bối rối". Tiếp theo là sự công kích, phản đối nặng nề, cay độc, trực diện, việc khai trừ Boris Pasternak ra khỏi Hội Nhà Văn Liên Xô, và sự đe doạ nếu ông đi nhận giải thưởng sẽ không được phép trở về quê hương. Ông đành phải gởi bức điện tín thứ hai: "Nhìn nhận ý nghĩa của sự trọng vọng này trong xã hội tôi đang sống, tôi buộc phải từ chối giải thưởng không xứng đáng được trao cho tôi. Xin đừng xem sự từ chối tự nguyện của tôi là một hành động xúc phạm." Viện Hàn Lâm Hoàng gia Thuỵ Điển tiếp nhận thông tin này bằng một văn bản chính thức trong đó nêu rõ: "… Tất nhiên sự từ chối này không ảnh hưởng đến hiệu lực của giải thưởng. Chỉ có điều là Viện Hàn Lâm lấy làm tiếc phải thông báo là lễ trao giải không thể diễn ra." Hai mươi chín năm sau khi Ông qua đời, tháng 12 năm 1989, con trai của Boris Pasternak là nhà văn Evguenii đã được mời sang Thuỵ Điển nhận giải thưởng thay ông, với những nghi thức long trọng của một lễ trao giải chính thức.) Năm 1914, ông in tập thơ đầu tiên "Sinh đôi trong đám mây", gây được nhiều thiện cảm trong công chúng. Năm 1922, ông cho ra đời tập thơ "Chị tôi, cuộc đời", được các nhà thơ đương thời ( Maïakovski, Tsvetaïeva, Mandelstan, Ehrenburg ) tán thưởng, ông nhanh chóng nổi tiếng từ đây. Một năm sau ông xuất bản tiếp cuốn "Những chủ đề và biến tấu", đã viết từ năm 1918, nay mới công bố. Và những năm sau đó ông lần lượt cho xuất bản nhiều thi tập khác. Ngay trong cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, ông dành hẳn phần cuối truyện để đưa vào 25 bài thơ dưới nhan đề Thơ Yuri Zhivago. Thơ của Yuri Zhivago hẳn là viết cho Lara, nhân vật nữ trong tiểu thuyết, hoá thân của Olga Ivinskaya, tình yêu lớn của tác giả những năm cuối đời. 2. TIẾNG EM CƯỜI Nếu em muốn cứ lấy đi không cho anh thức ăn,
Đừng lấy đi đoá hồng,
Cuộc đấu tranh gian lao và anh trở về,
Em yêu, trong giờ phút đen tối nhất,
Bên cạnh biển trong mùa thu,
Em hãy cười nhạo buổi tối,
PABLO NERUDA
Nhưng nói đến thơ Pablo Neruda là phải nói đến thơ tình, bởi những bài thơ tuyệt tác nhất của ông, được độc giả tìm đọc, nhắc đến và yêu thích chính là những bài thơ tình.
Đó là thi phẩm "Veinte poemas de amor y una cancion dêsperada" (Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng), xuất bản năm 1924, được cho là ông viết tặng người yêu đầu đời là Laura Arrue sau cuộc tình dang dở. Tập thơ nhắc đến tình yêu với nhiều uyển ngữ, ẩn dụ, nhắc đến người tình với thi vị mộng mơ và với cả trần tục đời thường, có hơi hướm tình dục, có mái tóc, làn da, nét môi, mà cũng có cả vú, ngực, đùi, háng! Pablo Neruda nhanh chóng nổi tiếng và tác phẩm liên tục được in lại hàng triệu bản. Chính tác giả cũng bày tỏ sự ngạc nhiên "không hiểu tại sao chỉ là những bài thơ Tình sầu, Tình buồn mà có nhiều người thích đến thế, mà có nhiều bạn đọc trẻ yêu thích đến thế".
Về sau, để tặng vợ là Martilde Urrutia, ông in tiếp thi phẩm "Cien sonetos de amor" (Một trăm bài đoản thi tình yêu), khắc hoạ chân dung tình yêu muôn màu muôn vẻ, không lặp lại, không nhàm chán. ( Thơ Pablo Neruda viết bằng tiếng Bồ Đào Nha. Bản dịch bên trên dựa vào bản tiếng Anh: YOUR LAUGHTER) 3. ĐOẠN RỜI MỘT LÁ THƯ
Mưa suốt đêm tạt vào cửa sổ
Nếu tình yêu có thể bay xa
Nhưng giống như những con ong giận dữ
Nhưng nào ai đã một lần tính được
Những lá thư gửi cho phụ nữ
Dưới ngòi bút tôi thơ không còn bay nhảy
Tôi đứng trong toa, bên cửa sổ
Có lẽ sẽ thêm một lần tôi bắt gặp
Có lẽ sẽ thêm một lần tôi nhìn thấy
Bao nhiêu điều con người đành bỏ lại phía sau
Đây đã là ga cuối:
JAROSLAV SEIFERT
4. KHÔNG CÓ GÌ HAI LẦN
Không có gì xảy ra hai lần
Cho dù chỉ là người lười nhác
Không ngày nào mô phỏng ngày hôm trước
Ngày hôm qua em nghe như có tiếng
Hôm nay đây khi ta ở gần nhau
Sao ta cứ nhìn ngày tháng lướt trôi
Nở nụ cười, và ôm nhau thắm thiết WISLAWA SZYMBORSKA
Bắt đầu đăng thơ từ năm 22 tuổi trên phụ trang hàng tuần của nhật báo Dziennik Polski và tiếp tục phổ biến sáng tác của mình trên các nhật báo và tạp chí. Từ năm 1952 (xuất bản tập thơ đầu tiên) đến lúc qua đời vào năm 2012, đã lần lượt cho phát hành gần 20 thi phẩm, trong đó một số lớn được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Tại buổi yến tiệc tổ chức sau lễ trao giải tại Tòa Thị chính Stockholm vào tối 10/12/1996, khi Quốc vương Thụy Điển Karl Gustaf phát biểu chúc mừng bà bằng tiếng Pháp), WISLAWA SZYMBORSKA đáp lại ngắn gọn (cũng bằng tiếng Pháp):
"Không ai có thói quen được nhận giải Nobel, và cũng không ai có thói quen bày tỏ sự biết ơn của mình về việc đó. Trong tiếng mẹ đẻ của tôi, cũng như trong những ngôn ngữ khác, có nhiều từ đẹp để lựa chọn. Nhưng với tôi, vào dịp này, từ đơn giản nhất là nghiêm túc và có ý nghĩa nhất: Cám ơn merci- dziêkujê)."
Từ tác phẩm bước ra đời thường, WISLAWA SZYMBORSKA vẫn giữ phong cách riêng như thế.
Lặng lẽ và khiêm nhường, thông minh và sáng tạo, WISLAWA SZYMBORSKA ở tuổi ngoài tám mươi vẫn tiếp tục sáng tác. Năm 2002, bà xuất bản tuyển tập "Khoảnh khắc"gồm 23 bài thơ. Cùng năm đó, tác phẩm "Bài đọc nhiệm ý – Văn xuôi" ra đời, tập hợp những bài phê bình của bà. Năm 2005 thêm một tuyển tập thơ nữa: "Dấu hai chấm". Vẫn bản tính ưa hài hước châm biếm mà không hề hời hợt, xuê xoa. Vẫn khuynh hướng chuyển hóa những nhận xét qua kinh nghiệm cá nhân thành những suy nghiệm về phận người mong manh, về sự hiện diện của cá thể nhỏ nhoi giữa bao la vũ trụ. Khó tìm thấy một nhà thơ nào khác có nét tương đồng với bà về ngôn ngữ và tư tưởng. Phải chăng vì điều này mà thơ của WISLAWA SZYMBORSKA đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng khác nhau trên thế giới?
Ngày 17/1/2011 Tổng thống Ba Lan Bronislaw Komorowski đã trao tặng bà phần thưởng cao nhất của nhà nước: Huân chương Đại bàng trắng "để ghi nhận những cống hiến của bà cho nghệ thuật Ba Lan và những thành tựu xuất sắc của bà trong lĩnh vực văn học".
WISLAWA SZYMBORSKA từng tâm sự rằng khi làm thơ bà chỉ dùng bút chứ không bao giờ sử dụng máy vi tính. Nhất thiết phải có một khung cảnh thật riêng tư. "Tôi không tưởng tượng được có nhà văn nào mà không tìm cho mình thanh bình và yên lặng. Thơ không thể ra đời giữa tiếng ồn, trong đám đông hay trên xe buýt. Phải ở trong bốn bức tường và tin chắc là chuông điện thoại sẽ không reo". Có khi bà đang viết một bài, rồi để đó bắt đầu một bài khác. Có khi bà làm hai bài cùng một lúc. Số bài thơ bà viết nhiều hơn số đã in. Thơ viết vào buổi tối, sáng hôm sau đọc lại và có thể sẽ cho vào sọt rác để sẵn ở trong phòng. Còn bài thơ mà bà hài lòng nhất thì chính là bài bà đang định viết lúc này đây. Bà thích nên mới quyết định khai bút, còn khi nó đã thành hình, đã được in vào sách thì hãy để nó tự xoay xở lấy. Còn vì sao lại làm thơ ư? Chẳng phải là một sứ mạng to tát gì. Vào một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, khi đã qua tuổi ấu thơ, bạn sẽ bước vào một thế giới đầy rủi ro và trách nhiệm cá nhân, bạn sẽ nghiệm ra rằng chẳng thể làm được gì để tránh điều đó. Cứ làm thơ và sẽ thấy. Có khi bạn sẽ tự biết đó là thơ tồi, mọi người sẽ chối bỏ nó. Nhưng cũng có khi bạn thành công.
Nét nổi bật trong thơ WISLAWA SZYMBORSKA là ngôn từ, giản dị, cô đọng mà chính xác; bà thường xuyên sử dụng sự hài hước, châm biếm, ngay cả nghịch lý, để làm nổi bật nội dung sâu sắc. Đề tài ưa thích là cuộc sống thường ngày, được kể lại một cách tinh tế, lắm khi mỉa mai, khởi đầu cho những chiêm nghiệm có màu sắc triết lý.
WISLAWA SZYMBORSKA qua đời ngày 1/12/2012. Trong giá lạnh, tuyết rơi trắng trời, ngày 9 tháng 2 năm 2012, tại thành phố Krakow, nơi bà là công dân danh dự, hơn tám ngàn người đã đến vĩnh biệt bà, trong số đó có Tổng thống Cộng hòa Ba Lan Bronislaw Komorowski cùng phu nhân, Chủ tịch Hạ viện Ewa Kopacz, Chủ tịch Thượng viện Bogdan Boruszewicz, Thủ tướng Donald Tusk, nhiều bộ trưởng và các quan chức Ba Lan, đại diện các cơ quan ngoại giao đoàn, các nhà thơ, nhà văn, dịch giả, các nghệ sĩ, bạn bè và những người mến mộ. Theo ý nguyện của bà, đúng 12 giờ trưa, bình đựng hài cốt của bà được đưa từ nhà tang lễ tới khu mộ gia đình, nơi bố mẹ bà đang an nghỉ.
Bài "Không có gì hai lần" giới thiệu trên đây đã được phổ nhạc và ngay trong tang lễ của Bà, giai điệu bài này đã ngân vang từ trên tháp chuông nhà thờ Mariacki, một nhà thờ cổ kính vào bậc nhất Châu Âu, ở trung tâm cố đô Krakow, thay vì tiếng chuông hiệu vào giờ này hằng ngày. (Bài thơ dịch theo bản tiếng Anh thay cho nguyên tác tiếng Ba Lan)
5. LÁ VÀNG RƠI
Ngàn muôn lá vàng xao xác rụng rơi
Gió vô tình về cuốn lá bay đi
Khúc hát đó tựa như tình đôi ta
Đời làm cho bao lứa đôi xa cách
Ngàn muôn lá vàng xao xác rụng rơi
Yêu em lắm, em vẫn xinh đẹp quá
Em vẫn là người tình hiền dịu nhất JACQUES PRÉVERT
Sinh ra cùng với thế kỷ XX và sống đến 3/4 thế kỷ này, JACQUES PRÉVERT đã để lại cho đời những dấu vết sâu đậm. Năm 1992, mười lăm năm sau khi Ông qua đời, toàn bộ tác phẩm của Ông đã được in trong Tủ sách Pléiade, một tủ sách "sang trọng" dành cho những tác giả mà tài năng và danh tiếng đã được thừa nhận. Tập thơ Paroles (Lời nói) xuất bản lần đầu vào tháng 5 năm 1946, chỉ một tuần sau đã in thêm 5000 bản, đến nay vẫn còn tái bản và tính ra đã có hơn hai triệu bản in. Khắp nơi trên đất Pháp hiện nay có hàng trăm trường học mang tên Ông, chỉ tính riêng trường trung học (collège / lycée) có đến 309 trường.
Ngay từ các tập đầu tiên, thơ JACQUES PRÉVERT đã chinh phục người đọc mọi lứa tuổi bằng một thứ ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Ông không coi trọng cú pháp, vần luật, diễn đạt nhẹ nhàng, hồn nhiên, có khi như là văn nói. Cái nhan đề PAROLES (Lời nói) cũng phần nào hàm chứa ý đó. Mà nhìn kỹ một chút thì PAROLES chính là anagramme (sắp xếp, đảo lộn thứ tự các chữ cái) của LA PROSE (văn xuôi) đó thôi. Cái xu hướng tự do của Ông trước hết thể hiện ở chỗ trong cùng một tác phẩm, Ông đưa vào đủ loại thơ: thơ có vần, thơ tự do, thơ kể chuyện, trữ tình, công kích, có bài như một tiểu phẩm (saynète), có những bài rất ngắn (3 câu, 4 câu), có bài dài trên 30 trang (La crosse en l’air / Gậy quyền chỉ lên trời).
Đối với JACQUES PRÉVERT, tình yêu rất cần cho cuộc sống, yêu là sống và sống là yêu :
Đó là tình cảm nhẹ nhàng tinh khiết của những đứa trẻ ôm hôn nhau "trong ánh sáng chói lòa của mối tình đầu tiên" (Les enfants qui s’aiment / Những đứa trẻyêu nhau), tình yêu của đôi trai gái cùng mới mười lăm tuổi phải "ăn gian" cộng tuổi cả hai để nói chúng ta đã ba mươi tuổi rồi chúng ta đã có quyền yêu nhau. (Embrasse-moi / Hãy ôm hôn em). Thơ tình của JACQUES PRÉVERT bao giờ cũng mượt mà trau chuốt, kể cả những bài rất ngắn. ALICANTE chẳng hạn. (Alicante là tên một thành phố hải cảng của Tây Ban Nha, cũng là tên một thứ rượu vang nổi tiếng sản xuất ở đây). Có thể nói Jacques Prévert đã vận dụng sở trường về hội họa và kịch nghệ trong bài này. Bài thơ mở đầu với hình ảnh một bức tranh tĩnh vật :
JACQUES PRÉVERT đã đi qua thời đại đầy biến động của Ông với một thái độ tỉnh táo, không gò mình trong khuôn phép của trường phái nghệ thuật, không để bị ràng buộc bởi xu hướng chính trị, tự khẳng định mình qua nhiều hình thức biểu hiện và nổi trội hơn cả vẫn là thơ vì với Ông "Thơ ca có mặt ở khắp nơi cũng như Thượng đế chẳng có ở đâu cả.Thơ ca là một trong những biệt danh xác thực nhất, hữu dụng nhất của cuộc đời" (La poésie est partout comme Dieu n’est nulle part. La poésie, c’est un des plus vrais, un des plus utiles surnoms de la vie". Thế giới thơ của JACQUES PRÉVERT, cũng như chính con người JACQUES PRÉVERT, bao giờ cũng tự do, tự do như khí trời, tự do như mây gió, tự do như hoa cỏ trong ĐỒNG XANH ( pré vert ) .
Thơ của JACQUES PRÉVERT còn được chắp cánh bay xa khi chuyển thành nhạc. Bài thơ đầu tiên được phổ nhạc là bài Les animaux ont des ennuis, phần nhạc do một người bạn gái thuở thiếu thời của Ông là Christiane Verger viết từ năm 1928. Về sau, rất nhiều tác giả khác đã sáng tác nhiều ca khúc bất hủ từ thơ của Ông, ngoài Joseph KOSMA (1905-1969) được nhiều người biết còn có thể kể Louis Bessières, Hanns Eisler, Wal-Berg, Georges Auric, Jo Warfield, Henri Crolla, Sebastien …. Mấy chục năm nay những bài này đã được nhiều thế hệ ca sĩ trình bày như Agnès Capri, Marianne Oswald, Germaine Montero, Fabien Loris , nổi tiếng hơn là Juliette Gréco, Yves Montand, Mouloudji, les frères Jacques, Edith Piaf và hiện nay còn có Jean Guidoni, Catherine Ribeiro, Djemel Charif.
Bài LES FEUILLES MORTES ban đầu là một bài thơ, sau được phổ nhạc và có sức lan toả rộng khắp qua những giọng ca nổi tiếng của từng thế hệ. Bài hát đã từng được dịch sang tiếng Anh (AUTUMN LEAVES hoặc DEAD LEAVES), được trình bày sớm nhất bởi Nat King Cole, và sau đó, Frank Sinatra.
(Bài dịch thơ bên trên được dịch từ nguyên tác tiếng Pháp)
|