LOS LUSÍADAS (BÀI 11)
LES LUSIADES
THI HÀO LUÍS DA CAMÕES (1525-1580)
THIÊN TRƯỜNG CA BẤT TỬ BỒ ĐÀO NHA
NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne
Chuyển ngữ thơ lục bát
THI CA KHÚC X
Trong bữa tiệc Téthys đãi các nhà hải hành. Một nàng nhân ngư hát các bài ca tiên tri : Các cuộc thám hiểm chính của các vị Phó Vương Toàn Quyền Bồ Đào Nha tại Ấn Độ cho đến Dom Juan de Castro. Téthys đưa Gama đến một đỉnh núi, nơi đó nàng chỉ vào Orbe, mô hình thu nhỏ vũ trụ và cho chàng biết các hành tinh trên trời và trái đất. Mô tả trái đất phần Á Châu và Phi Châu các vùng các địa danh. Camões có nói đến Lào, Champa, Cambodge, Cochinchine sông Mékong, các bộ lạc Tây Nguyên, nhưng phần Vịnh Bắc Bộ phía sau đảo Hải Nam còn bí mật, là vùng sẽ dành cho các nhà thám hiểm mai sau. Các nhà hải hành rời đảo tiếp tục hành trình trở về Lisbonne.
1.
Thần Phébus đánh xe vàng,
Người tình ánh sáng, của nàng Larrissienne.*
Đến hồ lớn Témistion,*
Bên bờ biển của Tây phương lên rồi.
Bờ gió mát, nhẹ làn hơi,
Mặt trời nóng bức khô nơi cánh đồng.
Favonius dịu cơn nồng,*
Hoa lài, hoa huệ rũ cành lại tươi.
2.
Các long nữ và người yêu,
Con tim sung sướng tay dìu trong tay.
Về chốn huy hoàng lâu đài,
Bạc vàng quý báu sáng ngời ánh dương.
Nữ Hoàng sai đặt cổ bàn,
Cao lương mỹ vị ngập tràn hương thơm.
Thết đãi hải hành anh hùng,
Đắp bồi sức lực tiêu hoang ngày về,
3.
Trên ghế trang trọng pha lê,
Khách mời từng cặp ngồi kề bên nhau.
Đầu bàn đôi ghế nâng cao,
Dành riêng Thần nữ, anh hào Gama.
Kẹo bánh thần tiên thanh tao,
Ai Cập Cổ đại danh cao, chẳng bằng.
Mâm vàng bày các thức ăn,
Kho tàng Atlantique được dùng mang ra.*
4.
Rượu ngon mùi vị thơm tho,
Falerne nước Ý cũng chưa sánh bằng.
Như thức uống các thiên thần,
Các thần bất tử vui cùng Thần Vương.
Nước cam lồ đựng trong bình,
Bọt gợn sóng, nước lạnh cùng pha chung.
Sủi bọt tươi mát tận cùng,
Một thoáng vui sướng tâm hồn ngất say.
5
Kể ngàn câu chuyện đùa vui,
Nụ cười hiền dịu, nói lời ấm êm.
Vui giữa thời trân dọn lên,
Bao niềm vui sướng càng ngon tình nồng.
Cũng không thiếu các cung đàn,
Giống như vương quốc trên trần dưới kia.
Làm quên khổ nhọc trải qua,
Nhân ngư tiên giới tiếng hòa du dương.
6.
Một Long nữ hát tiếng vang,
Cung đàn dịu ngọt hòa âm theo lời.
Tiếng cao vút vòm lâu đài.
Tiếng ca thanh thoát lòng người mê say.
Gió như lặng thổi phút giây,
Nước như róc rách bên tai thì thầm.
Ru êm các loài thú rừng,
Ngủ say trong chốn hang cùng thiên nhiên.
7.
Tiếng vang vút cõi thần tiên,
Tương lai hùng viết nên thiên sử vàng.
Thần Protée tiên tri rằng :*
Quả cầu trong suốt số phần định nên.
Vì Jupiter đã ban ơn,
Thấy trước Đế Quốc Đại Dương hình thành.
Mặc khải long nữ tâm tình,
Ký ức tiên báo chiến công diệu kỳ.
8.
Kể hài ước chẳng bi ai,
Long nữ cho biết tương lai biển hồ.
Chẳng như Iopas, Démodocos,*
Người Hy Lạp, kẻ thời Carthage.
Chẳng bao giờ tưởng tượng ra,
Khẩn cầu Thần Nữ Thi Ca gửi lòng.
Calliope đỉnh Thi Sơn,
Truyền cho thi hứng việc cần viết ra.
9.
Tôi đã đến tuổi xế tà,
Mùa hạ chẳng chậm đi qua, thu về.
Tài năng, lạnh giá gần kề.
Bớt phần vui vẽ, đam mê đã mòn.
Nỗi sầu trôi tựa sông đen,
Đi vào quên lãng mơ màng thiên thu.
Nữ Thần Thi hứng ! khẩn cầu,
Hoàn thành ca ngợi anh hào quê hương.
10.
Lời ca tiên nữ kể rằng :
« Qua Đại Dương biển mở đường Gama,
Từ Tejo đoàn thuyền ra,
Đến sông Ấn Độ chảy ra biển bờ.
Các vua ngoại đạo chối từ,
Đặt gáy dưới ách người Bồ khôn ngoan.
Đã chống lại với lưỡi gươm,
Đôi tay giận dữ, sống còn ngại chi. »
11.
« Nàng còn hát về chuyến đi,
Malabars giữ quyền nơi Giáo đoàn.
Không muốn cắt đứt thân tình,
Nam tước Hiệp sĩ hợp đồng giao thương.
Làm thêm hùng mạnh Samorin.
Đem quân đánh phá phố phường nơi đây.
Lửa, sắt, bạo lực hung tàn,
Chỉ muốn thù ghét hải hành đến đây. »
12.
« Hát Bélem cập bến này,
Nhờ thuốc chữa bệnh dịch đầy nguy nan.
Đoàn thuyền quân sĩ sẵn sàng,
Pacheco hùng cứu gian nan đoàn thuyền.
Achille Bồ Đào Nha lẫy lừng,*
Đại Dương nổi sóng anh hùng chiến công.
Thủy chiến Ấn Độ ghi công,
Bao con thuyền Ấn chìm trong biển ngàn. »
13.
« Đi đến cột mốc Phương Đông,
Đồng minh ứng cứu vua vùng Cochin.
Dòng sông nước mặn uốn cong,
Đánh tan từng mảnh tan tành quân Naïres .
Quân quỷ quái, lạch Cambalon,
Trận đánh thủy chiến ghi công anh hùng.
Phương Đông chiêm ngưỡng anh hùng,
Ít ai có thể sánh cùng chiến công.”
14.
“Samorin cầu viện quân,
Vua Bipour với vua vùng Tanor.
Xuống núi Narsingue giúp cho.
Lãnh chúa danh tiếng cao to can cường.
Giữa Calicat, Cananor đóng quân.
Hai phái chống Chúa đạo vùng Tây Phương.
Cất binh tiến đến chiến trường,
Quân Naïres từ biển, đất liền Gentil.”
15.
“Pacheco dũng cảm sợ gì,
Luôn luôn thắng đất liền, khi biển ngàn.
Máu xương gục ngã nát tan,
Malabars khốn khó kinh hoàng nát tan.
Ngoại đạo cương quyết chiến tranh.
Ngược lòng dân chúng khóc than mặc tình.
Người thì cúng tế các thần,
Nhưng thần câm điếc, ảo huyền, lặng thinh.”
16.
“Bên kia thì không bẳng lòng,
Đốt đền phá phố kinh thành cháy tan.
Samorin điên cuồng tấn công,
Đội quân lâm chiến chẳng yên bạo cuồng.
Lại tấn công, lại hãm thành,
Pacheco kiêu hãnh như cùng cánh bay.
Quân hùng hiện khắp nơi này.
Làm cho quân địch tan thây tơi bời.”
17.
“Samorin đến tận nơi,
Chiến trường cổ võ mọi người chiến binh.
Một trái đạn pháo thình lình,
Gảy nát chiếc kiệu đổ tuôn máu hồng.*
Cận vệ tử trận chiến trường,
Không còn phương tiện, không còn viện binh.
Chống Pacheco kế chẳng thành,
Phản bội, thuốc độc không xong. Mệnh Trời !”
18.
“Bảy lần tiến công khắp nơi,
Trận đánh khủng kiếp chống người Bồ Đào Nha.
Luôn bị đẩy lùi chạy xa,
Quân Bồ cũng chẳng kiêu ca mõi mòn.
Họ đem quân tấn công thuyền,
Những mong cận chiến, nhảy lên trên tàu.
Thuyền nhỏ vây hảm được nào,
Mấy lần công chẳng ra sao sự tình.”
19.
“Họ đốt thuyền lửa biển hồng,
Mưu toan nhắm thẳng đoàn thuyền Bồ Đào Nha.
Quân sự, tài năng Pacheco,
Đã ngăn chận được mưu đồ tấn công.
Chẳng một anh hùng tiếng danh.
Lưu được tên tuổi cho bằng Pacheco.*
Từ thời Hy Lạp cổ xưa,
Anh hùng La Mã Roma chẳng bằng.”
20.
“Có trận đánh chỉ trăm quân,
Mưu lược quân sự chiến trường thành công.
Địch quân thù hận điên cuồng,
Bị tan từng mảnh trên đường tiến quân.
Như giấc mơ, huyền thoại chăng ?
Bởi lòng tin với thánh thần tối cao.
Giúp cho các bậc anh hào,
Tấm lòng cũng cảm thanh tao anh hùng.”
21.
“Đồng Marathon, Đại đế Alexandre,*
Phá tan Darius quân đông trùng trùng.
Hay Lacédémone chỉ bốn ngàn,*
Thermopylys bảo vệ chẳng mong phá đường.
Nơi Ausonies quê hương,*
Trên cầu Coclès chận đường Toscans.
Quintus Fabius thắng Annibal,*
Có thể so sánh bằng quân Bồ Đào.”
22.
Lời tiên tri, hát nhân ngư,
Bỗng run giọng hát thảm sầu bi ai.
Giọng trầm nước mắt u hoài,
Phần thưởng bạc bẽo cho người hùng anh.
“Như Bélisaire ! người anh hùng,*
Thi Thần thương tiếc tiếng danh, tạ tàn.
Ôi danh thơm còn hư không,
Bách chiến bách thắng trử trhành đau thương.”
23.
“Bao chiến hữu vẫn nhớ thương,
Công trạng được trả : xác thân tạ tàn.
Tâm hồn cao thượng vẻ vang,
Chết vì kẻ hèn hạ tầm thường tối tăm.
Gian thần bên cạnh Quân Vương,
Ghét ganh hảm hại anh hùng là đây,
Chẳng theo công chính thẳng ngay,
Mà theo du nịnh vạ lây bạo tàn.”
24.
“Theo bề ngoài bắt hình dung,
Làm vua dễ mất công minh, sai lầm.
Thay vì Ajax thưởng công,
Mà nghe Ulysse nói năng ngọt bùi.
Rộng lượng thưởng ban cho ai ?
Nói năng nịnh bợ những lời thuận tai.
Không ban hiệp sĩ anh tài,
Mà ban cho kẻ chê bai, nịnh thần.”
25,
“Hỡi Ngài, Quân Vương bất công,
Lại riêng cho kẻ chiến công anh hùng.
Còn cận thần khác rộng lòng,
Không cho vinh dự xứng công nước nhà.
Apollon đem ánh sáng qua,
Sáng soi thế giới chói loà ánh dương.
Anh hùng bị xử bất công,
Và Ngài hà tiện tấm lòng nhỏ nhoi.”
26.
Nàng còn hát ngợi ca người.
“Tướng quân hoàng tử biển khơi lẫy lừng.
Thắng Maures thủy chiến ghi công.
Như thời La Mã tiếng danh muôn đời.
Cánh tay hùng mạnh hơn người,
Quiloa giàu có, đất trời giận căm.
Đuổi khỏi ngôi, vua gian hùm,
Lập nên vua mới chính trung thương người.”
27.
“Mombasa đất rộng xứ giàu,
Cung đình tráng lệ lâu đài nguy nga.
Sắt gươm khói lửa đi qua,
Điêu tàn trơ trụi cửa nhà tàn hoang.
Bờ Ấn Độ đầy binh thuyền,
Bộ máy kỳ lạ chống quân Bồ Đào.
Larenzo binh thuyền anh hào,
Buồm chèo trận chiến tàn hao địch thù.”
28.
“Một con tàu lớn Samorin,
Ở trên biển rộng dọc ngang lẫy lừng.
Cột kèo buồm lái vỡ tung,
Dưới tầm đạn sắt súng đồng thần công.
Quân leo lên thuyền tấn công,
Không còn chọn lựa sắt đồng kiếm lao.
Kinh hoàng trận sát chiến nào,
Bốn trăm quân địch tiêu hao trên thuyền.”
29.
“Nhưng Trời vĩnh cửu Thiên ân,
(Chỉ riêng số phận cuối cùng định nên.)
Số phận định trước ngày tàn,
Thận trọng, can đảm chẳng mang ích gì.
Vùng Chaul lửa tắt sục sôi,
Máu đào nhuộm đỏ đất trời biển xanh.
Tàu Ai Cập, Cambraïe vùng quanh,
Cũng không ra khỏi cuộc tranh sống còn.”
30.
“Tất cả hư hại hoàn toàn,
Số đông lực lượng, chẳng hơn được nào.
Lòng can đảm, quyết tâm cao,
Trải qua gió bão, thoát bao hiểm nghèo.
Anh hùng thời đại noi theo,
Tấm gương học tập đã gieo trong lòng.
Chuyện Scaeva rành rành,*
Không hàng, thịt nát xương tan rã rời.”
31.
“Chân tay rơi rụng khắp nơi,
Một phát đạn pháo tả tơi thân mình.
Bàn tay dũng cảm anh hùng,
Tấm lòng cao quý can trường còn nguyên.
Đến khi viên đạn dứt liền,
Linh hồn, thể xác chẳng còn cùng nhau.
Thoát thân tù túng bay cao,
Bay đến tận một cõi nào vinh quang.”
32.
“An bình xứng đáng tâm hồn,
Xa rời tăm tối, chiến trường lầm than.
Tấm thân như ngọn đuốc thiêng,
Dẫn đường chiến hữu đồng tâm trả thù.
Ta nghe tiếng vọng thiên thu,
Súng đồng, đạn khói mịt mù tung bay.
Vang rền trừng phạt nơi này,
Người Ấn Hồi Giáo chẳng tày xót thương.”
33.
“Người cha có đến chiến trường,
Tâm hồn lạc lõng kinh hoàng lo âu.
Dưới hai lằn đạn đánh nhau,
Tấm lòng phụ tử xuyến xao lệ nhòa.
Lòng say máu, quyết tung ra,
Máu thuyền quân địch chan hòa gối chân.
Sông Nil cũng động tấm lòng,
Sông Ấn trông thấy, sông Hằng nghe chăng ?”
34.
“Như con bò mộng tức ganh,
Khắp người máu đỏ, hung hăng vẫn còn.
Húc sừng vào gốc cây sên,
Hay cây sồi lớn, khoảng không tung vào.
Xem xét quân địch ra sao,
Trước khi quân tiến đi vào Cambraïe .
Francesco đánh Daboul tiếp qua,
Đánh xuống kiêu ngạo ba hoa quân thù.”
35.
“Dũng cảm thâm nhập vũng Diu,
Trận vây danh tiếng, mang nhiều chiến công.
Phân tán Calicut thuyền đông,
Đông nhưng yếu ớt, lưới giăng khắp miền.
Mélik Yaz nhắm vệ thành.
Đạn thần công nổ đùng đùng Vulcain.
Cho vào thế giới biển xanh,
Thăm thẳm bí mật, giữa lòng thẳm sâu.”
36.
“Nhưng Mir Hocem tiến cạnh tàu,
Sẵn sàng cập mạn, trả thù Bồ Đào Nha.
Chỉ thấy súng nổ văng ra,
Chân tay trôi nổi của nhà chỉ huy.
Mịt mù cận chiến tức thì,
Thắng trận anh dũng do tùy sấm vang.
Khói bay lửa cháy mắt trông,
Tiếng gươm sắt chạm, hét trong mịt mùng.”
37.
“Nhưng than ôi ! Sau chiến công,
Tai nạn đen tối, tôi trông thảm buồn.
Không về Tajo quê hương,
Con người anh dũng vinh quang chẳng còn.
Mũi Bão Tố đã vùi thân,
Thịt xương ở lại, nhưng lòng khắc ghi.
Can trường dũng cảm ai bì.
Ai Cập, Ấn Độ chẳng cướp đi anh hùng.”
38.
“Cafrès man rợ dã man,
Không xao động, trước nguy nan đến gần.
Nỏ, súng, nghệ thuật chiến tranh.
Gậy chỉ huy đã nên công trận tiền.
Thượng Đế bí mật khó lường.
‘Bạc mệnh đen phận’ vẫn thường gọi tên.
Trí óc người, không hiểu nên.
Chỉ là ân phước cõi trên Chúa Trời.”
39.
Nàng Long nữ cất cao lời :
“Ánh sáng nào chốn nước trời Melinde.*
Đỏ ao máu tung phố thành,
Lamo, Ojas và cùng Brava.
Đến lượt Cumba chan hòa,
Ôi ai có thể quên ta, quên người.
Biển Nam Cực bến bờ trôi,
Phương Nam danh tiếng, Saint Laurent thời mang tên.”
40.
“Ánh lửa vũ khí long lanh,
Albuquerque thấy Persans d ́ Ormuz.*
Can trường đau khổ phận chi,
Nổi loạn chống lệnh quân khi thi hành.
Còn như nghe tiếng tên băng,
Trong không khí nhắm vào quân địch thù.
Trời cao phận định thiên thu.
Giúp cho Giáo Hội giảng rao Tin Mừng.”
41.
“Dù cho núi muối cũng không,
Ướp thân xác chết địch trong chiến trường.
Ngập bờ, trên sóng Gérum,
Nơi Maizcarte và cùng Calayde.*
Chỉ riêng sức mạnh cánh tay,
Bài học uốn cổ, khoanh tay cúi đầu.
Mĩa mai Vương quốc khẩn cầu,
Barahem triều cống trân châu giá vàng.”
42.
“Cành nguyệt quế đón vinh quang,
Thưởng công chiến thắng trên vòng trán cao.
Khi thấy bóng ảo huyền nào,
Tấm lòng sợ hãi thế nào hổ ngươi.
Đảo Goa danh tiếng là nơi,
Chủ quyền đã nhượng cho người vinh quang.
Tưởng cơ chiếm lại hoàn toàn,
Số phận thần Mars, sức tàn hụt hơi.”
43.
“Về cố thủ, ẩn mình thời,
Con đường hầm nhỏ qua nơi tường thành.
Lửa, đạn chọc thủng lao đâm,
Lưỡi gươm đẩm máu, đấu tranh kiên cường.
Quân Maures và quân Gentils,
Sư tử bụng đói tấn công bạo tàn.
Như Bò mộng ngày vinh quang,*
Thánh Catherine Ai Cập vẫn hằng nhớ tên.”
44.
“Số mệnh chẳng thể lãng quên,
Malacca eo biển đoàn thuyền đi ngang.
Đỉnh cao giữa chốn Bình Minh,
Tất cả giàu có mênh mông đất liền.
Tên thuốc độc tẩm bắn lên,
Và ngọn dao criss chẳng thành công đâu.*
Malais đâu người thương yêu,
Javanais can đảm khẩn cầu Bồ Đào Nha.”
45.
Nhân Ngư còn hát câu ca :
“Vinh danh Arbuquerque và chiến công.
Nén cơn giận, kết án lòng,
Để lại danh tiếng vòng quanh biển ngàn.
Chỉ huy cao cả lệnh ban,
Số phận tranh đấu, vinh quang chung cùng.
Viễn du việc góp phần đồng hành.
Mười hai chiến hữu chung lòng góp công.”
46.
“Kẻ từng vinh quang đấu tranh,
Trải bao nguy hiểm chiến công mỗi ngày.
Đói khát, gió bão qua đây,
Dù bao gian khổ, thẳng ngay phục tùng.
Thật bất nhân xấu xa lòng,
Mới trừng phạt lính tử hình tội mang.
Cho tội phạm nhỏ thanh niên,
Tình yêu yếu đuối, rộng lòng thứ tha.”
47.
“Lỗi lầm chẳng nặng, xấu xa :
Loạn luân, cưỡng hiếp đàn bà, gái trinh.
Cũng chẳng xấu hổ ngoại tình.
Với người nô lệ thấp hèn da đen,
Ghen tuông, khắc khổ trở thành,
Man rợ và cả bạo tàn người ta.
Chỉ huy kiềm chế xãy ra,
Làm nhơ tai tiếng thật là xấu xa.”
48.
“Alexandre thấy thứ phi Campase,*
Apelles họa sĩ say sưa vẽ nàng.
Rộng lòng trao tặng giai nhân,
Đền ơn, họa sĩ giúp công lớn thành.
Cyprus giao bạn giai nhân,*
Panthé lợi phẩm chiến công đánh thành.
Ngờ đâu bạn đã xiêu lòng,
Dù bạn thất hứa, lỗi lầm thứ tha.”
49.
“Vua Perse đã nhìn thấy xa,
Amour chiến trận bạn đà giúp công.
Tha thứ việc nhỏ lỗi lầm,
Làm nên việc lớn hoàn thành chiến công.
Baudouin cưỡng Judith hôn nhân,*
Cha nàng, vua Charlemagne rộng lòng.
Đền ơn hiệp sĩ giúp ông,
Vùng Flandre cai trị, đông dân dưới quyền.”
50.
Nhân ngư còn hát miên man :
“Soares cờ chiến dọc ngang vẫy vùng.
Chiến công Hồng Hải lẫy lừng,
Arabie sợ hãi, khắp vùng lập công.
Médina hãi hùng tởm kinh,
Gida, La Mecque cũng cùng phận chung.
Abyssime thành phố cháy bừng,
Barbora rên rĩ, điêu tàn chợ Zeila.”
51.
“Danh cổ đại đảo Taprobane,
Ngày nay tên được gọi là Tích Lan.
Sản xuất vỏ quế nồng nàn,
Khắp thế giới đến đi tìm bán buôn.
Mặc bao cố gắng giữ thành,
Một ngày bại trận sụp nhanh cơ đồ.
Trên thành trì Colombo,
Tung bay phất phới cờ Bồ Đào Nha.”
52.
“Sequeira rẽ sóng Érythée,*
Một hành trình mới đi qua mở đường.
Đế quốc lớn xứ nổi danh,
Chiếc nôi Candace, Nữ hoàng Saba.
Massua hồ nước bao la,
Bến bờ Arquique không xa biển ngàn.
Khám phá các đảo xa xăm,*
Mang thế giới mới một vùng kỳ quan.”
53.
“Menèses Châu Phi thành công,
Thống Đốc Ấn Độ được phong một vùng.
Ormuz phản nghịch chẳng thành,
Phải trả gấp bội chiến tranh bồi thường.
Gama được mời lên đường,
Trở lại Ấn Độ một phen du hành.
Phong Bá Tước, chức Phó Vương.
Thống Đốc Ấn Độ đã tìm được ra.”
54.
“Định mệnh cần thiết xãy ra,
Chúng sinh chẳng thể tránh xa được là,
Vinh quang uy tín Hoàng gia,
Tiếng tăm thế giới tìm ra nhớ người.
Một Meneses khác, giàu tuổi đời.
Thận trọng, hiểu biết giúp nơi an lành.
Thống đốc Henri giàu sang,
Làm nên thịnh vượng tiếng danh để đời.”
55.
“Chẳng thắng Malabars không thôi,
Phá tan Coulete đồng thời Paname.
Súng thần công nổ tiếng vang,
Trả thù trận đánh bạo tàn trong tim.
Sống thật đạo đức uy nghiêm,
Thắng bảy tội, kẻ thù trong mỗi người.*
Tham vọng, xa xỉ ăn chơi,
Đạo đức toàn vẹn dù đời trẻ trung.”
56.
“Sao định mệnh gọi kiếp trần,
Mascarenhas anh hùng thay chân.
Dù bị cách chức bất công,
Lưu danh bất tử tiếng tăm mãi còn.
Số mệnh đỉnh cao quyền hành,
Tài năng giá trị đã dành chức cao.
Dù số mệnh bất công nào,
Vòng hoa ngời sáng vẫn trao cho người.”
57.
“Binton Đế Quốc xấu đời,
Malacca chiếm đóng từ thời đã lâu.
Một ngày tan vỡ còn đâu,
Bồ Đào dũng cảm phất cao ngọn cờ.
Ngàn năm thống trị sắt đe,
Sưu cao, thuế nợ, nặng nề bất nhân.
Xóa bởi quân đội hùng anh,
Tường dày, đường rộng. Lao, tên quy hàng.”
58.
“Nhưng trong Ấn Độ lòng tham,
Mặt thật tham vọng điên cuồng rơi nhanh.
Kẻ thù của Đấng Vạn Năng,
Không cao phẩm giá, trở thành gian manh.
Nói xấu, vu cáo, thấp hèn,
Công bằng trung chính coi không ra gì.
Không thể thắng được bởi vì :
Chân lý chiến thắng thực thi vẹn toàn.”
59.
“Sampaïo không thể quên,
Anh hùng hãnh diện chiến công lạ kỳ.
Đánh như sấm sét, dù khi
Trên biển đông nghẹt thuyền đi kẻ thù.
Bacanor đẩm máu mặc dù,
Malabar đã gieo sầu thảm thương.
Đánh Cutral đông chiến thuyền,
Bại trận thảm hại trốn trên biển ngàn.”
60.
“Cũng thế, thành Diu binh thuyền,
Sức mạnh uy lực rung miền thành Chaul.
Mắt nhìn, một thoáng chẳng còn,
Heitor da Silvera đã đánh tan tơi bời.
Hector của Bồ Đào Nha,
Ngày sau bên biển Cambaïe lũy thành.
Tai họa của Guzarates,
Như Hector bảo vệ lũy tường thành Troie.”
61.
“Sampaio kế tiếp Cunha,
Tiếp tục giềng mối nước nhà vinh quang.
Xây dựng Chaul tháp, lũy tường,
Làm cho run sợ Diu thành lừng danh.
Qui hàng thành trì Bassaim,
Chẳng cần đổ máu leo thành tiến công.
Mélik than thở khi nhìn,
Hào lũy vững chắc chiếm bằng thanh gươm.”
62.
“Noronha tiếp sau ông,
Thành Diu đã được hoàn toàn giải vây.
Dân Rumains phiêu lưu từ đây,
Antoine da Sivera bảo vệ ngày giúp dân.
Khi Noronha từ trần,
Gia tài sự nghiệp lãnh phần Gama,
Thống Đốc Đế Quốc Bồ Đào Nha.
Biển Hồng Hải đổi hồng ra sắc vàng.”
63.
“Étienne hậu duệ tiếng danh,
Nối nghiệp nổi tiếng từ thành Brésil.
Trừng trị cướp biển chiến công,
Cướp biển gốc Pháp du hành phương đông.
Chỉ huy biển Ấn Độ Dương,
Đánh thành cao ngất che vùng Damon.
Tiến công đánh vỡ cửa thành,
Sau trận mưa lửa quân lần lượt qua.”
64.
“Vua Cambaïe hãnh diện là,
Thành Diu giầu có xa hoa được nhường.
Để được giúp đỡ luôn luôn,
Chống Mogol mạnh trên đường xâm lăng.
Nhiệt thành nồng cháy trong lòng.
Nơi Potentat đoàn quân chận đường,
Vua Calicut buộc lui quân,
Chiến trường đẩm máu chiến binh tan tành. “
65.
“Phá tan thành phố Repelin,
Vị vua trốn chạy, vệ quân bỏ thành.
Trận chiến gần mũi Comorin,
Hoàn thoàn thắng lợi chiến công lẫy lừng.
Đội thuyền chính Samorin,
Lửa hồng bốc cháy hải quân tan tành.
Cận chiến tơi bời lửa gươm,
Béadala thấy tang thương Mars Thần.”
66.
“Sau khi dẹp kẻ thù chung,
Ông cai trị Ấn Độ trong vương quyền.
Chẳng còn kháng cự nguy nan,
Tất cả run sợ trước ông, im lời.
Chỉ Baticala giận thôi,
Badala nghiêm khắc đến nơi trị trừng.
Máu chảy thân xác đầy thành,
Lửa thần công bắn tan tành lầu dinh.”
67.
“Martin tên từ Mars Thần.
Đấu tranh xuất sắc trị dân tốt lành.
Hội đồng sáng kiến khôn ngoan,
Thưởng công binh sĩ can trường đấu tranh.
Castro nối tiếp tiếng danh,
Lòng cao thượng vẻ vang Bồ Đào Nha.
Thành Diu tàn phá đã qua,
Được dựng lại mới nguy nga huy hoàng.”
68.
“Persan háo chiến gây hờn,
Abyssim tàn phá và cùng dân Roumes.
Còn mang tên là dân Rome.
Phong tục, ngôn ngữ mãi còn khác nhau.
(Vì ngàn bộ tộc khác nhau)
Hợp đồng chung lại cùng nhau chống Trời.
Một nhóm người tranh nhau thôi,
Thề dìm biển máu lũ người quặp râu.”
69.
“Pháo thần công khủng kiếp câu,
Máy bắn đá, mìn chôn sâu khắp vùng.
Macarenhas đối cùng,
Quân tiến liên tục chết không sợ gì.
Cuối cùng đã đến một ngày,
Castro giải phóng gian nguy chẳng sờn.
Giá đã hy sinh các con,
Vì Chúa đạt đến tiếng danh vĩnh hằng.”
70.
“Fernand quý tộc xuất thân,
Dưới giông bão lửa thét gầm xung phong.
Làm tan vỡ cả thành tường,
Tấm thân tan nát hồn lên thiên đàng.
Álvaro, đông lạnh giá băng,
Biển đang dậy sóng bão giông điên cuồng.
Từ biển cập bờ tấn công.
Vượt qua sóng gió thắng quân địch thù.”
71.
“Binh thuyền chợt đến bất ngờ,
Đoàn quân còn lại, quân Bồ tấn công.
Cả sức lực và tài năng,
Một trận quyết định hung hăng cuối cùng.
Chẳng cần vượt cửa trèo tường,
Một đoàn binh mạnh hùng cường tiến quân.
Ký ức ghi khắc trong hồn,
Văn thơ chẳng kể tỏ tường chiến công.”
72.
“Castro thắng, chẳng ai bằng,
Vua Cambaïe hùng mạnh buộc lòng hiệp thương.
Ký kết thân hữu hòa bình,
Dù cho sức mạnh tượng binh hùng cường.
Hydal Khan kém bảo vệ thành,
Trước sự trừng phạt biển bờ vùng Dabul.
Ponda trốn chạy vào rừng,
Cũng không thoátkhỏi truy lùng đoàn quân.”
73.
“Các dũng sĩ, các anh hùng,
Cũng điều xứng đáng tiếng danh diệu kỳ.
(Theo gương Thần Mars hăng say.)
Thưởng vui lạc thú, đảo bày tiệc đây.
Ngọn cờ chiến thắng tung bay,
Trải qua bao nổi khổ thay bão bùng.
Tìm được vui thú an lành,
Xứng đáng cái giá nhọc nhằn đã mang.”
74.
Vỗ tay ca ngợi Ngư tiên,
Một đoàn hợp xướng tiếp liền tiếng ca.
Ca ngợi tình yêu thiết tha,
Vinh quang tranh đấu vượt qua hiểm nghèo.
Hát rằng : Vòng xe luân hồi,
Gia tài tốt đẹp con người hùng anh.
Chẳng ai lấy mất tiếng danh,
Đời đời còn nhớ vinh quang hào hùng.
75.
Sau khi vui thú tiệc trần,
Khát khao thân xác, thấy nhìn du dương.
Lời ca ngào ngọt dịu êm,
Những điều cao cả nàng còn tạo ra.
Téthys duyên dáng kiêu sa,
Nàng còn mong yến tiệc quà xứng hơn.
Ngày vui sung sướng qua nhanh,
Và nàng cất tiếng nói cùng Gama:
76.
“Các thần cao cả muốn là,
Cho Nam tước được thấy qua mắt trần.
Điều không thể đạt dù bằng,
Hảo huyền khoa học, trí khôn con người.
Thảm thương, sai lạc mà thôi,
Không yếu đuối, hãy theo tôi, coi chừng.”
Nói rồi nàng dẫn qua vùng,
Hoang vu xa lạ bước chân con người.
77.
Đi không xa đến đỉnh đồi,
Cánh đồng bích ngọc trải dài mênh mông.
Sắc màu hồng ngọc dưới chân,
Tưởng chừng cất bước trên vùng đất thiêng.
Đến nơi, chợt nhận ra liền,
Lững lơ một quả cầu tròn trên không.
Ánh sáng rực rỡ vô cùng,
Ở giữa cũng thấy, rõ trong như ngoài.
78.
Chẳng phân biệt vật chất gì,
Nhưng nhiều quỹ đạo quay thì biệt phân.
Như tụ hội bởi đủa thần,
Một trung tâm điểm của chung mọi vòng.
Tự quay chung quanh chính mình,
Khi thì hạ thấp khi hình cao nâng.
Chẳng bao giờ đi xuống lên,
Một mặt luôn cõi thiêng cùng thủy chung.
79.
Cùng một thể, dựa chính mình.
Tóm lại một mẫu sinh thành tạo ra.
Nhìn vào quả cầu, Gama,
Cảm thấy thán phục rõ là ước mong.
Thần Nữ nói với ông rằng :
“Vũ trụ thu nhỏ tầm nhìn ở đây.
Người thấy khát vọng nơi này.
Từ đâu người đến, người đi thế nào ?”
80.
“Máy vũ trụ lớn biết bao !
Không gian vật thể, thế nào tạo ra.
Cao sâu kiến thức của ta,
Nguyên tắc kỳ hạn, chẳng thể mà định phân.
Đường vòng, phẳng trơn, cầu tròn.
Ấy là Thượng Đế, nhưng không thể nào.
Chẳng thể nghe, biết ra sao,
Khoa học nhân loại, chưa vào đến đây”.
81.
“Quỹ đạo lớn đầu tiên này,
Chứa nhiều quỹ đạo nhỏ ngay trong lòng.
Phát ra một ánh sáng, trông
Thật là rực rỡ, mắt nhìn chói chang.
Ấy là lý trí khiêm nhường,
Gọi danh là cõi Thiên đường Trời Cao.
Các hồn trong trắng thanh tao,
Tự nghe thấy, chẳng cõi nào tương đương.”
82.
“Là nơi ngự trị vinh quang,
Các thần bất tử chính danh thiên đàng.
Ta, Saturne, Janus, Jupiter, Junon,
Mù quáng huyền thoại trần gian đặt bày.
Thi hứng vần thơ mê say,
Du dương mua bán xưa nay cõi người.
Những chuyện tưởng tượng mà thôi,
Tên chúng ta đặt những ngôi sao trời.”
83.
“Trật tự thần thánh cõi Trời,
Jupiter phán quyết nơi Thiên Đình.
Ngàn trí tuệ đấng cao minh,
Bao gương sáng suốt chí tình đường đi.
Dạy dỗ khoa học tiên tri,
Trí tuệ sáng suốt là khi đúng đường.
Trí tuệ xấu lầm lạc đường,
Biết bao nhiêu những uy quyền cõi thiêng.”
84.
“Từ muôn màu như bức tranh,
Khi thì dạy dỗ khi thành thú vui.
Từ con người thành Thần trời,
Thi ca cổ đại bịa đời thần tiên.
Mặc khác câu thơ thánh thần,
Gọi dàn hợp xướng thiên đình các tiên.
Đôi khi sai lạc gọi tên,
Các tên cao quí cho thần xấu xa.”
85.
“Để được nói hết thể là,
Đấng Cao Cả dẫn người qua lối này.
Bởi do nguyên nhân thứ hai,
Ta vừa kể tác phẩm đời sâu xa.
Bàn tay đáng kính bày ra,
Quĩ đạo bất động ấy là Phúc ân.
Thanh tịnh bay chuyển nhẹ nhàng,
Mắt nhìn không thấy là nguyên lực đầu.”
86.
“Vòng quay chóng mặt cuốn mau,
Tất cả hệ thống quay đều khắp nơi.
Dưới xung động đó Mặt Trời,
Đặt dưới một nhịp không trôi lạ lùng.
Không hề dứt ngày và đêm,
Dưới một quỹ đạo mong manh đều đều.
Mọi phục tùng khác hãm mau,
Đi một bước, Phébus * chạy vào hai trăm.”
87.
“Nhìn vào dưới, một hành tinh,
Thân tráng men phẳng phản vầng sáng soi.
Chuyển động đều đặn in trời,
Vòng quay lúc lắc như nơi đồng hồ.
Thấy chăng, nó còn điểm tô,
Một khăn quàng rộng và to ánh vàng.
Mười hai con thú chạm hình,
Phébus tỏa ánh sáng lần lượt trên.”
88.
“Nhìn vào nơi khác hành tinh,
Vẽ lên trời những sao giăng huy hoàng.
Nhìn Chariot, quan sát Cynosure,*
Chòm Andromède và cùng người cha.*
Con Rồng kinh hoàng không xa,*
Cassiopée sáng, trán trước đà Orion*.
Nhìn Thiên Nga chết thở than,*
Con Thỏ, Chó, Thuyền Tàu và đàn Lyre.”
89.
“Dưới bầu trời lớn đêm khuya,
Người thấy Saturne cổ xưa trên trời.
Jupiter di chuyển tận nơi,
Phía dưới Mars kẻ thù thời hung hăng.
Ngày thứ tư mắt sáng trông.
Vénus quyến rũ người mong Ái Tình.
Mercure hùng biện quân vương,
Diane dưới thấp, ba chân dung thần.*”
90.
“Quỹ đạo khác biệt chuyển vòng,
Cái thì chậm chạp nhanh dần khác nhau.
Khi thì xa trung tâm nào,
Khi gần Trái Đất xít xao quay vần.
Là ước muốn Cha Toàn Quyền,
Tạo nên Hỏa, Khí, Phong và Tuyết băng.
Người thấy bày biện bên trong,
Giữa vùng biển cả và trên đất liền.”
91.
“Chính giữa cư trú nhân gian,
Không hài lòng, táo tợn trong cuộc đời.
Vui vẽ chịu đựng khổ thôi,
Khi trên mặt đất, khi rời biển khơi.
Đối đầu may rũi cuộc chơi,
Phân chia bởi biển xa rời các châu.
Nhiều nước, vua chẳng giống đâu,
Phong tục khác biệt, khác nhau tin thờ.”
92.
Âu Châu đạo Chúa đỉnh cao,
Hơn sức, hơn các nước nào văn minh.
Xem Phi Châu ít phí phung,
Tài sản thế giới, hãy còn dã man,
Nơi Cap từ chối các anh,
Thiên nhiên sắp đặt bên Nam Bán Cầu.
Hãy xem mặt đất đâu đâu,
Dân không pháp luật như hầu vô biên.”
93.
“Đế quốc Bénomotapa rộng thênh,*
Cho đến sắc tộc da đen trần truồng.
Gongalo chịu sỉ nhục đê hèn,*
Chịu đựng cái chết thánh thần Đức Tin.
Trong bán cầu đó biết chăng,
Có nhiều kim loại hơn tràn mồ hôi.
Hãy xem hồ nước nguồn nơi,
Sông Nil phát xuất, đồng thời Cuama.”
94.
“Xem lều người mọi đen da,
Không có cánh cửa như là tổ chim.
Tin vào công lý thực chân,
Dựa vua, tin với láng giềng tự nhiên.
Hãy nhìn thân vẽ dã man,
Trông ra như đám khói đen, nhẹ lòng.
Thành Sofala họ tấn công,
Nhaya khôn khéo cũng không đương đầu.”
95.
“Hãy nhìn các hồ nước sâu,
Người xưa chưa biết khởi đầu sông Nil.
Ở đây cá sấu sống sinh,
Nuôi Abyssins dân tộc trường thành Chrétiens.*
Không thành trì (thật lạ lùng),
Mà bảo vệ tốt chống xâm lăng kẻ thù.
Đây đảo Méroé ngày xưa,
Bản xứ tên gọi bây giờ Noba.”
96.
Ở trong xứ này vùng xa,
Một người con đã thành ra anh hùng.
Chống lại quân Turcs xâm lăng,
D. Cristóvão giúp nước thoát phần nguy nan.*
Bờ Mélinde tiếp khách vàng,
Nơi bạn được đón như tình người thân.
Vùng Rapto, Orby có tên,
Tưới Quiliman đổ ra miền biển xanh.
97.
Le Cap gọi Aromate bởi dân,
Ngày nay tên gọi ra thành Guardafu.
Là nơi Hồng Hải biển vào,
Do màu đáy nước đỏ ao gọi thành.
Phân chia biên giới lằn ranh,
Á Châu cùng với đất vùng Phi Châu.
Thị trấn bên bờ Phi Châu,
Massua, Arquique và cùng Suaquem.
98.
Cuối cùng là đất Suez,
Xưa tên Hécas hay còn Arsinoé.
Trấn đóng Ai Cập binh thuyền.
Ngày nay vẫn mãi hùng cường phì nhiêu.
Trên sóng nước nhớ xa xưa.
Thánh Moïse đẫn dân qua lối này.
Á Châu bắt đầu từ đây,
Một vùng rộng lớn và đầy Lãnh vương.
99.
Đây núi Sinai hãy nhìn,
Nơi đây có thánh Catherine mộ phần.
Toro, Gida mặn nồng,
Thiếu cả nước ngọt, khô cằn nguồn sông.
Cửa biển chật hẹp hãy nhìn,
Aden Vương Quốc nổi vùng núi non.
Arzires núi đá khô khan,
Mưa trời chẳng xuống đất, không bao giờ..
100.
Vùng đất rộng ba Arabies,
Ba dân du mục da chì ngâm ngâm.
Là nơi xuất ngựa chiến tranh,
Lanh lẹ, hăng hái, chạy nhanh, tốt dòng.
Nhìn vào vùng khác bên trong,
Ba Tư là xứ gọi vùng tiếng danh.
Bên cạnh nổi tiếng phố thành,
Fartage tên gọi mũi vùng nhô ra.
101.
Hãy nhìn đây xứ Dofar,
Nhựa hương thơm nhất dành cho bàn thờ.
Mũi Ras-el-Gar trên bờ.
Không một sinh vật cằn khô bãi hồ.
Bắt đầu Vương Quốc Ormuz,
Khỏi cần rời bỏ bãi bờ biển xanh.
Nơi tàu chèo Turcs tan tành.
Gươm Castelo Branco đánh chiến công lẫy lừng.*
102.
Mũi Asaboro vịnh Ba Tư,*
Nhà hàng hải gọi bây giờ Mossandon.
Ngõ vào biển Arabie,
Và vùng tươi tốt Ba Tư đất màu.
Đảo Baharem ngọc châu,
Sinh từ đáy nước, sắc màu bình minh.
Sông Tigre sông Euphrate hợp dòng,
Chảy vào biển mặn qua vùng bình nguyên.
102.
Ba Tư Đế Quốc mênh mông,
Luôn luôn lưng ngựa trên đồng chiến chinh.
Đỏ mặt thẹn với kiếm đồng.
Nếu không cầm lấy cán gươm sẵn sàng.
Hãy nhìn đây đảo Gérum,
Thời gian tác phẩm công trình thiên nhiên.
Armuze thành phố dựng nên,
Kế thừa truyền thống vinh quang anh hùng.
104.
Nơi đây xuất hiện người hùng,
Dom Felipe de Meneses lẫy lừng tiếng danh.
Mang ít Bồ Đào Nha quân,
Persan de Lara cũng bại vong chiến trường.
Chứng minh gươm sắc hùng cường,
Dom Pedro de Sousa thao lược anh hùng thanh gươm,
Ampaza đổ nát kinh thành,
Chỉ bằng sức lực anh hùng đôi tay.
105.
Đi qua eo biển mũi này,
Jasque tên gọi, Carpelle nay danh là.
Mặt trời nắng nóng cháy da,
Đồng vườn khô héo bên sa mạc nồng.
Sinh vật trốn tránh, bỏ hoang,
Carmane nơi đó tên còn ngày xưa,
Insdotan núi không xa,
Khởi nguồn sông Ấn, chảy ra sông Hằng.
106.
Ulcine vùng đất phù sa,
Vịnh Jaquet rộng như là vầng trăng.
Thủy triều cao nước ngập vùng,
Nhưng khi rút xuống thật nhanh bãi bờ.
Đây xứ thịnh vượng Cambaïe ,
Sâu vào vịnh lớn nên thơ ngắm nhìn.
Ngàn thành phố, số phận dành,
Đất người sẽ đến rất gần tương lai.
107.
Bờ biển Ấn Độ chạy dài,
Mũi Comorin cuối biển trời phía Nam.
Tên khác Cori gọi tên,
Đối diện Taprobane đảo, Ceylan nay là.
Đến trong vùng người Bồ Đào Nha,
Trải qua biển rộng cách xa muôn trùng.
Đạt đến thành công lạ lùng,
Một lãnh địa rộng hợp đồng giao thương.
108.
Các vùng đó người đã trông,
Sông này, sông khác nhiều Vương quốc đời.
Có Vương quốc theo Đạo Hồi.
Còn những nơi khác tin nơi tượng thần.
Pháp luật ma quỷ tạo thành,
Narsinga thánh tích còn giữ nguyên.
Nơi Thánh Thomas ban phúc ân.
Thánh đồ tay đút vào sườn Jésus.
109.
Đây kinh thành Méliapour,
Xinh đẹp rộng lớn sống trong sang giàu,
Tôn thờ thần tượng cổ nào,
Như bao nhiêu kẻ điên rồ ngày nay.
Ở xa bờ biển nơi đây,
Thời Thomas đến xứ này ra sao ?
Tim Mừng thế giới giảng rao,
Qua ngàn vùng đất chốn nào thế gian.
110.
Đến đây rao giảng Tin Mừng,
Người chết sống lại, chữa lành bệnh nhân.
Một ngày nhân thủy triều lên,
Thân cây to lớn lềnh bềnh dạt trôi,
Vua muốn kéo gỗ dựng xây,
Phải cần nhờ sức cánh tay con người.
Cột dây kéo gỗ tận nơi,
Còn dùng thêm cả sức voi kéo vào.
111.
Khúc gỗ to nặng cây cao,
Bao nhiêu sức lực chẳng sao kéo về.
Không còn phải biết cách nào,
Thomas cầu khẩn nương vào Jésus.
Ở quanh thân gỗ cột dây,
Bỗng dưng phép lạ, thân xoay dễ dàng.
Kéo vào tận nơi dựng đền,
Ngôi đền tráng lệ dựng nên huy hoàng.
112.
Biết chăng niềm tin vững vàng,
Cũng làm núi điếc trở nên chuyển mình.
Núi vâng lệnh lời thánh nhân,
Như Jésus giảng dạy có bằng cớ đây.
Đám đông xúc động tỏ bày,
Brahmânes biết được điều này khó tin.
Trước phép lạ của thánh linh,
Họ lo ngại mất uy quyền cấp trên.
113.
Thầy tu giận dữ rũa nguyền,
Tìm mọi cách chống Thánh Tông Đồ này.
Bao nhiêu mưu kế đặt bày,
Ông chẳng mắc phải có hay chẳng còn.
Thủ lãnh “dây nhao” quấn lên.*
Âm mưu thất bại trở nên hận thù.
Bảo mọi người : Ấy kể thù,
Đạo đức sai lạc, đui mù dữ hung.
114.
Hắn giết con, vu cáo thành,
Thomas vào tội sát nhân hành hình.
Bằng chứng dối, vẫn thường tình,
Tông Đồ cầu khấn thương lòng trắng trong.
Bị vu họa chẳng ai bênh,
Chỉ hy vọng Đấng Vạn Năng giúp mình.
Trước nhà Vua trước quan nhân,
Một phép lạ mới ngạc nhiên mọi người.
115.
Đứa bé chết trong quan tài,
Bật dậy sống lại nói lời tự nhiên.
Ai chính là kẻ sát nhân,
Chân lý là một Đức Tin Chúa Trời.
Jésus bị đóng đinh cứu đời.
Cảm ơn Thomas, bé ngây thơ thốt lời :
Ai giết tôi, ai cứu tôi,
“Chính cha tôi đã giết tôi”, trẻ rằng .
116.
Trong sự thán phục ngạc nhiên,
Nhà vua cùng với các quan đình thần.
Muốn nhận rữa tội nước thiêng,
Hôn áo Thomas, người riêng cầu Trời.
Brahmânes thù hận thêm thôi,
Loài ký sinh muốn cắn người chẳng tha.
Quyết dứt điểm giết Thomas,
Khích kẻ thô lỗ giết Ngài dã man.
117.
Một ngày Ngài giảng trước dân,
Họ vào kích thích đám đông đang chờ.
Một cuộc ấu đã giả vờ,
Như Chúa bị bắt vu vơ tiếng lời.
Ngài tử đạo và lên Trời,
Một trận mưa đá xuống Ngài, thánh nhân.
Một người đồng bọn ác tâm,
Dùng lao đâm thẳng vào tim của Ngài.
118.
Sông Hằng, sông Ấn khóc Ngài,
Khóc người mãnh đất đi hoài bước chân.
Và còn khóc mãi ngàn năm,
Linh hồn như Đức Thánh Tin giảng lời.
Bao nhiêu thiên thần cõi Trời,
Yêu thương chờ đón hát cười vinh quang.
Cầu xin ơn Đấng Vạn Năng,
Luôn luôn cứu giúp dân Bồ Đào Nha.
119.
“Và người tiếm đoạt danh là,
Tự xưng sứ giả bao la cõi Trời.
Thomas ở trên cõi đời,
Ngài đà phổ biến Ngôi Lời thế gian.
Là muối mặn cho linh hồn,
Vì sao đành chết ở trong xứ người.
Quê mình chẳng tiên tri thôi,
Ngài đi gieo muối khắp trời từ đây.”
120.
“Ngừng kể những đau thương này,
Trở lại với những đường đi biển ngàn.
Với thành phố tiếng danh vang,
Sông Hằng dòng nước mênh mang chảy vào.
Narsingue vương quốc mạnh giàu,
Orisa dệt vải vóc nhiều đẹp xinh.
Cuối vịnh là nơi sông Hằng,
Sông danh tiếng đến biển xanh mặn nồng.”
121.
“Sông Hằng chết như đến gần,
Người Ấn tắm gội trong dòng nước thiêng,
Dọn sạch lòng kiếp trần gian,
Tất cả tội lỗi đã mang trong đời.
Chittagon phong phú nhất thời,
Bengal hãnh diện là nơi đất giàu.
Càng về Nam bờ đổi mau,
Càng xuống càng hẹp mũi sau tận cùng.”
122.
“Nhìn đây vương quốc Arracan,
Tỉnh Pégou tự xa xăm còn truyền;
Loài quỉ xấu xa sống sinh,
Đàn bà và chó giao hoan mà thành.
Xứ này người đàn ông mang,
Một chiếc lục lạc nơi dương vật mình.
Tục lệ do một nữ hoàng,
Cách để kiềm hảm dâm tình gớm đâu.”
123.
“Đây Tavai nơi khởi đầu.
Siam vương quốc rộng giàu dài ra,
Ténassari và Quéda,
Đất sản xuất tốt chỉ là hồ tiêu.
Đây Malacca biển eo,
Xa hơn danh tiếng nơi neo đậu thuyền,
Gần biển lớn các tỉnh vùng,
Thành chợ danh tiếng đến cùng đổi trao.”
124.
“Chuyện xưa truyền nói thế nào,
Sóng thần phong lớn đổ vào nơi đây,
Tách ra đảo Sumatra này,
Người xưa còn thấy hai nơi nối liền.
Chersonèse đó gọi tên.
Cát đầy kim loại long lanh sắc vàng.
Còn gọi Chersonède vàng,
Có người khác gọi tên là Ophir.”
125.
“Điểm gần đó Singapour.*
Đường qua chật hẹp dành cho thuyền tàu.
Cynosure đường đi mau,
Qua khỏi nơi ấy hướng vào Bình Minh.
Vương Quốc Patan, Penang,
Siam nối tiếp còn trông nhiều vùng.
Nhìn sông Mei-Nam uốn cong,
Nước vào hồ lớn ấy vùng Chia-Mai.*”
126.
“Vùng đất rộng ngàn quốc gia,
Không thể biết hết tên là ra sao.
Một vùng rộng dân cư Lào,
Chính giữa dãy núi chạy theo rất dài.
Sắc tộc Ava và Berna,
Núi xa thăm thẳm buôn nhà sắc dân.
Guéos phong tục dã man,
Ăn thịt người nướng bằng xiên sắt hồng.”
127.
“Đây Cambodge dòng Mékong,
Cái tên có nghĩa là Thần Nước Sông.
Mùa hạ nước ngập tràn đồng,
Nước từ các phụ lưu sông chảy vào.
Gieo lụt lội, nước dâng cao,
Nước dâng như tựa đi vào sông Nil.
Dân chúng đây tin tưởng rằng :
Thú vật khi chết cũng thành đầu thai.”
128.
“Dòng sông mang đến phù sa,
Nơi đây dân hát tiếng ca thảm sầu.
Cuộc đời tranh đấu thương đau,
Hát trên sông nước qua mau nhọc nhằn.
Cho tan đau đớn trong lòng,
Qua cơn nghèo đói kinh hoàng hiểm nguy.
Âm vang ca tụng đàn tỳ,
Bổng trầm vui sướng, vơi đầy xót xa.”
129.
“Nước dọc biển gọi Champa,
Khu rừng quí báu hương xa quế trầm,
Còn nhiều bí mật Cochinchine,
Hải Nam chưa biết một vùng vịnh sâu.
Đến vùng rộng Đế quốc Tàu.
Mênh mông giàu có hàng đầu chẳng sai.
Xứ nhiều khí hậu khác nhau,
Từ vùng nhiệt đới đi vào cực băng.”
130.
“Và đây Vạn Lý Trường Thành,
Công trình khó tưởng để ngăn quân thù.
Công trình vĩ đại thiên thu,
Biểu tượng đây sức mạnh giàu đế vương.
Nhà vua vâng theo lời dân,
Không từ Hoàng tử cũng không cha truyền.*
Chọn người dũng cảm anh hùng,
Khôn ngoan đạo đức thánh nhân trị vì.”
131.
“Nhiều vùng đất chưa biết gì,
Vẫn còn chờ đợi đến ngày tìm ra.
Không quên ở trên biển xa,
Thiên nhiên các đảo khó mà biết, trông.
Đảo này ngoài biển nửa chừng,
Không xa Tàu đó là vùng Japon.
Nơi đây nhiều mỏ bạc ròng,
Tôn sùng Thần Đạo luật thần thiêng liêng”.
132.
“Nhìn ra các đảo Biển Đông,
Có nhiều quần đảo đông dân trong vùng.
Nơi đây nhiều núi lửa phun,
Tidore, Tahata đỏ hồng không gian.
Nơi đây có cây đinh hương,
Được mua bằng máu của dân Bồ Đào.
Có phượng hoàng vàng bay cao,
Chỉ có khi chết mới rơi đất bằng.”
133.
“Đảo Banda như tráng men,
Nhuộm mùa trái chín đua chen sắc màu.
Chim muông tung cánh đua nhau,
Bay về mổ trái xanh cao trên cành.
Bornéo, hãy ngắm nhìn,
Nhựa như nước mắt chảy tuôn cứng dần,
Long não danh tiếng gọi tên,
Một sản vật quý tiếng danh đảo rừng.”
134.
“Đây Timor cây thuốc trồng,
Rừng cây thơm phức gỗ trầm thoảng hương.
Sonde đảo lớn xa trông,
Che nhiều bí mật của vùng Úc Châu.
Người ở trong rừng hiểm sâu,
Nói rằng trên đảo nhiệm mầu con sông,
Trên vùng nước chảy xuôi dòng,
Thân cây hóa đá chìm trong nước này.”
135.
“Thời gian thành đảo quanh đây,
Có những ngọn lửa tung bay điên cuồng.
Có dầu chảy tựa suối nguồn,
Nhựa cây thơm phức như hương rượu mùi.
Dịu dàng hương ngát thơm hoài,
Arabie đó hương trời nhựa cây.
Có nhiều sản vật nơi đây,
Lụa mềm thêu kết bằng dây vàng ròng.”
136.
“Ceylan mây núi ngàn trùng,
Đỉnh non cao ngất mắt trông mịt mờ.
Núi cao dân chúng tôn thờ,
Có bàn chân Phật trên bờ đá thiêng.*
Đảo Maldives từ biển nổi lên,
Có khu rừng quế cây thang thuốc trồng.
Có quả kỳ lạ trong rừng,
Chống lại thuốc độc khi ăn hết liền.”
137.
“Socotora trước biển Hồng,
Có trái lô hội nổi danh nơi này.*
Biển có nhiều đảo nơi đây,
Dọc bờ cát trắng chạy dài Phi Châu.
Đá nhựa hổ phách đẹp màu,
Phương Đông ưa thích kết vào nữ trang.
Đảo danh tiếng Saint Laurent,
Ngày nay tên đã gọi thành Madagascar.”
138.
“Tôi kể các vùng chính qua,
Phương Đông chưa biết đi qua còn cần.
Mở cánh cửa biển mênh mông,
Người đi thám hiểm tiếng danh anh hùng.
Ponant khám phá đi tìm,
Magellan cũng là dân Bồ Đào Nha.*
Chạm tự ái bởi nhà vua,
Vòng quanh thế giới giúp Tây Ban Nha tìm Mỹ Châu.”
139.
“Calisto đến Bắc cực ngược đầu.
Đây lục địa mới một châu chạy dài.
Hầm mỏ quý lóng lánh soi,
Sắc mầu nâu sậm sáng ngời Apollon.
Castille kề cận vinh quang,
Quay vòng đặt ách xứng danh quyền hành.
Nhiều vùng đất nước mênh mông,
Dân cư thưa thớt chiến công dễ dàng.”
140.
“Ngoài khơi chiếm hữu tỉnh vùng,
Nổi danh gỗ đỏ khu rừng hiếm hoi.
Đặt tên là Santa Cruz,
Tàu Bồ Đào đã tìm rồi đầu tiên.
Dọc theo bờ biển người dân,
Magellan đó chính tông Bồ Đào.
Hành động cao cả làm sao !
Đã khai phá được xứ giàu xa xăm.”
141.
“Đi theo đường lạnh Cực Nam,
Vượt qua là đã nửa đường cách ngăn.
Tìm thấy xứ có giống dân,
Lớn cao khác biệt sắc dân các vùng.
Xa hơn mũi hiểm đi vòng,
Magellan đặt tên mình vinh quang.
Đi vào biển rộng ngút ngàn,
Nam Cực che dấu tuyết băng lạnh lùng.”
142.
“Còn đây Bồ Đào Nha dân,
Một bước học hỏi công trình tương lai.
Hoàn thành chí lớn lòng vui,
Những điều chưa biết các người đi qua.
Bây giờ thử thách đi xa,
Xứng danh tên tuổi hùng ca muôn đời.
Xứng đáng vợ đẹp bên người,
Choàng vòng nguyệt quế tặng đời vinh quang.”
143.
Nàng rằng : “Có thể lên thuyền,
Bởi trời đủ gió biển êm thuận chiều.
Trở về đất tổ thương yêu,
Vui chào Téthys luyến lưu đảo Tình.
Mang theo trái mát thức ngon,
Về cùng tiên nữ nồng nàn dấu yêu,
Người tình vĩnh cửu yêu kiều,*
Mặt Trời sưởi ấm nắng nhiều thế gian.
144.
Mang đi ngọn gió thân thương,
Không hề nổi giận rẽ làn sóng xanh.
Về đến quê hương an lành,
Là niềm ước vọng vĩnh hằng đợi trông.
Thuyền vào Tajo cửa sông,
Mang cho tổ quốc, Quốc Vương vật quà,
Đã mua từ biển đảo xa,
Nhà vua lo ngại thiết tha đợi chờ.
145.
Hỡi Thi Thần đã đủ rồi,
Cung đàn lạc phím, tiếng tôi đã khàn.
Không vì tôi hát miên man,
Mà vì ca ngợi các chàng dẽo dai.
Ngọn lửa bốc cao thiên tài,
Đất nước hà tiện chối tai hoàn toàn.
Không biết giá trị tài năng,
Chẳng hề bảo vệ, chẳng lòng ngợi ca.
146.
Số phận nào buồn thảm ta,*
Mất lẽ hứng thú, tự mà kiêu căng.
Sao trổi dậy khí mạnh hùng,
Tác phẩm vui vẽ tấm lòng ước mong.
Quân Vương khôn khéo sáng lòng,
Dẫn dắt xứng đáng núi sông hùng cường.
So các nước điều thật chân.
Không bằng Vương quốc, kém hơn đức tài.
147.
Chống kẻ thù đến các nơi,
Như sư tử đói, bò thời hăng chơi.
Trước cơn đói, mệt con mồi,
Khua lao tên nhọn, sắt lao,lửa hồng.
Hiểm nguy thế giới tận cùng,
Bão giông mồi cá dưới dòng nước sâu.
Sa mạc nóng, vùng lạnh mau,
Người Hồi, ngoại đạo đối đầu xâm lăng.
148.
Thần dân luôn muốn sẵn sàng,
Dù Ngài xa cách vẫn luôn vâng lời.
Mệnh lệnh quân vương khiến sai,
Không cần cải lý nhanh vai thi hành.
Dưới mắt Ngài gì không thành,
Dù xuống Địa Ngục tối tăm quỷ hờn.
Để Ngài vinh dự vui lòng,
Không ngại gì chiến thắng, không bại nào.
149.
Hãy ban thưởng hạnh phúc sao,
Bởi Ngài hiện diện tự hào tiếp tân.
Mềm mỏng pháp luật đe răn,
Mở lòng bất tử vinh quang con đường.
Hãy vinh danh kẻ tài hiền,
Có đủ kinh nghiệm khả năng Hội Đồng.
Biết đủ phương tiện khi cần,
Biết được đúng lúc có hành động hay.
150.
Hãy ban thưởng kẻ thẳng ngay,
Mỗi người nhiệm vụ tỏ bày khả năng.
Tu sĩ trong sạch tấm lòng,
Nguyện cầu Vương Quốc Ngài luôn vững bền.
Giữ mình, khổ hạnh luôn luôn,
Tu tâm sám hối, lỗi lầm ăn năn.
Tham vọng như gió qua nhanh,
Thờ Chúa không kém vinh quang bạc tiền.
151.
Vinh danh hiệp sĩ hùng cường,
Vì giá phải trả máu lòng sục sôi.
Truyền bá niềm tin cõi Trời.
Đẩy xa cột móc sáng ngời Đế Vương.
Can đảm cất bước lên đường,
Chăm chỉ phụng sự chiến trường xa xăm.
Chiến tháng hai kẻ thù chung,
Con người, lao động gắng công mệt nhoài.
152.
Dù bao dân tộc sáng ngời,
Đức, Pháp, Anh, Ý cũng thôi nói rằng.
Bồ Đào Nha sinh ra thành,
Phải luôn vâng lệnh ban hành khiến sai.
Hãy dùng người kinh nghiệm đời,
Mà Ngài đã thấy lâu dài tháng năm.
Đầu óc rộng hiểu sâu thâm,
Người có kinh nghiệm biết trăm chuyện đời.
153.
Phormion triết gia anh tài.*
Thấy Annibal trật đường rầy đấu tranh.
Phân tích nghệ thuật chiến tranh,
Trước mặt vua chẳng sợ không phật lòng.
Khoa học quân sự chẳng tự nhiên,
Chẳng là ảo ảnh, mơ mòng, tưởng trông.
Hay chỉ học mà làm nên,
Mà bằng đôi mắt đấu tranh, thực hành.
154.
Nói gì về tôi, anh bàn,
Tôi khiêm nhường, tối tăm lòng, đơn sơ.
Tôi biết bài ca tuyệt vời,
Từ môi nhỏ bé dân tôi mà thành.*
Đôi khi không thiếu cao thanh,
Kiến thức tốt đẹp lẫn kinh nghiệm đời.
Đây là bằng chứng của tôi,
(Hai điều không thể song đôi đến cùng.)
155.
Phụng sự Ngài, đôi tay dâng,
Dẽo dai chiến đấu hát cùng Thần Thi.
Chỉ còn thiếu chứng nhận Ngài,
Mà lỗi đạo đức có thời gãy ngang.
Nếu Trời xanh chẳng xót thương,
Tim Ngài hạ cố nhận giùm tôi đây.
Việc ca ngợi xứng đáng thay,
Hồn tôi gợi hứng từ nay nghiêng mình.
156.
Núi Atlas có nhìn lầm,
Méduse khủng kiếp chỉ trông thấy đầu.*
Ampéluse nơi đồng sâu,*
Phá thành Maroc,Tarrudant tan tành.
Luôn luôn Thi Thần khơi dòng,
Bài thơ ca tụng thế gian muôn đời.
Như Alexandre danh tiếng Ngài,
Ganh tỵ chẳng phải phận đời Achille.*
HẾT
Paris ngày 25-5-2023
NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH
Dịch theo bản dịch song ngữ Bồ-Pháp :
CAMÕES. Les Lusiades – Os Luíadas. Edition bilingue portugais-français. Traduction du portugais par Roger Bismut. Editions Robert Lafont. Paris 2019. Préface Eduardo Lourenço. José V de Pina Martin. Introduction Roger Bismut.
DỊCH GIẢ:
NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH
Sinh năm 1951 tại Phan Thiết.
Du học Âu Châu từ năm 1970. Hiện sống tại Paris. Tốt nghiệp ngành Kinh Tế Giáo Dục. EHESS 1976. Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris Sorbonne năm 1980, môn sinh GS Lê Thành Khôi. Học Trung Văn Khoa Ngôn Ngữ Đông Phương Viện Đại Học Paris VII và Hán-Nôm tại EPHE Sorbonne Paris 1976.
Được dịp gần gũi trao đổi với Gs Hoàng Xuân Hãn, nên nối tiếp các biên khảo còn dang dỡ về Hồ Xuân Hương do văn bản Lưu Hương Ký bị ông Đào Thái Tôn cất dấu trong 40 năm. (Hồ Xuân Hương nàng là ai ? Mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du, Chân dung Hồ Xuân Hương qua 31 bài thơ tình Tốn Phong), Nguyễn Du (Nguyễn Du mười năm gió bụi, Bắc Hành tạp lục thơ đi sứ 1813 và thơ thời giang hồ 1787-1790).
Dịch thơ Đường luật và nghiên cứu các nhà thơ cổ điển thơ chữ Hán Việt Nam: Phan Huy Ích (Tinh sà kỷ hành, Cúc thu bách vịnh, 100 bài đối thoại giữa Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm) Ngô Thì Nhậm (Hoàng Hoa Đồ Phả). Nguyễn Nghi (Quân Trung Đối). Nguyễn Khản (Thơ và bản dịch Chinh Phụ Ngâm). Thơ chữ Hán Nguyễn Hành, Nguyễn Nễ, Hồ Sĩ Đống, Đoàn Nguyễn Tuấn, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Khuê..
Dịch sang thơ lục bát các sử thi:
Odyssée. Iliade của Thi hào Homère .(2005-2011). Những khúc ca thần diệu: Địa Ngục, Tỉnh Thổ, Thiên Đường của thi hào Dante Alighieri. Tiểu Thuyết Hoa Hồng của Guillame de Loris và Jean de Meun. Os Lusíades của Thi hào Luís da Camões.
Ngoài ra còn là tác giả nhiều tập thơ từ 1969, thơ Nhất Uyên được Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa. Xuân Diệu năm 1981 ký thác toàn bộ di cảo tâm sự để biên soạn Tự Điển Tình Yêu Bằng Thơ Tình Xuân Diệu. Tác giả nhiều công trình nghiên cứu về Giáo Dục Việt Nam thời Pháp thuộc và Giáo Dục Nam Việt Nam 1954-1975 về Văn bản Tuồng Hát Bội, kho tàng văn hóa Hán-Nôm Việt Nam bị quên lãng.
CHÚ THÍCH :
I. Theo thần thoại Apollon lấy Coronis, gốc ở Larisse vùng Thesalie. nàng không chung tình. Nguyên tác “nàng ngoại tình Larisienne.”
Témisstiton (nay là Ténochtilan) thủ đô Aztèques nay vùng Mexico, bao quanh bởi hồ Tescoco. Thời Camões cho rằng mặt trời lặn nơi này.
3. Kho tàng Atlantique, theo truyền thuyết có một vùng giàu có bị chìm xuống biển do núi lửa Santorin Hy Lạp nổ tên Atlantique. có thuyết khác cho rằng kho tàng của Atlas nghĩa là khu vườn Hespérides, sinh ra trái vàng.
7. Protée: Thần Biển trong Odyssée, thần tiên tri .
8. Iopas: người du tử hát kể chuyện trong triều Didon. Démodocus hát trong cung vua Alcinoos, vua xứ Phéaciens. Odyssée.
12. Achille : trong Iliade của Homère, khi sinh ra bà mẹ Thần nữ Thétys nắm hai chân, tôi trong nước sông Styx, nên mình đồng da sắt anh hùng bách chiến bách thắng, chỉ có gót chân bà mẹ không tôi được nên thành “nhược điểm tử vong”, về sau bị Pâris bắn vào gót chân mà chết. Ngôn ngữ Tây phương có thành ngữ: gót chân Achille.
17. Samorin vua Calicut thoát được, các cận vệ bị trúng đạn chết trong đó có người tiêm trầu cho Samorin.
21.* Alexandre Đại đế Hy Lạp đánh vua Darius Ba Tư, 300 năm trước Công nguyên.
* Miltiade và Léonidas.
*Các trận đánh vang danh trong lịch sử Tây Phương.
22. Theo truyền thuyết Bélisaire. tướng Justinien bị cách chức và chết trong nghèo khổ mặc dù có nhiều công trận anh hùng, ông bị mù mắt phải đi xin ăn. Truyền thuyết này không đúng năm 562 Bélisaire âm mưu chống lại Justinien bị bỏ tù, cách chức nhưng về sau lại được ân xá trả tự do. Camões tin theo truyền thuyết này khi viết về tướng Pacheco. Năm 1892 Raphaël Basto tìm ra hồi ký của chính con ông năm, 1522 Pacheco còn là Thống đốc San Jorge da Mina, khi ông hết chức được Jean III cấp cho hưu bổng.
24. Ajax và Ulysse hai anh hùng đánh trận thành Troie. Khi Achille chết bởi Pâris, hai người dành nhau vũ khí của Achille. Ulysse mưu trí nói năng giỏi thuyết phục được trọng tài phân xử, nên dành phần thắng. Ajax thất vọng tự tử. Sophocle dùng đề tài này để viết bi kịch Ajax.
26. Chuyện Dom Francisco và D. Lorenço de Almeida.
30. Scarva tướng của César bị thương nặng vẫn từ chối đầu hàng.
32. Trabuc, tiếng Ý là trabuco, bắt đầu từ chữ baliste, là vũ khí đòn bẩy để ném các đạn đá to, khởi đầu của súng pháo binh.
35. Thuyền tàu lớn, có hai hàng lỗ hai bên mạn thuyền, hàng chục người chèo mỗi bên. Việc chèo thuyền thật mệt nhọc, nên chữ galère còn có nghĩa là công việc làm thật mệt nhọc.
38. Trong Odyssée các Syrène, Nhân ngư, đầu người, mình cá, cánh chim. Sống trên một hoang đảo, thuyền đi qua lời hát các nàng quyến rũ, phải dừng thuyền và giao hoan với các nàng cho đến chết, thành xương trắng khắp đảo. Khi qua đảo này Ulysse đem sáp ong bịt tai các thủy thủ, và bảo mọi người trói mình vào cột buồm, để được nghe tiếng hát nhân ngư. Khi chàng vùng vẫy phải lấy dây cột chặt thêm, cho đến khi qua khỏi đảo. Tượng người cá tại thành phố thủ đô Đan Mạch, Nhân ngư không có cánh, chỉ đầu người mình cá. Camões tưởng tượng đến các nàng nhân ngư này.
39. Madagascar.
40. Sau trận chiến Ormuz, người ta khám phá nổi trên biển, nhiều thân xác kẻ thù bị tên của chính đội quân mình. Người ta cho rằng đây là phép lạ, tên bắn ra đã bay về giết chính quân mình, có người nêu ra giả thuyết có thể quân nổi loạn hay do lầm lẫn trong chiến trận.
43. Ngày 25 tháng 11 năm 1510 là ngày Thánh Catherine d ́ Alexandrie.
44. Dao “criss” của Java, Indonésia, lưỡi dao uốn cong xíc xắc nhiều lần.
46. Nói bóng gió đến cái chết bởi Albuquerque de Rui Dias, bắt gặp và xử một thuộc hạ phải lòng bởi một giai nhân bị bắt để đem dâng cho Nữ hoàng Bồ Đào Nha.
48. Apelles, họa sĩ danh tiếng Hy Lạp sống dưới triều Alexandre. Để vẽ thần Vệ Nữ đi ra khỏi nước ông đã đòi hỏi Campaspe, thứ phi Alexandre, làm người mẫu khỏa thân. Apelles không kiềm chế được lòng, cưỡng bức nàng. Alexandre tha thứ cho Apelles kết hôn với Campaspe, đền ơn Apelles lập nhiều công trạng.
*Cyrus vua Ba Tư, giao cho bạn là Araspe giữ nàng Panthée, một giai nhân sắc nước hương trời bắt được trong một trận đánh thành. Araspe xiêu lòng ân ái với nàng, Cyrus đã trao tặng giai nhân cho bạn. Đền ơn Araspe giúp Cyrus nhiều chiến công.
49. Baudouin, biệt danh Cánh Tay Sắt, hiệp sĩ nước Pháp, cưỡng bức nàng Judith còn trẻ góa chồng con vua Charlemagne. Nhà vua tha thứ cho Baudouin kết hôn với Judith và phong chức bá tước giao cho cai quản vùng Flandres. Baudouin cai trị giỏi, hết lòng giúp vua Charlemagne.
50. Các địa danh hai bên bờ biển Hồng Hải.
52. Éthopie. Candace là Nữ Hoàng Éthopie. Balkis Nữ Hoàng Saba, vương quốc vẫn chưa xác định rõ. Éthopie có di tích khảo cổ cho rằng hoàng cung của Saba, nhưng có thuyết cho rằng ở Arabie hay Zambézie. Vùng phía Nam Éthopie có nhiều trụ đá khổng lồ, chứng tỏ nơi đây có một nền văn minh cổ đại gần gũi Ai Cập. Tôi có đến thăm nơi này, còn dấu vết bằng chứng khảo cổ, vang danh lịch sử của Nữ Hoàng Saba.
* Diogo Lopes de Sequeira nhận lệnh vua D. Manuel tìm ra đảo Vàng, là các đảo trên Ấn Độ Dương kể cả Úc Châu.
53. Camões chống các dư luận về Meneses cai trị Tanger và việc cai trị tại Ấn Độ.
54. Bảy tội lỗi chính. Camões ca tụng Meneses anh dũng và thánh thiện thắng bảy tội lỗi chính con người, trái lại với các phê phán đương thời một Meneses đáng ghét.
59. Pero de Mascarenhas, chỉ huy Malacca được phong chức Thống Đốc Ấn Độ nhưng ông không đến nơi được. Lopo Vaz de Sampaio tạm thời thay thế đã chứng tỏ tài năng quân sự mình. Đánh thắng hai hạm đội chiến thuyền Calicut.
63. D. Martim Afonso de Sousa.
68. Đế quốc Turcs, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, Les Turcs osmalis theo Hồi Giáo từ Trung Á chiếm cả Hy Lạp và nhiều vùng Âu Châu như Albanie. Cho đến đầu thế kỷ 20. Hy Lạp mới dành được độc lập một phần đất. Tiểu Á ngày xưa thuộc Hy Lạp nay là nước Thổ Nhĩ Kỳ, đảo Chypres Hy Lạp vẫn còn bị chia đôi.
69. Sư tử tên xưa gọi cổ pháo của pháo binh.
71. Tường thành của thành trì Diu, bị quân Bồ Đào Nha bao vây và đánh vào viện quân.
78. Camões tả vũ trụ theo khám phá các nhà thiên văn đương thời thế kỷ XVI.
82. Camões bác bỏ các thần thoại Cổ Đại qua lời nàng Nhân Ngư, và cho rằng đó chỉ là các sáng tác tưởng tượng của các thi sĩ. Tuy nhiên Camões cũng phải dùng lại các thần thoại về Jupiter, Mars, Téthys, Vệ Nữ trong thi ca mình.
79. Dieu, Chúa Trời, Đấng Vạn Năng, Đấng Cao Cả.
86. Có nhiều công trình nghiên cứu dài dòng về Vũ trụ theo quan niệm và kiến thức Camoẽs theo đương thời và vẽ bản đồ hình thể vũ trụ. Từ khi qua khỏi tưởng tượng mặt đất hình vuông, chung quanh là Đại Dương, thời Cố Đại, Ptolémée đã nói đến quỹ đạo các hành tinh, Aristote cũng nói đến hành tinh thứ 10 trong Thái Dương Hệ là nơi các thiên thần và Chúa Trời. nhưng phải đến Thế kỷ XV, nhờ việc sáng chế ra tàu ba cột buồm có thể đi xa, trái đất là một quả cầu tròn đã thúc đẩy các nhà thám hiểm hải hành, đi ngược đường qua Mũi Bão Tố tìm ra Ấn Độ và đi tìm ra Châu Mỹ và vòng quanh trái đất.. Ta có thể so sánh với quan niệm vũ trụ trong Thần Khúc của Dante, Thiên Đường mỗi hành tinh trong Thái Dương Hệ là một tầng Trời. tầng Trời cuối cùng ngự trị bởi Chúa và các thiên thần.
*Phébus : Thần ánh sáng. Đi một bước, ánh sáng vào hai trăm bước.
88. Le Chariot : các vì sao sắp hàng như chiếc xe còn gọi là Chòm Đại Hùng Tinh (Grand Ourse). Cynosure là Tiểu Hùng Tinh (Petit Ourse). Cha Andromède là Céphée. Orion “le front tourmenté” bởi vì nó lặn tương ứng với mùa giông bão. Con Tàu còn gọi là chòm sao Argos.
89. *Mặt trăng ba mặt : trăng tròn, trăng khuyết một phần tư đầu tiên, và phần tư cuối cùng. Theo người khác thì Diane trên trời (Mặt Trăng), Diane trên đất (Thần săn bắn) và Diane infernal (Hécate).
*Từ Trái đất, Mặt Trăng thứ hai, sao Vénus thứ ba, Mặt Trời thứ tư và Jupiter thứ 6.
90. Theo hệ thống Ptolémée các hành tinh không hoàn toàn quay quanh một điểm trung tâm. Có vài điểm gần điểm khác xa trái đất. Hành tinh thay đổi phản chiếu ánh sáng khác nhau. Bảy quỹ đạo chung quanh trái đất có nhiều hành tinh. Mặt Trời gần trung tâm nhất, quay trong một năm, Mặt Trăng trong một tháng và Saturne trong 30 năm..
93. *Gonçalo da Silvera, giáo sĩ dòng tên, thánh tử đạo bị hành hình buộc tội làm phù thủy năm 1561.
95.*Hồ Tana. Camões xử dụng nguồn của Barros (Décades,1.10.1) cho rằng Nil, Zaire, Zambèze phát sinh từ trong một hồ. Thật ra sông Nil có hai nhánh nhập lại sông Nil Trắng và sông Nil Xanh phát nguyên từ Éthopie. Cao nguyên Éthopie như một tháp nước khổng lồ.
Dân Éthopie là một trong những nước theo đạo Thiên Chúa đầu tiên. Nước Phi Châu đánh bại cuộc xâm lăng Hồi Giáo. Bị các nước Hồi Giáo cản đường về Do Thái, họ đào núi làm nhiều nhà thờ bằng nguyên một khối đá núi, đặt tên các thánh địa Thiên Chúa Giáo di tích được Unesco công nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Có cả một bộ tộc da đen hơi đỏ tự nhận mình là người Do Thái. Thời cận đại họ không bị chiếm làm thuộc đ̣ia, họ đánh bại cả quân Ý. Éthopie nước đầu tiên trong 40 quốc gia thành lập Hội Quốc Liên, tiền thân Liên Hiệp Quốc. Cuộc cách mạng Mát xít giết vua, cải cách xã hội sai lầm dẫn đến một nạn đói khủng kiếp hàng triệu người chết đói. Ngày nay Éthopie được phục hồi, là nước đông dân 100 triệu dân.
99. Mũi (Le détroit de) Bad-el-Mandeb.
100. Le détroit d ́ Ormuz.
102. Vịnh Persique.
113. Người giai cấp Bà La Môn, quấn một sợ dây vải từ lỗ rốn lên vai, tương trưng cho dây nhao lúc trẻ trong bụng mẹ.
119. Đoạn này nhắm đến các tu sĩ Dòng Tên rất mạnh tại Bồ Đào Nha đương thời, tự cho mình là sứ giả của Chúa, Camões phê phán họ mất đạo đức khiêm nhường và trong trắng.
122. Huyền thoại Người Chó có trong nhiều sách như The Books of Sir Marco Polo của Yule Cordier..
125. Đường biển hẹp ngăn cách giữa Singapour và Sumatra.
Siam, Xiêm La : tên cũ của vương quốc Thái Lan.
Patan, Penang nay thuộc Mã Lai.
127. Sông Mékong phát nguyên từ Trung Quốc nhận nước từ nhiều phụ lưu, mùa mưa nước tràn ngập chảy về biển hồ Tonlésap, mùa khô nước trả về lại sông Mékong. Thời Camões chưa khám phá ra nền văn minh Angkor.
129. Le bois d ́ aigle.
130. * Vạn Lý Trường Thành.
*Camões nghe nói đến tại Trung Quốc ngày xưa nhà vua cai trị theo lòng dân, Mạnh Tử : « Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh ». Vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn mà không truyền cho con.. Các vị vua thời Hùng Vương truyền ngôi bằng việc : dâng sính lễ như Sơn Tinh Thủy Tinh, thi nấu ăn bánh chưng bánh dầy, các vua từ Ngô Quyền đến Lý Thái Tổ cũng truyền cho người tài giỏi.
132. Chim phượng hoàng. Oiseau de paradis nhiều màu sắc, nó bay cao chẳng thấy. Các nhà hải hành thế kỷ XV chỉ thấy khi nó chết. Vùng Thanh Nghệ Tỉnh, tức Việt Thường ngày xưa có Chim trĩ trắng, phượng hoàng đất. Trong thơ Hồ Xuân Hương có con phượng hoàng đất do một người bà con đem ra tặng nàng, còn gọi là con cắng. Hồ Xuân Hương có bài thơ vịnh cái cắn đánh nhau. Thơ Tốn Phong tặng Hồ Xuân Hương : “Biếc rụng cành ngô sân phượng múa”.
133. *Trái đậu khấu (muscade), xanh đầu tiên, khi chín như trái đào, cuối cùng thành màu đỏ thẳm. Khi còn xanh con két rất thích ăn.
*Mũ nhựa cây như cây cao su.
132. *Người Bồ Đào Nha tìm mua đinh hương, không chỉ bằng bạc, mà còn bằng bao cố gắng khổ nhọc vượt biển, bằng những trận đánh phải trả bằng máu.
134. Đảo Timor ngày nay chia hai một phần thuộc Indonésia và một phần thuộc Bồ Đào Nha, sau khi được trả độc lập, Indonésia đem quân đánh chiếm nhưng thất bại. Ngày nay Đông Timor tham gia Hội Các Nước Đông Nam Á.
135. Có nhiều loại nhựa cây : naphte, benjoin hương thơm nhiều hơn myrrhe. Nước ta chỉ gọi chung là trầm hương.
136. Người Hồi Giáo cho rằng đó là bàn chân Adam để lại khi, Adam bay lên Trời. Nhưng Ceylan là nước theo Đạo Phật, dấu tích bàn chân Phật tương truyền thường có ở những nơi theo đạo Phật. Ở Đồ Sơn trong thơ Hồ Xuân Hương cũng có nói đến bàn chân Phật trên ngôi chùa núi Đông Sơn.
* Camões theo một truyền thuyết tại xứ mặt trời mọc có dòng sông kỳ lạ, gỗ vất xuống nước thành đá.
137. Trái lô hội : aloès mùi đắng.
*Ambre, hổ phách. Nhựa thông bị chôn vùi lâu năm thành đá quý hổ phách. Phạm Đình Hổ có tên là ý nghĩa này nên ông lấy bút hiệu là Tùng Niên.
138. Thi sĩ cho rằng khi tìm được con đường hàng hải đến Ấn Độ. Bồ Đào Nha đã mở ra cánh cửa từ Phương Tây sang Phương Đông.
140. Brésil nổi tiếng về gỗ đỏ. Chữ Brésil do chữ Pau Brasil là màu gỗ nêu đỏ.
141. Thời Camões cho rằng ở Cực Nam có một lục địa.
143. Người tình vĩnh cửu yêu kiều : tượng trưng cho Đế Quốc Hàng Hải Bồ Đào Nha.
144. Các nước Éthopie, Arabie. Perse giao thương và tặng các cống phẩm cho Senhor Ấn Độ.
146. Đoạn này có ý nghĩa là : Quốc gia bị buồn thảm, mất ý chí sức sống, cần phải nghĩ đến việc lấy lại sức sống bằng ca tụng lòng can đảm các anh hùng xứng đáng, để làm hưng thịnh đất nước.
150. Tôn giáo có hai vai trò : cầu nguyện cho hạnh phúc triều đại và cầu nguyện sám hối các lỗi lầm.
153. Trong De Oratoire (II, 18,19) Cicéron kể chuyện lúc lưu vong ở Éphèse. Annibal nghe lời bàn triết gia Phormion, Hỏi về bài học này người chiến thắng trận Cannes trả lời rằng ông ít khi nghe một ông già nói mê sảng đến thế.
154. Lấy ý từ Thánh Vịnh Psaume VIII.3. « Từ miệng của trẻ em và trẻ sơ sinh vang lên lời ca tụng hoàn hảo. »
156.*Méduse : Huyền thoại Gorgone tượng trưng cho sự khủng kiếp thất vọng. Lévy Dhurmer (1863-1953) có vẽ một đầu người đang hóa thành đá trên sóng biển, tóc là rong biển, san hô, đôi bàn tay trước càm, đang cố bám víu sự sống, khuôn mặt xám xịt đau thương. Hình ảnh này tượng trưng cho sự chuyển đổi một con người sang một quái vật hay từ sự sống sang chết.
*Ampéluse mõm đá phía Tây Bắc Tanger nay là mũi Spartel. Tarrudant ở Tây Nam tỉnh thuộc Maroc. Hình ảnh tượng trưng cho Maroc.
*Kết luận tác phẩm. Camões tâu bày cùng vua Sébastião lời khuyên trị nước dùng hiền tài, hoàn thành sứ mệnh cao cả. Và tác giả sẽ là một Homère ca tụng một Achille mới.