Tin Văn Học Miền Nam 54-75
Trước hết, chúng tôi thấy cần đính chính rằng chuyện dài về chữ i và y đã tròn thế kỉ rồi chứ chẳng phải là gần đây mới có chuyện này. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1902. Năm đó có mở một Hội Nghị Khảo Cứu Viễn Đông, trong đó có một Uỷ ban xét việc sưả đổi chữ quốc ngữ. Uỷ ban này đã đệ trình một bản đề nghị lên chính phủ thuộc điạ để chuẩn y. Bản đề nghị rất dài cuả Uỷ ban này có nói đến việc sưả đổi cách viết chữ i và y đại khái như sau: "Uỷ ban cũng nghĩ rằng ta phải bỏ hẳn thói quen mà vài tác giả vẫn có, trái với phương pháp do cố De Rhodes đặt ra, là thay y vào chỗ cuả i trong một số trường hợp (chẳng hạn ky, ly, my) mà không có gì chứng minh được". Bài tường trình đầy đủ về những đề nghị cuả Uỷ ban sưả đổi chữ quốc ngữ này được đăng trong Kỉ Yếu Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. (Xem: "Compte-rendu du premier Congrès international des Etudes Extrême-Orient", in trong BEFEO, tome III, 1902, tr. 126-127.) Nói cách khác những nhà trí thức dạo ấy đã chủ trương khôi phục lại cách chính tả hai chữ i và y mà họ xem là những nguyên tắc chính tả "truyền thống" từ thời mới hình thành chữ quốc ngữ.
Như thế thì chắc những vị đó không phải là những kẻ hiếu sự, thích lập dị để gây chú ý cuả công chúng đâu. Việc làm như thế hẳn phải là rất có ý thức. Sở dĩ gần một thế kỉ qua, việc chưa đi đến đâu, thì chẳng phải vì "không thắng được thói quen" đâu, mà là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là đất nước mình thiếu một chính sách ngôn ngữ hợp lí. Thật ra thì chuyện chính tả tiếng Việt đã tốn khá nhiều giấy mực, nhưng cho đến nay vẫn chỉ là giữa những người sử dụng chữ viết hoặc dăm ba nhà nghiên cứu mà thôi. Cuộc thảo luận chưa có nhiều cơ duyên đến với những người có trách nhiệm trực tiếp đến chính sách ngôn ngữ. Chính vì có sự can dự của những người làm chính sách nên mới có trường hợp nước Đức mà anh đưa ra như một minh chứng cho sự thành công (?) của việc cải cách chữ viết.
Ai trong chúng ta cũng có thể đã hơn một lần để ý thấy những điều "bất hợp lí" trong cách viết chính tả tiếng Việt, vì chúng đi chệch khỏi nguyên tắc chính tả ghi âm của "chữ quốc ngữ". Một trong những điều bất hợp lí ấy là vấn đề chữ i và y. Trong số những điều bất hợp lí kia, có những điều đã đi vào tập quán ngôn ngữ: chẳng hạn, chúng ta có bài và bày, khi nói ra chỉ khác nhau ở âm chính a đọc bình thường, và ă là thể ngắn cuả a. Thế nhưng khi viết, thể ngắn cuả âm chính đã chuyển trách nhiệm về âm cuối i và y để phân biệt a ngắn và a dài.
Tuy nhiên, cũng có những bất nhất tạo ra do sự nhầm lẫn hay tuỳ tiện của một số người biên soạn từ điển và sách báo. Để tiện theo dõi, xin bắt đầu từ cái mốc năm 1651. Năm 1651 đánh dấu sự ra đời của bộ từ điển Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et Latinum (thường gọi là Từ điển Việt-Bồ-La) của Alexandre de Rhodes. Bộ từ điển này có in kèm một phần "Báo Cáo Vắn Tắt Về Tiếng An Nam Hay Đông Kinh". Đây chính là bản văn về ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ nay còn giữ được.
Trong mục viết về chữ i , tác giả viết: "I, chúng tôi chỉ sử dụng i nguyên âm, bởi vì tất cả công dụng của i phụ âm được thực hiện tốt hơn bằng chữ y , vả lại i nguyên âm sử dụng như chúng ta; tuy nhiên, để tránh sự lẫn lộn, chúng tôi chỉ dùng i nguyên âm ở giữa và cuối tiếng: ở giữa tiếng, thí dụ biết, scire (hiểu biết), và ở cuối tiếng, thí dụ bí , cucurbita Indica (quả bí); nhưng cần ghi nhận rằng chúng tôi sẽ dùng y ở cuối tư khi nào nó làm thành nhị trùng âm mà vẫn tách biệt, thí dụ éy , ille (cái ấy), còn khi chúng tôi viết với i nguyên âm thì đó là dấu hiệu vẫn không tách biệt, thí dụ ai, quis (ai); chúng tôi không dùng hai chấm ở trên các nguyên âm để tránh sự gia tăng quá nhiều dấu hiệu; cần lưu ý một lần cho xong là i ở cuối từ sau một nguyên âm khác thì không làm thành một vần khác tách biệt, còn khi viết với y Hi lạp thì bấy giờ vẫn bị tách biệt, thí dụ cai, superior (cao hơn, bề trên), cây, arbor (cây cối). Cũng ở đầu tiếng, nhất là trước một nguyên âm khác, thì chúng tôi dùng y Hi lạp, nhưng đừng ai cho đó là phụ âm, thí dụ yêó, debilis (yếu đuối), yả, cacare (ỉa, phóng uế)."
Đại ý của đoạn văn trên là đưa ra bốn nguyên tắc viết chữ i và y như sau:
(a) chữ i dùng để ghi nguyên âm của âm tiết, có thể là nguyên âm đơn / i / hay nguyên âm đôi / ie / : bí , biết;
(b) khi là bán âm thì i được viết sau nguyên âm thường: cai;
(c) chữ cái y dùng để ghi nguyên âm / i / đứng đầu âm tiết: yếu , yả (iả);
(d) chữ y bán âm đi sau nguyên âm ngắn: cây, ấy.
Cứ dựa theo chuẩn mực nói trên thì những hiện tượng bất nhất lâu nay phần rất lớn là từ sự rối loạn của nguyên tắc (a) này. Chúng tôi đã lập một bảng thống kê từ một số các từ điển và sách báo in ở hai miền Nam Bắc trước và sau 1975, và ghi nhận những trường hợp viết chính tả chữ i và y sau đây:
si/sy - li/ly - kí/ký: chữ i và y đặt ở sau phụ âm đầu, làm phần âm chính của âm tiết sinh - lính - kính -xỉu - : chỉ dùng chữ i trong phần chính cuả âm tiết mà không bao giờ dùng chữ y hia - bìa - đĩa - hiền - biết - giếng: chữ i đi kèm với nguyên âm ê để làm thành tổ hợp âm chính của âm tiết yêu - yến - yểng: tương tự như trường hợp 3 trên đây, nhưng chỉ dùng chữ y im - ỉu - ý - y - ỷ/ỉ: chữ i và y đều đứng ở đầu âm tiết quí/quýt - huyện - thuý - nguy: chữ i và y trong các tổ hợp nguyên âm chúm môi (nghĩa là khi viết thì có chữ u đặt trước nguyên âm chính) mai - cúi - mây - cay - cai : chữ i và y là hai âm cuối đi theo sau một nguyên âm để khép âm tiết lại.
Trong số những trường hợp trên đây, chỉ có hai trường hợp 2 và 3 là dứt khoát, không có tình hình nước đôi, dùng lẫn cả i và y; ngoại giả, năm trường hợp còn lại hình như có tình trạng hai chữ i và y dùng thông lẫn nhau.
Xem xét kĩ hơn thì thấy là hiện tượng i và y không phải là có thể dùng tuỳ tiện, không theo nguyên tắc nào. Trong năm trường hợp còn lại, có thể nhận thấy ngay là chúng ta có thể tách được hai nhóm 4 và 5, vì chúng có những nét sóng đôi với hai nhóm 2 và 3: tất cả đều là thành phần âm chính cuả âm tiết. Chỉ có điểm khác biệt duy nhất: một đằng i và y đứng ở đầu âm tiết (nhóm 4 và 5), một đằng thì có phụ âm đầu đi trước (nhóm 2 và 3).
Tuy vậy, trong khi chúng ta viết y thị, ỷ lại thì sự thiên vị trong tâm lí ngôn ngữ đã dẫn đến thói quen viết âm ỉ, ầm ĩ, đi ỉa theo đúng nguyên tắc âm vị học. Khuynh hướng viết các từ hán việt có âm / i / với chữ y làm âm chính có thể tìm thấy trong các tiếng đứng đầu âm tiết: y, ỷ; hoặc các từ có phụ âm đầu là h, k, l, m, q, t. Nhưng về mặt ngữ âm, không có lí do gì để tách số từ vựng hán việt ra theo quy tắc chính tả khác với những quy tắc chung. Hoặc giả có người nêu ra lí do thẩm mĩ. Đây là thái độ kì thị không cần thiết trong ngôn ngữ: tại sao "vua nhà Lý" thì phải viết y cho đẹp, còn lí nhí thì viết i ? Một nhà nho ở thế kỉ XVIII mà viết hai chữ lý và lí ắt hẳn là phải viết bằng một chữ nôm (mượn chữ lí trong chữ nho) thôi. Viện lí do hai từ đồng âm cho nên phải viết khác đi như Cao Xuân Hạo nêu ra là không hợp lí !
Nhóm 6 cũng đáng nói: Trong chính tả tiếng Việt hiện nay, âm / k / được kí hiệu bằng ba chữ cái tuỳ theo trường hợp: c, k, q. Chữ q chỉ dùng khi có chúm môi mà thôi. Vả chăng, q không bao giờ đứng một mình cả, mà luôn kèm với u. Do vậy, đã có quan niệm cho rằng phụ âm đầu trong trường hợp / k / chúm môi phải là qu. Lập luận này sẽ dẫn đến hệ quả là những từ quý, quýt sẽ viết là quí, quít vì âm / i / nay là nguyên âm đứng làm phần âm chính của âm tiết. Nhưng cách phân tích âm tiết như thế tự mâu thuẫn: trước hết, phần âm chính của âm tiết là tổ hợp âm chúm môi /ui/ chứ không phải là /i/, và phụ âm đầu chỉ là /k/; vì thế, nếu tổ hợp này đã xuất hiện đều trong các kết hợp khác như trong quyết, quyền, thì không thể có ngoại lệ là quí được. Sau nữa, không thể lấy cớ là trong các ngôn ngữ Ấn Âu có qu để cho rằng phụ âm đầu là âm chúm môi, vì chúm là thuộc về phần âm chính của âm tiết.
Dựa trên nét khác biệt này mà chúng tôi quy bốn nhóm vào một loại để phân tích bậc hai ngõ hầu có thể nhận ra nguyên tắc chính tả của chúng.
Chúng tôi nhận thấy là ẩn dưới mớ bòng bong tùy tiện về cách viết hai chữ i và y, có một nguyên tắc chung mà người viết chữ quốc ngữ từ thời Alexandre de Rhodes đến thời chúng ta đều thừa nhận. Nguyên tắc đó gồm có năm điểm như sau: Chỉ viết y trong những trường hợp sau đây:
Khi tổ hợp âm / iê / ở đầu một tiếng.
Ví dụ: yên, yêu, yết, trong các tổ hợp âm chúm môi / ui / và / uiê / (viết là uy, uyê, uya).
Ví dụ: uy, chuyện, khuya, nguy, tuy, ở sau âm ngắn của a [ trong chính tả hiện nay cũng viết bằng đồ vị / a/ ] và âm ngắn của ơ [tức là đồ vị /â/ ].
Ví dụ: cay, dày, may, cây, đây, mây.
Chỉ viết i trong những trường hợp sau đây:
Khi âm / i / là nguyên âm, hay là phần âm chính của âm tiết.
Ví dụ: ỉ, bí, chim, hí, kìm, lì, lính, sĩ, tị, vì, vinh, khi âm / i / là âm cuối, đứng sau phần âm chính ở thể thường, để khép âm tiết.
Ví dụ: ngùi, đói, người, củi, hời, trai.
Xem thế thì không phải là tiếng Việt chúng ta không có "chuẩn" nào, không có nguyên tắc chính tả nào. Những ngoại lệ ít ỏi trong chính tả là những hiện tượng thông thường, ngôn ngữ nào cũng có. Nhưng hiện tượng i và y không thế. Chúng tôi nhận thấy là những hiện tượng bất nhất về i và y hoàn toàn là do sự tuỳ tiện kéo dài quá lâu.
Những tìm tòi vừa kể sẽ có ý nghĩa cho những ai có trách nhiệm (những người quản lí vấn đề chính sách ngôn ngữ quốc gia, báo chí, và nhà trường) để góp phần vào tiến trình chuẩn hoá ngôn ngữ. Có thể trong tương lai xa - khi chúng ta có được một chính quyền dân chủ thật sự, và các nhà chính trị biết lắng nghe người trí thức để có chính sách ngôn ngữ, có thể năm quy tắc kia sẽ được đặt trở lại nghiêm chỉnh chăng. Nhưng đó là chuyện về sau. Trong điều kiện hiện nay, năm quy tắc đó có thể rút xuống mức thấp nhất những rối rắm về chính tả chữ i và y mà nguyên nhân chính là việc dùng một đồ vị để ghi hai âm vị khác hẳn nhau: i/y đều dùng để ghi nguyên âm / i / và âm cuối / j /.
Sự lẫn lộn này đã có từ thời De Rhodes chứ không phải hoàn toàn là do người đi sau.
Trước nay các bộ từ điển tiếng Việt được biên soạn tuỳ theo quan điểm chính tả cuả các soạn giả. Duy có bộ Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức biên soạn ((Trung Bắc Tân Văn xuất bản, Hà Nội 1931) là theo sát nguyên tắc chính tả chữ i và y như nêu ra trong Bảng trên đây. Uy tín và giá trị học thuật cuả bộ từ điển này đã góp phần rất nhiều cho những công trình tiếp nối về sau này.
Thời gian sau 1975, cuộc giao lưu văn hoá-xã hội lớn lao giữa hai miền Nam-Bắc đã tác động đến ngôn ngữ phổ thông rất nhiều. Và hẳn nhiên cuộc giao lưu này đã không tránh được nhiều chuyện lố bịch, trong đó có những kiểu dùng từ ngữ lạ tai so với thói quen ở trong Nam. Có lẽ cũng là tâm lí dễ hiểu khi có nhiều người ở miền Nam cho rằng lối viết chữ i và y "lạ mắt" là do sự cưỡng bức cuả chính quyền Hà Nội đối với công chúng miền Nam. Nhưng nói thế thật oan cho công phu của một số học giả Nam Bắc đã đi bước tiên phong trong việc "cải cách" chính tả mà chúng ta đang bàn ở đây.
Xin nhắc lại trường hợp đi tiên phong trong việc định chuẩn mực cho cách viết i và y trong bộ từ điển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội, 1931). Lật lại một số trang sách in tại miền Nam trước 1975 ta thấy một số tác giả in sách ở Sài Gòn đã có ý thức rất cao trong việc định "chuẩn" chính tả tiếng Việt. Từ nhà báo Nguiễn Ngu Í (một biên tập viên chính của tạp chí Bách Khoa nổi tiếng suốt thời kì 1956-1975), đến Gs. Trần Ngọc Ninh (nhà bác học Việt Nam, giáo sư y khoa và từng là Phó Thủ Tướng đặc trách văn hoá-xã hội năm 1965), từ Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê đến Hoàng Xuân Hãn, những vị này đã thật sự là những cánh én đầu muà đối với việc chỉnh đốn chính tả chữ quốc ngữ tại miền Nam suốt thời kì 1954-1975. Một vị khác tại miền Nam cũng bỏ rất nhiều công lao tìm hiểu và hô hào việc gìn giữ lối viết chính tả i và y suốt từ 1958 đến nay, là Nguyễn Khắc Xuyên. Chúng tôi kê ra đây những quyển sách in của các vị vừa nhắc tên, trong đó các vị áp dụng lối viết chữ i và y như nói đến ở đây. Nguiễn Ngu Í là tác giả quyển Sống Và Viết Với… do nhà xuất bản Ngèi xanh xuất bản tại Sài Gòn (1965). Trần Ngọc Ninh viết và giảng về văn hoá Việt Nam tại Đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn). Hai công trình đã xuất bản là Đức Phật Giữa Chúng Ta (Lá Bối, 1972) và Cơ Cấu Việt Ngữ (Lửa Thiêng, 1973-74). Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê là tác giả bộ sách lớn: Khảo Luận về Ngữ Pháp Việt Nam (Đại Học Huế xb, 1963). Hoàng Xuân Hãn in quyển Bích Câu Kì Ngộ (Đại Học Huế, 1964). Nguyễn Khắc Xuyên đã nhiều lần xem xét vấn đề chính tả chữ i và y qua các bài viết của ông. Xem: Nguyễn Khắc Xuyên, "Chung quanh vấn đề thành lập chữ quốc ngữ" in Văn hoá nguyệt san số 39 (1959), tr. 167-177 và số 48 (1960), tr. 1-14, "Nguồn gốc hai chữ i và y trong quốc âm" in Văn hoá nguyệt san số 61 (1961) tr. 519-526, và gần đây nhất là bài "Về i hay y trong chính tả việt ngữ" in Văn học (California) số 75 (th.7.1992), tr.3-13.
Trang sách in và bài báo của các vị đều rất nhất quán với năm nguyên tắc ghi ở bảng trên đây. Trong khi đó thì tại miền Bắc không hề có một nhà trí thức uy tín nào làm một việc như thế. Dăm ba nhà học giả tại Viện Ngôn Ngữ Hà Nội viết bài nghiên cứu, nhưng mấy quan chức ở Viện (chẳng hạn như ông viện trưởng Hoàng Tuệ) thì vẫn tuyên bố thản nhiên là có thể chấp nhận cả i và y! (Hoàng Tuệ "i hay y ?", báo Văn Nghệ, số 46 (18/11/1995), tr. 5). Một nhà ngôn ngữ học nổi danh khác cũng mới lên tiếng trong bài nhận xét về chữ quốc ngữ của ông, đại khái là ông không chấp nhận có thay đổi gì cả. (Cao Xuân Hạo "Mấy nhận xét về chữ quốc ngữ" in trong tuyển tập Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Hà nội: nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 157-161). Ý chừng ông cho rằng trong ngôn ngữ, chẳng có gì qua thói quen tập thể? Nhưng mà nói cho cùng, nước mình mới thật sự dùng chữ quốc ngữ với tư cách là chữ viết chung cho cả nước, là kể từ năm 1945. Trước đó tiếng Việt còn chưa được kể là môn học chính thức, làm gì có thể gọi là có quy củ, có chính sách để có thể gọi một thói quen là thói quen tập thể ? Tôi rất hoài nghi lập luận này, dựa trên một chứng cứ rất hiển nhiên: hai quyển từ điển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức và Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh cùng ra đời một năm (1931) mà lại theo hai thói quen trái ngược khi viết chữ i và y (chứ không phải là dùng tuỳ tiện, tự do như thường thấy).
Cho nên, mãi đến năm 1984 nhà cầm quyền Hà Nội mới ra quyết định về chính tả bằng quyết định 240/QĐ kí ngày 5.3.1984 thì phải nói đó là một quyết định đúng. Chúng tôi nghĩ rằng làm như thế là chính quyền đã phải công nhận việc làm của những người tiền phong ở miền Nam trước 1975 và những nhà tiền phong trước kia là đúng. Thế nhưng cũng rất là khôi hài nếu chúng ta biết được sự thật này: ngoài một số sách giáo khoa bậc phổ thông tiểu học và trung học, cho đến nay các trang sách báo in ở trong nước vẫn không thèm đếm xỉa gì đến nguyên tắc chính tả ghi trong Quyết Định vừa nói. Hãy cứ lật bất cứ trang sách báo in ở trong nước sẽ thấy rõ điều này. Cho nên chúng tôi tưởng là không riêng gì người mình ở hải ngoại không thấu suốt vấn đề như anh Dũng nghĩ đâu. Đấy là một vấn đề của chung cả nước, bao gồm cả trong nước lẫn bên ngoài. Đối với một vấn đề như thế này, chúng ta hãy thận trọng hơn khi quy "công lao" cho những người không có công trạng gì. Vả chăng, không phải cái gì "lạ mắt" cũng là sản phẩm "của Việt Cộng", của Hà Nội hết cả. Bộ từ điển Việt Nam Tự Điển (1931) nào có liên hệ gì đến Việt Cộng mà vẫn nhất quán lối viết chữ i và y?
(VT trich doan)
Đoàn Xuân Kiên
|