Nov 21, 2024

Viết về tác giả & tác phẩm

Đặng Tiến: Trái Cam và Hòn Bi
Đặng Tiến * đăng lúc 01:52:02 PM, Apr 17, 2023 * Số lần xem: 661
Hình ảnh
#1

 

 




 

 
Tiễn biệt nhà phê bình Đặng Tiến qua đời
ngày hôm nay tại Pháp 04-17-2023
 

Mời đọc bài viết của ông Đặng Tiến: Trái Cam và Hòn Bi 
 
và bài thơ : Về Một Ánh Trăng, ít người nhớ đến

 
VỀ MỘT ÁNH TRĂNG

 
Mười năm trời không làm thơ
 
Đêm nay bút cày luống chữ
 
 
Trần Lê Nguyễn


 
Trời ngát xanh trong lời chim khuyên mới sớm
 
Lời bao la lìa ý vụt bay cao
 
Lả cánh mộng hồn đêm lìa xác bướm
 
Về quỳ bên Em dâng một cánh hoa đào

 
Tình gửi chân mây. Em có nhớ kiếp nào ?
 
Hanh nắng trong lòng hay trăng xế chiêm bao…
 
Ngày Em đến hoa quên mà lá nhớ
 
Anh đợi Em đây, Em đừng bỡ ngỡ
 
Sông ngàn xưa gửi nước lại nghìn sau.

 
Tóc từng sợi lạc giòng từ nguyên thủy
 
Trôi bơ vơ phế tích một thiên đường
 
Những chiếc lá lay bay về cội ý
 
Là lòng Anh xin cưới một quê hương.

 
Anh không viết lời thề trên lá đỏ
 
Màu nào không ngờ vực bóng thời gian ?
 
Đá quên thề, còn ngoại tình với gió
 
Đêm hôm rồi nở một đóa phong lan…

 
Những hạt cát ngậm lâu đài trong ký ức
 
Giọt sương hồng nuôi biển lớn cuối tương lai,
 
Soi bước Em về muôn tế bào cháy rực
 
Lửa hành tinh nhầm lối đã đầu thai.

 
Giông tố cũ đã san bằng quá khứ
 
Chút hoang liêu còn lại gửi mai sau
 
Em đã hái từng trái sầu đỏ úa
 
Trên cành khô ươm lại đóa hoa đầu.

 
Anh loài chim ngậm hờn trong cổ họng
 
Ba mươi năm òa vỡ tiếng thanh tao,
 
Tiếng hát vẫn bao la theo đầu ngọn sóng
 
Về gục bên Em, dâng một cánh hoa đào.

 
Đặng Tiến
 
2/1970



 
         TRÁI CAM và HÒN Bi

 
Thơ gắn liền với bản sắc tiếng nói của từng dân tộc nên khó chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, dịch thơ là việc cao quý, đọc thơ dịch là một lý thú, cả hai việc đều cần thiết để tìm hiểu, so sánh văn học, văn hoá và ngôn ngữ, từ dân tộc này sang dân tộc khác.

 
Lấy một ví dụ để suy nghĩ : câu thơ nổi tiếng của Paul Eluard (1895-1952) trong tập Tình yêu Thi ca (L'Amour La Poésie, 1928) :

 
La terre est bleue comme une orange
 
Quả đất xanh như một trái cam
 

Dịch như vậy thì không phải là sai, nhưng không lột hết ý nghĩa câu thơ. Đã có rất nhiều học giả uyên bác giải thích câu thơ một cách cao siêu, nhưng cách giải thích đơn giản và “ sư phạm ” nhất là : Quả đất xanh tròn như trái cam và ý “ tròn ” ẩn đi. Nhưng tái lập nó thì câu thơ không dở nhưng mất đi phần nào ma lực của nó. Chữ khó dịch trước tiên là tính từ bleu, tiếng Pháp chỉ một màu chính xác, “ màu của vô cùng... nói rằng quả đất xanh như một trái cam là nối liền hư không hạnh phúc với trọng lượng của địa cầu, hai tiếng reo mừng đã tạo dựng thiên đàng trong hạ giới ” (Jean Omnimus (1)). Giảng như thế là hay quá, nhưng khi ta dịch bleu thành xanh, thì người đọc Việt Nam không biết màu xanh nào : da trời hay lá cây – trong câu thơ dịch, màu lá cây lại có phần lấn lướt.

 
Câu thơ mạnh nhờ lối so sánh nghịch lý, xanh như cam, vì cam của phương Tây không phải màu xanh mà là màu... cam, một loại vàng gạch, vàng nghệ. Nhưng cam Việt Nam thì lại xanh. Câu thơ siêu thực hoá ra hiện thực. Cũng không hẳn là dở, chỉ yếu đi và khác đi thôi.

 
Quả đất và trái cam đồng dạng hình cầu. Nhưng đây là lối suy diễn của thầy giáo tìm lối giải thích cho học sinh chóng tiếp thu. Đoạn trên, chúng tôi thêm vào chữ tròn là lếu láo. Nhưng dù không dùng chữ tròn thì câu tiếng Việt hai loại từ quả (đất) trái (cam) cũng đã bao hàm tròn trịa hình dáng của hai thực thể. Như vậy, tiếng Việt vốn nhiều hình tượng đã khai thị cho một câu thơ bí hiểm, mặt khác, đáp ứng với quan niệm sáng tác của Eluard, thời đó từ chối màu sắc. “ Ai đề cập đến màu sắc với tôi, tôi không nhìn nữa. Hãy nói với tôi về hình thể, tôi đang rất cần hoang mang ” (Littérature, tháng 2-3.1923, tr.16)(2). Một câu thơ dịch, nói lên đúng ý tác giả, nhưng chính tác giả không trình bày ý ấy trong câu thơ, vậy là dịch sai hay dịch đúng ? Đối tượng của người dịch là câu thơ, trong kích thước nhất định của nó ; nhưng lắm khi phải đi quá câu thơ mới đến được nó : đó là kinh nghiệm thơ dịch của Tản Đà.

 
Màu sắc đối với chúng ta là cụ thể, tuyệt đối ; trắng ra trắng, đen ra đen. Nhưng trong các ngôn ngữ, bảng tên màu sắc lại không giống nhau. Cái ta thấy xanh thì người Pháp thấy hai màu bleu và vert ; cái người Pháp thấy bleu, thì người Nga thấy siniï và golouboi khác nhau. Những từ thông dụng trong tiếng Việt như nâu, chàm, đà, thì người Pháp không biết dịch là gì, có khi gọi là màu “ củ nâu ” (couleur cunau), sông Đà thì dịch là Rivière Noire, đối lập với sông Lô là Rivière Claire, lẽ ra phải là sông... Đáy. Tên của màu sắc là một vấn đề gay go trong cấu trúc ngữ nghĩa của lý thuyết ngữ học, mà nhiều chuyên gia đã đề cập. Màu sắc, trong từng nền văn hoá, lại mang tính cách biểu tượng kiểu thương xanh núi, nhớ tím trời (Xuân Diệu) lại làm người dịch thêm rối trí.

 
Cách đây mươi năm, tôi đã có dịp ca ngợi câu thơ Tản Đà trong bài Tiễn ông công lên Trời (Ngày nay số 99, 1938), tân kỳ không kém Eluard :

 
Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc (a)
 
Chán cả giang hồ, hết cả ngông (b)

 
Câu (a) sắc sảo vì từ xanh láy lại ở vị trí trọng yếu và đối xứng, lại đối lập với bạc, làm nổi bật nghịch lý xanh như ngựa : ngựa nhiều màu, mỗi màu chữ hán việt lại có tên riêng, nhưng không xanh. Cần hiểu đại khái : ngày như ngựa, ngày nhanh như ngựa. Lấy ý cổ văn : bạch câu quá khích, ngựa trắng thoáng qua kẽ hở ; chữ ngày xanh lại đối lập với điển cố về màu ngựa. Ngụ ý ở đây là tốc độ của thời gian, chữ nhanh chìm trong câu thơ, làm một thứ trầm châu, cùng vần với chữ nổi – Nguyễn Tuân gọi là chữ gánh – là xanh, có nghĩa là tuổi trẻ. Tản Đà sáng tạo từ ngữ một cách hồn nhiên, nhưng cách chơi chữ này lại đáp ứng với nhiều quy luật ngữ học hiện đại

 
Câu thơ Eluard và Tản Đà xuất sắc ở nghịch lý. Nhưng ở đời không phải ai ai cũng thưởng thức nghệ thuật trong nghịch lý. Bằng cớ là nhà xuất bản Văn Học, trong Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr. 187, dòng thứ ba đã đổi câu chữ cho thuận lý

 
Ngày xuân như ngựa đầu xanh bạc
 
thành ra một cái thứ gì đó, phi ngưu phi mã.
 
*
 
Về hình ảnh địa cầu nhìn từ xa, Xuân Diệu có câu thơ hay, làm năm 1957, thời điểm Liên Xô mới phóng vệ tinh lên trời :

 
Trái đất – ba phần tư nước mắt
 
Đi như giọt lệ giữa không trung

 
Câu thơ hay và có giá trị tổng hợp : đi từ thực tế địa lý – biển chiếm ba phần tư địa cầu – đến tình cảm – nước mắt cuộc đời, của tình yêu, và bất công, của chúng sinh theo hình tượng nhà Phật. Và giọt lệ vẫn thường long lanh trong thơ Xuân Diệu, “ đã vỡ vì nước mắt ” ; cuối cùng đi đến tưởng tượng – giọt lệ giữa không trung. Hình ảnh tuyệt vời, bao la, trong sáng, như hoá giải được mọi cuộc trầm luân. Những khổ đau hoá thân thành ánh sáng.

 
Tôi chợt nhớ, chợt đau xót, chợt nghĩ đến người bạn vong niên khác, Vũ Hoàng Chương, mà trầm luân dường như chưa siêu thoát :

 
Từ phen trái đất ra đi
 
Lệ chia phôi đã xanh rì đại dương

 
Cùng trong đề tài này, Trịnh Công Sơn có bài hát làm cho thiếu nhi, khoảng 1979, một trọng điểm khác trong khoa học không gian :

 
Như một hòn bi xanh
 
Trái đất này quay tròn

 
So với những câu thơ đã viện dẫn, đặc sắc của lời hát Trịnh Công Sơn là vui, có phần tếu, nhưng vẫn thâm trầm, cao siêu. Trong một băng nhạc thu âm khoảng 1980, tác giả tự hát bài này và tự thuyết minh hình ảnh “ trái đất nhìn từ xa như một hòn bi nhỏ nhắn, sông nước xanh màu lá, màu xanh cây cỏ ”. Các tác giả khi tự mình giải thích thơ mình, ít khi giải thích hay, kể cả trích tiên Tản Đà và “ thợ bình ” Xuân Diệu. Nhất là khi đãi đưa trong một băng nhạc thương mãi. Hình ảnh hòn bi xanh thâm trầm hơn nhiều, nó phản ánh thân phận phi lý của cuộc đời. Trái đất chỉ là trò chơi nhỏ nhoi trên đầu ngón tay tạo hoá, thì thân phận con người còn phù phiếm đến bao nhiêu ? Con người, anh là cái quái gì mà đa mang đa sự thắc mắc cái này, đòi hỏi cái kia ? Cụ Ôn Như Hầu đã nhận xét :

 
Quyền hoạ phúc trời tranh mất cả
 
Món tiện nghi chẳng trả phần ai
 
Cái quay búng sẵn trên trời
 
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm

 
Cái quay, hay con cù, con vụ của cụ Ôn Như còn khá khẩm, chững chạc hơn hòn bi lông lốc của Trịnh Công Sơn, tầm thường, rẻ rúng, vô định. Bài Hòn Bi Xanh tác giả làm khi mới rời khỏi Huế – lò cừ nung nấu sự đời – nhờ xin được hộ khẩu vào Thành phố Hồ Chí Minh, thoát ly ra khỏi nhiệt tình của các đồng chí đồng hương.

 
Nhưng mỗi câu thơ đều giống con người : quả cam của Eluard là Eluard, ngựa xanh là Tản Đà, giọt lệ của Xuân Diệu là bản thân Xuân Diệu, hòn bi là bản chất Trịnh Công Sơn, tếu, hồn nhiên. Lời hát nhắc đến cái ngất ngưởng của Tản Đà :

 
Đất say đất cũng lăn quay
 
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười
 
Lại say, 1921

 
Trên bản chất nghệ sĩ, những đớn đau đã biến Trịnh Công Sơn thành một thứ triết nhân, với triết lý “ cõi tạm ” và “ đời cho ta thế ”. Nghiệm cho cùng, con quay và hòn bi còn may mắn hơn con người, vì nó chỉ mang trọng lượng của bản thân, đã giảm đi nhiều với lực dính (force adhésive) và lực ma sát (force de frottement), còn con người, ngoài trọng lượng của xương thịt, lại còn đèo thêm cái tâm hồn, với trăm thứ bà giằn : nào là lịch sử, dân tộc, có khi đèo cả ái tình, mà sức cọ xát thì vô cùng vô tận. Chỉ những tâm hồn cổ kim hãn hữu như Tản Đà mới đạt tới thái độ sinh khoái

 
Nở gan cười một cuộc say
 
Đường xa coi nhẹ gánh đầy như không
 
Xuân sầu, 1936.

 
Trở lại với hòn bi xanh. Khi Trịnh Công Sơn giải thích là xanh lá cây, thì thật ra, anh không đặt vấn đề xanh gì. Như Nguyễn Bính đã làm thơ
 

Xanh cây xanh cỏ xanh đồi
 
Xanh rừng xanh núi da trời cũng xanh
 
Xanh, 1939 (?)

 
Rõ ràng là tác giả Mây Tần (1951) không phân biệt hai màu xanh cỏ và xanh da trời. Khi ta nghe Tản Đà nói xanh như ngựa thì ta ngạc nhiên, nhưng khi nghe tóc xanh, đầu xanh, mắt xanh thì không để ý đến nghịch lý. Tâm hồn Á Đông chịu nặng ảnh hưởng của thiên nhiên, đặc biệt là của cỏ cây. Từ xanh gợi ý tuổi trẻ, vì trái xanh đối lập với trái già, trái chín ; lá xanh đối lập với lá vàng, lá rụng. Từ đó, ta có những khái niệm tuổi xanh, ngày xanh, xuân xanh, và tính từ xanh trở thành sáo mòn trống nghĩa, khó sử dụng để dịch những màu sắc cụ thể như trong Baudelaire :

 
Cheveux bleus, pavillons des ténèbres tendues
 
                                                              La Chevelure

 
Tóc lam, cờ lộng bóng đêm căng...

 
Chữ bleu gợi ra cảnh trời xa biển rộng, kết hợp thành chuỗi âm láy cheveux bleus khó dịch thoát, dù câu thơ dịch đã mang nhiều âm láy, và chữ lam nhắc đến thơ Nguyễn Bính :

 
Da trời ai nhuộm màu lam

 
và nhất là thơ Bích Khê :

 
Sương lam phơi màu thu muôn nơi

 
Câu thơ Apollinaire trong bài vô đề bắt đầu bằng Automne malade et adoré – Mùa thu đau yếu và mến thương :

 
Des nixes nicettes aux cheveux verts et naines
 
Những tiên đồng tiên cô tóc xanh lè người lùn tịt

 
Tiếng Pháp cheveux verts tạo cảm giác yêu quái lẫn giữa cỏ cây mà chữ Việt tóc xanh không tạo được nên phải thêm bổ từ lè. Nhưng cũng có khi bản dịch không sát nguyên tác như với câu thơ Baudelaire :

 
Le vert paradis des amours enfantines
 
Thiên đường xanh những mối tình thơ dại

 
Ở đây chữ xanh trong bản dịch có phần súc tích hơn tính từ vert trong tiếng Pháp vì lơ lửng giữa màu thăm thẳm từng trên của thiên đường và màu cỏ non xanh rợn chân trời của tuổi thơ.

 
*
 
La terre est bleue comme une orange

 
Tản Đà chắc không biết câu này. Nhưng Xuân Diệu, Trịnh Công Sơn thì biết, vì họ đều sành thơ Pháp. Giọt lệ giữa không trung và hòn bi xanh quay tròn thì giống thơ Eluard quá.

 
Về câu thơ này, Henri Meschonnic đã có một bài báo uyên bác và xuất sắc, cho biết là Eluard đã mượn ý một bài thơ tiếng Nga của Vladimir Maïakovski làm 1922 :

 
Một nửa trái đất
 
tròn trịa
 
trên đầu tôi
 
lai láng đại dương bán cầu
 
Nhìn xa
 
y như một trái cam
 
Nhưng trái nọ vàng
 
trái này xanh.

 
Phiên tự sang chữ Latinh : Míra polovína – krúglenẺkaja takája – podo mnój, okeánami s polusárija. Ízdali soversénno víd appelẺsínij ; tólẺko tot zóltyi, a etot sínij.

 
Dịch ra tiếng Pháp :

 
La moitié du monde
 
si ronde
 
est au dessus de moi
 
ruisselant des océans d'un hémisphère
 
De loin
 
tout à fait un air d'orange
 
Seulement celle-là est jaune et celle-ci est bleue.

 
Chỗ khác nhau là : câu thơ Eluard dựa vào màu sắc (biểu ý : xanh) và hình dáng (ẩn ý : tròn) còn câu thơ Nga lại dựa vào ngữ âm. Từ sinij xanh, đã nằm trong tính từ apel'sinij, thuộc về cam bắt nguồn từ danh từ apel'sin quả cam, từ tiếng Hà Lan appelsina táo tàu, tiếng Đức Apfelsine. Cấu trúc láy âm là do Maïakovski cố tình, thậm chí còn viết lệch chính tả, dùng tính từ sinij trong khi bình thường phải viết apel'sin-nyj hay apel'sin-ovyi. Vấn đề đặt ra ở đây là :

 
– sự nảy sinh một ý thơ – một tứ thơ,
 
– trong Maïakovski ý thơ nảy mầm từ vỏ âm thanh, do thính giác tiếp thu,
 
– sự đầu thai của ý thơ vào Eluard dựa vào màu sắc nghịch lý, tạo sự liên tưởng về hình thể,
 
– dịch ra tiếng Việt câu thơ vẫn còn hay, còn súc tích, nhưng từ lực kém đi.

 
Nhưng thưởng thức câu thơ bằng tâm hồn Việt Nam, trong những luyến ái riêng với địa cầu và cây trái thì lại có sinh thú khác.

 
*
 
Thơ là những đặc sắc của ngôn ngữ được khai thác triệt để, được phát triển đến tận cùng, được quy hoạch thành những định luật khi ẩn khi hiện nhưng lúc nào cũng chi phối. Nhưng trong hiện tình thơ Việt Nam thì chỉ mới có một số người làm thơ và lý luận về thi pháp áp dụng quan niệm này. Đa số người đọc thơ chỉ thưởng thức qua xúc cảm, tưởng tượng và kỷ niệm, yêu thích những câu thơ êm tai, thuận tai, quen tai. Ngày xanh như ngựa đã là cái gì lạ tai, nếu không phải là trái tai.

 
Xưa, thơ là một nhu cầu xã hội. Nay, thơ là một sinh hoạt trí thức. Đây là quy luật phát triển của toàn thế giới, thơ Việt Nam cũng phải vào quỹ đạo. Nhưng, nhiệm vụ của người giới thiệu, phê bình thơ là đưa cái xa lại gần với quần chúng và đẩy cái quen thuộc đến chân trời tưởng tượng, như con Ngựa say thời nào của Lưu Trọng Lư :

 
Ta say ngựa cũng tần ngần
 
Trời cao xuống thấp, núi gần lên xa.

 
Đặng Tiến
 
20.1.1997

 
(1) Jean Omnimus, Les images d'Eluard, Annales de la Faculté des Lettres d'Aix-en-Provence, t. 37, 1963, Lucien Scheler trích lại trong lời tựa Eluard toàn tập, Pléïade, tr. 14.

 
(2) Henri Meschonnic trích Les Etats de la Poétique, P.U.F., Paris, 1985, tr. 255 và 241, 247, 248.

( nguồn từ:
 
Thơ, Thi pháp và chân dung
 
Trang Đặng Tiến )


 

 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.