Nov 23, 2024

Tin tức

Nhà báo, nhà thơ Ngọc Hoài Phương ra đi - Phan Tấn Hải
Ngọc Hoài Phương * đăng lúc 08:46:51 PM, Mar 08, 2023 * Số lần xem: 370
Hình ảnh
#1
 
 
Việt Báo Foundation – A Nonprofit 501 (c)(3) Organization
 
 
 
 
 
Nhà báo, nhà thơ Ngọc Hoài Phương ra đi
 
04/03/2023

 

Bản Cáo Phó từ bà quả phụ Lâm Ngọc Phương Dung, pháp danh Diệu Hạnh, viết: “Ký giả Ngọc Hoài Phương, tên khai sanh Nguyễn Ngọc Kiểm, pháp danh Tuệ Phương, sanh ngày 18/10/1942, tại Bắc Ninh, Việt Nam. Đã giã từ Cõi Tạm để về Cõi Phật lúc 8 giờ sáng ngày 28/2/2023 tại tư gia ở Westminster, California. Hưởng thọ 82 tuổi.”

 

Khi nói tới dòng sống văn hóa Việt tại Quận Cam, tất nhiên phải nhớ tới báo Hồn Việt, nhớ tới hình ảnh nhà báo Ngọc Hoài Phương miệt mài với các vận động hình thành Little Saigon, và nhớ tới chị Phương Dung, một nữ Phật tử nhiệt tâm từng tổ chức những pháp hội đón tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma trong đó chị là một người thông dịch chính.

 

Nhà thơ Du Từ Lê trong bài “Ngọc Hoài Phương, Tính chất nhà báo trong thi ca” đã kể về những thời gian mới cầm bút của anh Ngọc Hoài Phương, trích:

 

“Chỉ biết thời trung học, ông rất xông xáo, nhiệt tình với những sinh hoạt văn nghệ học sinh thời đó. Nhưng giai đoạn này của Ngọc Hoài Phương đã chấm dứt sớm khi ông chính thức bước chân vào làng báo. Khoảng giữa năm 1964, ông nhận lời phụ trách trang văn nghệ, rồi mau chóng trở thành Phụ tá Tổng thư ký nhật báo Thời Luận của giáo sư Nghiêm Xuân Thiện.

Khởi từ bệ phóng nhật báo Thời Luận, tính tới ngày di tản khỏi Saigon, Ngọc Hoài Phương được giới ký giả ghi nhận là, một trong những ký giả thành công nhất, qua nhiều vai trò, chức vụ của nhiều nhật báo, tuần báo khác nhau ở Saigon.

Định cư tại miền nam California, ngay những tháng năm đầu tiên của đời tỵ nạn, Ngọc Hoài Phương cũng đã trở lại với sinh hoạt báo chí, như một cái nghiệp mà, ông không thể bỏ được. Đó là thời gian ông cùng với cố ký giả Nguyễn Hoàng Đoan và một vài thân hữu nữa, dựng bảng Hồn Việt ở San Diego, trước khi di chuyển về vùng Los Angeles.

Khi tạp chí Hồn Việt được sang tên cho ông Đỗ Ngọc Tùng thì, Ngọc Hoài Phương là người được ông Tùng yêu cầu ở lại, tiếp tục trông nom tổng quát tờ báo này. Tới năm 1989, ông chính thức trở thành chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Hồn Việt do ông Đỗ Ngọc Tùng trao lại.” (hết trích)

 

Tuy nhiên, mang thân phận cầm bút lưu vong, nhà báo Ngọc Hoài Phương vẫn tự thấy anh như một con cá xa nguồn. Đó là hình ảnh anh ghi lại trong thơ, trích:

“...Con cá mắc cạn

Ta như con cá xa nguồn

Bao nhiêu năm

Vẫn chẳng buồn trách ai.

Cuộc đời

Bớt một

Thêm hai

Thế cho nên

Chuyện dông dài

Vậy thôi…”

 

Trong một bài viết có nhan đề “Một thời văn nghệ học sinh: Ngọc Hoài Phương” nhà thơ Du Tử Lê kể lại trên trang nhà dutule.com hồi năm 2012, trích đoạn phỏng vấn:

 

“Du Tử Lê (DTL): Trước nhất, xin ông một tiểu sử vắn tắt.

Ngọc Hoài Phương (NHP): Tôi là dân “Bắc Kỳ Di Cư” 1954 sau khi Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Quê quán tại làng Quan Đình, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nhưng trong thời Pháp thuộc, làng tôi và một số làng kế cận được sát nhập vào quận Đông Anh, tỉnh Vĩnh Phúc Yên. Trên giấy tờ ghi ngày sinh của tôi là 18 tháng 10 năm 1942, nhưng bố tôi lại bảo thật sự tôi tuổi Tân Tỵ. Là con trai lớn trong một gia đình gồm 10 anh em (7 trai, 3 gái) qua 2 đời Mẹ (Cả hai bà đều là con gái họ Đàm nổi tiếng của làng Me, Từ Sơn, Bắc Ninh). Như vậy, theo người miền Bắc thì tôi được gọi là “Cậu Cả.”

 

DTL: Kế tiếp, chúng tôi được biết hồi còn học trung học, ông đã có những sinh hoạt mà, danh từ thời đó, gọi chung là “văn nghệ học sinh.” Câu hỏi đầu tiên được đặt ra là, ông đã đến với sinh hoạt văn nghệ học sinh trong hoàn cảnh nào? Hay bắt nguồn từ những lý do gần, xa nào?

NHP: Theo tôi, ở bất cứ lứa tuổi nào trong đời người cũng đều cần có “trò chơi.” Khi còn nhỏ thì đánh bi, đánh đáo, nhảy dây... Lớn lên một chút, có người thích đá banh, bơi lội, bóng chuyền hoặc... đánh lộn. Một số người khác như tôi chẳng hạn, lại thích có một chút “văn nghệ, văn gừng” cho vui. Tôi nhớ thời đó, giữa thập niên 50, dưới mái trường Chu Văn An - Thầy Vũ Ngô Xán làm hiệu trưởng - lớp Đệ Lục B.2 chúng tôi có một đội đá banh lừng lẫy mà các đội banh của các lớp khác phải kiêng nể với những tên tuổi mà, cho đến nay, gần sáu mươi năm đã trôi qua, bạn bè cùng thời vẫn chưa thể quên được như thủ quân Trương Trọng Trác (nhà báo Trọng Kim), thủ môn “Minh Dê” (Nguyễn Quang Minh), trung phong Văn Sơn Trường (sau này là một bác sĩ của binh chủng Hải Quân), các cầu thủ “Ngân Ngố” (Ngô Đình Ngân), “Toàn Bò” (LS Nguyễn Thế Toàn), Lê Ái Quốc (sau này là trung tá Không Quân), Trương Minh Triết, Nguyễn Ngưu, “Cò Viễn” (Nguyễn Chí Viễn)... Một nhóm khác với Nguyễn Khắc Thành, “Cậu Trời” Nguyễn Ngọc Chân... và tôi tập tành làm quen với thơ văn qua những “tác phẩm” trên tờ bích báo của lớp... Thật sự mà nói thì hồi đó, ngay cả trong những năm cuối của bậc trung học, khi đã tìm được “đất dụng võ” trên nhật báo Ngôn Luận và tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong của ông Hồ Anh (Nguyễn Thanh Hoàng), chúng tôi cũng chẳng bao giờ ôm giấc mơ rằng mình sẽ trở thành “Nhà Thơ, “Nhà Văn” hay “Nhà Báo” gì cả, mà giản dị chỉ là một cuộc vui chơi, giải trí trong lớp tuổi học trò mà thôi.” (hết trích)

 

Nhà báo Ngọc Hoài Phương cũng là một nhà thơ độc đáo trong kiểu riêng của anh, và đã từng ấn hành tập thơ nhan đề “Cõi Tạm.” Nhà thơ Lê Giang Trần kể lại trong bài viết nhan đề “Cõi tạm của Phương ‘Kều’” với một vài hình ảnh đầy thương nhớ và thơ mộng về anh, trích:

 

 
 

“... Nhà thơ Ngọc Hoài Phương là một người tôi xem như là anh ruột của mình cũng giống như nhà thơ Du Tử Lê. Hai người “Anh” này đã hết sức đặc biệt dành cho tôi một tình thương từ khi mới quen biết đến mãi mãi về sau, luôn gần gũi, dịu dàng, an ủi mỗi khi tôi lâm vào hoàn cảnh thương khó...

...“Cõi tạm” được Ngọc Hoài Phương dùng đặt tựa cho tập thơ mà hầu hết gom lại thơ đăng qua một thời gian trên nguyệt san Hồn Việt của ông, do Việt Dzũng thực hiện và xuất bản năm 1992. Rồi đến năm 1999 in thêm một tập thơ, Ngọc Hoài Phương chỉ thêm vào hai chữ “vẫn còn”, là thi tập “Vẫn Còn Cõi Tạm”.

...Tôi đã nhìn ra một Ngọc Hoài Phương công tử ngay từ vài lần đầu gặp mặt; với tôi, “công tử” là một phong thái, phong cách, toát ra thanh lịch, hấp dẫn nhìn vào bằng thiện cảm; hoàn toàn không phải kiểu công tử nhà giàu kênh kiệu sinh ra đã ngậm thìa vàng muỗng bạc. Chàng luôn diện kẻng, áo quần sang trọng bảnh bao, nếp ủi bén ngót; và nào phải chỉ qua diện âu phục, chàng luôn ăn nói dịu dàng, phong cách thơ thới tự tại, khiêm cung nhưng thể hiện phong độ chững chạc tự tin.

Nói chung anh có tính hiền lành với mọi người, đến người em nhỏ tuổi như tôi, anh chưa bao giờ tỏ thái độ kẻ cả. Suốt 37 năm từ ngày biết anh, tôi chưa bao giờ nghe anh “nói xấu” hay “kêu ca” bất cứ ai. Anh đã trong nghề báo chí 50 năm, từ Việt Nam rồi tiếp tục ở Mỹ, từng một thời là công tử Sài Gòn, thì Sài Gòn Nhỏ bên trời lận đận này cũng thế, vẫn là một công tử thứ thiệt: hào hoa, trang nhã, lịch sự, phong cách, đầy bằng hữu, đầy sự quý mến của mọi người, và anh không bao giờ cao ngạo. Đức tính thiện lành của anh, thơ của anh, bài viết báo của anh, tất cả minh bạch một tâm hồn cao thượng, một con người nhân bản....” (hết trích)

 

Nhà thơ Ngọc Hoài Phương sáng tác thơ như thế nào? Chị Phương Dung, hiền thê của anh, đã kể lại qua cuộc phỏng vấn của Sóng Văn, qua bài trên Trang nhà Luân Hoán có nhan đề “Nhà thơ Ngọc Hoài Phương qua bà Phương Dung” trích như sau:

 

“SV: Xin cho biết một ít thói quen của ông  nhà trong lúc sáng tác?

PD: Ông chồng tôi sáng tác (làm thơ) rất bất thường, chẳng có trạng thái nào báo trước cả, chẳng hạn như mỗi sáng lái xe đưa tôi đến tiệm, xe vừa ngừng ở đèn đỏ, chàng bèn rút bút ra ghi vội mấy câu thơ. Đèn xanh, xe chạy, chàng đọc lại cho tôi nghe, và hỏi được không? Chẳng hiểu các nhà văn nhà thơ khác trước và sau khi sáng tác có những trạng thái ra làm sao, tôi không được rõ, riêng ông chồng tôi, chẳng thấy một dấu hiệu gì khác lạ trước và sau khi làm xong mấy câu thơ mới...

 

SV: Bà đã từng có những đóng góp vào công việc sáng tác của ông nhà?

PD: Tôi còn nhớ ngày xưa ông chồng tôi thường làm thơ ướt át loại “than mây khóc gió” Và tôi vẫn góp ý là sao thơ của bố giống thơ... đau ban quá vậy ? Nhờ vậy dần dà chàng đã chuyển hướng để có được các câu thơ về Thiền và Đạo.” (hết trích)

 

Theo nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiển, trong sách “Đọc Mười Hai Tác Phẩm Văn Chương Việt Nam” của Nxb Thư Ấn Quán ấn hành năm 2014, trong chương riêng về 2 tập thơ của Ngọc Hoài Phương đã phân tích như sau, trích:

 

“Đọc “Cõi Tạm” và “Vẫn Còn Cõi Tạm” của Ngọc Hoài Phương

Người đời vẫn nói rằng tình yêu là đề tài muôn thuở của thi nhân. Nhưng luôn luôn tình yêu đau khổ nhiều hơn hạnh phúc, nên cổ nhân nói “lưới tình”! Phải, tình yêu là một cái lưới, hễ ai vướng vào thì chắc chết... như con cá vướng vào lưới của người ngư phủ! Vậy mà, đối với Ngọc Hoài Phương, tôi tìm mãi trong “Cõi Tạm” và “Vẫn Còn Cõi Tạm”, tôi không hề thấy Phương vướng vào lưới tình! Hay là Phương có vướng, mà giấu biệt đi, không đem nó vào thơ! Tình yêu, đối với Phương, tôi cảm nhận nó nhẹ nhàng, nó không làm ray rứt, nhớ nhung, dằn vặt, đau đớn... Tình yêu chỉ là hợp tan thường tình:

 

Em còn lễ Phật trong chùa

Ta ngồi chờ ở cuối bờ trần gian

Một mai, hết chuyện hợp tan

Câu kinh Bát Nhã âm vang cõi trời”

(Cõi Tạm, trang 27, NXB Hồn Việt, 1992)

 

Và cũng chỉ là duyên nợ mà thôi:

“Không duyên thì cũng nợ nần

Cách nào cũng chỉ có ngần ấy thôi

Một mai bỏ phố về trời

Với em tìm lại sáng ngời cõi Tiên

Ở đây ta giấu muộn phiền

Cõi nào cũng chẳng bình yên để về

Cõi trần còn lắm nhiêu khê

Cõi sau biết có cận kề-nợ-duyên!”

(Cõi Tạm, trang 91).” (hết trích)

 

Còn lời của nhà thơ Ngọc Hoài Phương tâm sự ra sao? Trong bài viết nhan đề “25 Năm Sau Ở Quán Biên Thùy” thi sĩ Ngọc Hoài Phương tự kể, trích như sau:

 

“...Có lẽ một phần vì lời “hăm he” của Thông Híp nên cuối năm Đệ Tam, lớp tôi có 8 cậu thi nhẩy đậu Tú Một, mà toàn đậu Bình và Bình Thứ mới hách chứ. Cái lạ nhất mà có lẽ suốt đời tôi không thể quên được là “Thủ Khoa Toàn Quốc” năm đó là một trong những người thuộc lớp tôi: Nguyễn Gia Kiểng. Năm sau Kiểng lại chiếm chức Thủ Khoa Toàn Quốc Tú II và vồ một học bổng qua Tây… Năm Đệ Tam, Nguyễn Gia Kiểng là Trưởng lớp, tôi nắm chức Trưởng ban Văn Nghệ, Vũ Thành An làm Trưởng tiểu ban Nhạc. Năm sau, Kiểng thi nhẩy đậu Tú I rồi thì tôi được đôn lên làm Trưởng Lớp và “Thầy Phó Tế” Vũ Thành An làm trưởng ban Văn Nghệ…

Nhưng điều mà anh em chúng tôi lấy làm thích thú nhất là sau hơn nửa thế kỷ nổi trôi theo vận nước, lưu lạc khắp bốn phương trời, ngoài một số đã yên giấc ngàn thu, những người còn lại đã lần lượt quy về một mối kết thành danh sách dài thoòng như sớ Táo quân… ở vào cái tuổi ngấp nghé “Thất thập cổ lai hy” này mà anh em chúng tôi vẫn có được nhiều dịp gặp gỡ, đàn đúm, nhắc lại “chuyện xưa tích cũ” bằng lối xưng hô “cậu cậu, tớ tớ; mày mày, tao tao….” thì quả là hạnh phúc vô cùng...” (hết trích)

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.