Nov 21, 2024

Thơ dịch

OS LUSIADES (BÀI 8)
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh * đăng lúc 01:13:22 AM, Mar 05, 2023 * Số lần xem: 486
Hình ảnh
#1

OS LUSÍADES (BÀI 8)

(LES LUSIADES)

THI HÀO LUIS DA CAMOẼS

(1525-1580)

THIÊN TRƯỜNG CA BẤT TỬ BỒ ĐÀO NHA

 

NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH

Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne

Chuyển ngữ thơ lục bát

 

THI CA KHÚC  VII

            Nhân việc khám phá Ấn Độ, Camoẽs phê phán các vị vua Âu Châu, nước Pháp chống Vatican lập ra Giáo Hội Avignon,  nước Đức lập ra Đạo Tin Lành, nước Anh lập ra Anh Giáo, nước Ý sống trong tội lỗi.. gây ra sự chia rẽ Thiên Chúa Giáo vì thiếu Đức Tin. Tả Ấn Độ và thành phố Malabar. Gama gửi đến Calicut một sứ giả, gặp một người Maure nói tiếng Tây Ban Nha. Người ấy tên là Monçaide được đưa về tàu cho Gama các tin tức về Ấn Độ, phong tục, tập quán của dân chúng. Samorin, Đại đế Ấn Độ, tiếp đón trọng thể Gama, và đề nghị ký kết hiệp ước với Bồ Đào Nha.  Catual, thống đốc Calicut thăm tàu thuyền, được Paul de Gama tiếp đón trọng thể,

 

1.

Đây rồi vùng đất tiếng danh,

Dòng sông Indus chảy nhanh một miền.

Sông Hằng dòng nước thiêng liêng,

Người Ấn đều muốn tắm dòng sông qua.

Cao thượng tiếng danh Bồ Đào Nha,

Đoạt vòng nguyệt quế đi xa anh hùng.

Cành cọ vượt khó lẫy lừng,

Đến được đất nước giàu vùng phì nhiêu,

 

2.

Hậu duệ Lusus thương yêu,

Nước dù không lớn hơn nhiều, Tây Phương.

Ở trong Giáo Hội anh em,

Của đấng cai trị thiêng liêng xuống trần.

Chẳng khuất phục trước xâm lăng,

Đối mặt Hồi Giáo hung hăng mặc dù.

Bạo tàn thống trị gươm thù,

Đánh giặc dữ khỏi cõi bờ quê hương.

 

3.

Bồ Đào Nha nước nhỏ, anh hùng,

Chẳng lo sợ với sức mình kém thua.

Hy sinh bảo vệ nước vua,

Giữ truyền luật Chúa ngôi xưa vĩnh hằng.

Luật ban từ cõi trời xanh.

Dân Bồ dù ít, giữ lòng kính thương.

Luôn luôn sùng kính ơn trên,

Vinh danh Thiên Chúa kính tôn hạ mình.

 

4.

Hãy nhìn dân Đức đấu tranh,

Giữa Âu Châu lãnh thổ thành mênh mông,

Chống uy quyền kế vị Thánh Pierre,

Người chăn chiên mới, lập bè phái riêng.

Chẳng an lòng chia rẽ hơn,

Chẳng chống Hồi, gây chiến tranh trong nội tình.

Ottoman kiêu hãnh xâm lăng,

Áp đặt các nước dưới gông bạo quyền.

 

5.

Hãy xem dân Anh vang danh,

Các vua xưa Thập Tự Chinh một lòng,

Đánh con Ismaël đê hèn,

Nay trong ảo ảnh điêu tàn chẳng nên.

Trong tuyết, trong sương ngủ quên,

Chống Rome Giáo Hội, lập riêng đạo nhà.

Tuốt gươm chống đồng đạo ta,

Jésusalem đất thánh xưng là của riêng.*

 

6.

Lúc ngoại đạo chiếm Jésusalem,

Chẳng còn kính nể đất thiêng giáo quyền.

Đánh Giáo Hoàng, lập Toà Thánh riêng,

Jésusalem thánh địa còn trong gông cùm.

Gaulois bất xứng, bạn hèn,

Đức Tin trước mặt cần thêm móng nền.

Lật đổ thay vì giúp nên,

Sao xưng Trưởng nữ Đức Tin Chúa Trời.*

 

7.

Thống trị Dân Chúa anh em,

Khi vương quốc rộng uy quyền giàu sang.

Không nghĩ sông Jordain, sông Nil,

Thù địch đã chiếm phải cần đấu tranh.

Chống Giáo Hội báng bổ quyền hành,

Xem như công việc cao thanh trên đời.

Từ Charles đến Louis nối ngôi,

Chẳng vòng nguyệt quế cho đời vinh danh.

 

8.

Sống trong nhung lụa mặc tình,

Yếu mềm, hư hỏng hai đàng cả hai.

Giàu sang, vui sướng mặc ai,

Quên đi những giá trị thời xa xưa.

Bạo quyền trẻ con hơn thua,

Nhân dân là kẻ thù cho chính mình.

Tôi muốn nói nước Ý đắm chìm,

Trong ngàn tội lỗi, mặc tình nói ngang.

 

9.

Bất hạnh dân Chúa tên mang,

Như răng Cadmus* chia hàng đánh nhau.

Giết nhau cái chết thương đau.

Cùng trong bụng mẹ, đồng bào sinh ra.

Saint Sépulcre biết chăng là,

Trong tay lũ chó, chết thà cùng nhau.

Cùng đất tổ tiên xưa nào,

Lẽ đâu cứ cấu xé nhau không lành.

 

10.

Thấy chăng, chúng có thói quen,

Một luật. một giáo phái riêng tạo thành,

Tập hợp quân hiếu động đông,

Chống các dân Chúa có lòng Đức Tin.

Thấy chăng Alecto bạo cuồng.*

Gieo rắc đối thủ luôn luôn bất hòa.

Tránh đâu tan nát cửa nhà,

Khi đối với địch, chính ta kẻ thù.

 

11.

Khát khao Đế quốc rộng to,

Thúc đẩy xâm chiếm vét vơ xứ người.

Thấy chăng Hermus, Pactole,*

Dòng sông nước chảy, đất cho hạt vàng.

Lydie, Assyrie dệt áo sợi vàng,*

Phi Châu lóng lánh đá thành kim cương.

Giàu sang thúc đẩy kiếm tìm,

Saint Demeure đó nguyên nhân khích lòng.*

 

12.

Phát minh man rợ mới toanh,

Bao nhiêu súng đạn, thần công giết người.

Thành Byzance hay Turquie thôi*,

Vì đâu thách đố phận người nát tan.

Hãy trở về Sylvestres động hang,

Scythie đất lạnh, núi Caspiens quê nhà.

Giải thoát đất Âu Châu ta,

Bọn Turque thống trị, kêu ca gông cùm.

 

13.

Grecs, Thraces, Géorgies, Arméniens.

Lầm than rên xiết vì Sarazin bạo tàn.

Con dân dưới luật dã man,

Học Coran, thuế nặng oằn vai mang.

Trừng phạt khác đạo, tội danh,*

Vinh danh can đảm chiến trường đúng thôi,

Nhưng người mà lại giết người,

Đánh kẻ khác đạo, hổ ngươi bạo tàn.

 

14.

Tấm lòng mù quáng đã mang,

Chẳng còn biết tới dọc ngang bến bờ.

Luôn luôn dũng cảm nước Bồ,

Đức Tin Thiên Chúa chẳng mờ ước mong.

Phi Châu đất biển mênh mông,*

Á Châu không nước nào hơn hùng cường.

Mỹ Châu khai khẩn bạt ngàn,*

Có thế giới khác cũng tìm đến nơi.

 

15.

Vài điều suy nghĩ đôi lời,

Lúc Thần Vệ Nữ giúp người yêu thương.

Làm tan bão tố bạo cuồng,

Cứu nguy cái chết hãi hùng sóng dâng.

Giá nguy nan, được thành công,

Đất Ấn Độ đó đã tìm đến nơi.

Đến gieo hạt giống Chúa Trời,

Đem phong tục mới, đổi đời Tân Vương.

 

16.

Đoàn thuyền gần đến đất liền,

Đoàn thuyền đánh cá nhẹ lên đón chào.

Chỉ Calicut đường vào,

Là nơi sinh sống biết bao dân lành,

Con thuyền vào bến dừng chân,

Thành phố đẹp nhất, ấy thành Malibar.

Kinh đô đẹp nhất nước nhà,

Nơi vua ở, vương quốc là đất riêng.

 

17.

Từ sông Ấn đến sông Hằng,

Một vùng đất rộng mênh mông bản đồ,

Phía nam Đại Dương biển bờ,

Phía Bắc Émodus nhạt mờ núi cao.*

Nhiều vương quốc nhỏ khác nhau,

Bao nhiêu khác biệt tùy theo luật dùng.

Theo Mahomet vài vùng,

Xứ thần tượng, xứ sống cùng thú hoang.

 

18.

Một dãy núi cao trùng trùng,

Xuyên qua Châu Á khắp vùng núi sông.

Tên đổi tùy theo địa phương.

Đi qua phát xuất nhiều nguồn suối trong.

Các suối hợp lại thành sông,

Ấn Độ Dương lớn mênh mông, chảy về.

Dọc núi thung lũng Chersonèse,

Một dãi đất hẹp sơn khê chạy dài.

 

19.

Giữa hai sông, đất rộng dài,

Kim tự tháp ngược cuối đầu nhọn lên.

Ở giữa vùng biển mông mênh,

Đối diện là đảo Tích Lan kề gần.

Hai bên bờ dòng sông Hằng,

Người xưa thường kể chuyện trầm hương thơm.*

Dòng sông thơm ngát mùi hương,

Cuốn theo sông nhụy hoa thơm vô cùng.

 

20.

Ngày nay dân đặt tên vùng,

Do thông dụng mới thường dùng khác nhau.

Delhis, Patanes nơi nào,

Những sắc dân chính tùy vào số đông.

Dekken, Oras linh hồn,

Siêu thoát tắm nước sông Hằng thiêng liêng.

Vào đất phì nhiêu Bengal,

So sánh nơi khác chẳng miền nào hơn.

 

21.

Thiện chiến vương quốc Cambaie

Hùng cường Porus trị dân lưu truyền.*

Narsigne giàu với mỏ vàng,

Các loại đá quý vẫn còn khẩn khai.

Giữa Đại Dương dọc biển dài,

Một dãy núi lớn chạy hoài quanh co.

Như tường lũy Malabar,

Bảo vệ vùng đất Canara phố thành.

 

22.

Xứ Gate dân chúng gọi tên,

Một dòng sông ngắn dọc miền núi non.

Chảy qua vùng đất thác ghềnh,

Chảy vào cửa biển sóng lên hãi hùng.

Các thành phố không gì bằng.

Calicut giàu đẹp đô thành xứng danh.

Thủ phủ đế quốc nhân dân.

Hoàng gia hùng mạnh triều đình Samorin.

 

23.

Trước bến, đoàn thuyền dừng chân,

Sứ giả Bồ đến tâu trình Quốc Vương,

Báo tin thông điệp trao truyền,

Đến từ vùng đất Tây Phương xa vời.

Sứ giả vừa vào đến nơi,

Dáng hình xa lạ trắng tươi da người.

Áo quần khác, chẳng giống ai,

Kinh thành kinh ngạc, người người vây quanh.

 

24.

 

Trên bờ đám đông vây quanh,

Một người Hồi thuộc giống dòng Châu Phi,

Dân đã biết vùng bán khai,

Antée từng đã đến nơi trị vì.

Cận kề nơi biết tên gì,

Biết đến vương quốc tên chi, Bồ Đào.

Trước chiến tranh diễm phúc nào,

Nổi trôi phiêu bạt đã vào đến nay.

 

25.

Nhìn sứ giả mới đến đây,

Hắn rằng thông thạo tiếng này Tây Ban Nha.

“Ai đã dẫn đường đi xa,

Đến thế giới khác, Bồ Đào Nha quê nhà.”

Sứ giả mới trả lời là :

“Mở con đường biển đi xa hải hành.

Chưa bao giờ ai du hành,

Giúp Ấn Độ biết luật thiêng Chúa Trời.”

 

26.

Người Maure tên gọi Monçaide ,

Hiểu đôi chút chuyến đi dài biển xa.

Kể ra vắn tắt thế mà,

Làm người kinh ngạc, nghe qua phục lòng.

Muốn trao thông điệp giao thương,

Vua Bồ phó thác sứ đoàn đến đây.

Người rằng : “ Vua đã ra đi,

Thăm dân tình chẳng xa chi, ít ngày.”

 

27.

Riêng  ông đã đến nơi đây,

Nghỉ ngơi vài bữa xứ này cho vui.

Nghỉ trong lều tranh của tôi,

Nếm món đặc sản đãi người phương xa.

Khi lấy lại sức, chúng ta,

Cùng nhau thăm các tàu qua chung cùng.

Chúng tôi sung sướng vô cùng,

Gặp gỡ bạn hữu xa chung xứ người.

 

28.

Người Bồ Đào Nha nhận lời,

Monçaide đón như thời quen lâu.

Cùng ăn cùng uống với nhau,

Xứ người gặp gỡ có nhau thỏa tình.

Rồi cả hai cùng về thuyền,

Người Maure kể lại chuyện trên phố thành.

Thuyền Trưởng tiếp rước chân tình,

Đón Monçaide với lòng nhiệt tâm.

 

29.

Thuyền Trưởng thân mật ôm hôn,

Vui mừng cùng nói tiếng miền Tây Ban Nha.

Ngồi trước mặt nghe kể qua,

Hỏi thăm Ấn Độ nước đà đến đây.

Như Rhodop cây sum vầy,*

Nỗi niềm duy nhất mê say tiếng đàn,

Như Eurydice gảy lyre vàng.*

Mọi người tụ hợp, miên man nghe cùng.

 

30.

Lời rằng : “Giữa chốn thiên nhiên,

Nước gần kề xứ tôi miền quê hương.

Vận mệnh kỳ lạ đi tìm,

Đến đây xứ lạ con dân Bồ Đào,

Chắng phải không duyên cớ nào ?

Sông Tajo đến Minho xa vời,

Trải bao vùng đất, biển khơi,

Đến xứ xa lạ, chân trời  xa xăm.”

 

31.

“Chúa Trời khiến, chắc chắn rằng,

Ngài giao sứ mệnh Ngài hằng trông mong.

Ngài dẫn đường, Ngài hộ thân,

Kẻ thù biển cả, gió vần bão giông.

Có biết Ấn Độ đây chăng ?

Trăm sắc dân sống giàu sang, hùng cường.

Nhiều vàng, đá quý kim cương,

Bao nhiêu gia vị, dầu hương thơm lừng.”

 

32.

“Tỉnh thành anh đến đây thăm,

Đất này tên gọi là thành Malabar.

Thần tượng, tôn giáo cổ xưa,

Phần đông dân chúng thiết tha kính sùng.

Nhiều vị vua nhỏ từng vùng,

Nhưng xưa có quốc vương chung quyền hành.

Samara Périmal vua cuối cùng,

Giữ gìn thống nhất cả vương quốc này.”

 

33.

“Có thời Hồi giáo đến đây,

Từ Arabie đến nơi này lập nên.

Đạo Mahomet lưu truyền,

Cha mẹ tôi vẫn giữ riêng đạo nhà.

Kinh Coran  Tiên Tri lập ra,

Périmal sùng kính đi xa kiếm tìm.

Phụng sự Tiên Tri lưu truyền,

Vua chiêm nghiệm, chết thiêng liêng thánh thần.”

 

34.

“Sửa sang thuyền lớn hành hương,

Mang bao của cải lên đường hiến dâng.

Đến đất thiêng Tiên Tri sinh,

Trở về từ đó đạo truyền khắp nơi.

Trước khi nhắm mắt lìa đời,

Không có hoàng tử nối ngôi vương quyền.

Ông chia cho người chung quanh,

Lại chia giai cấp quyền hành giàu sang.”

 

35.

“Người Cananor, kẻ Cochin,

Kẻ Chalem, kẻ đảo trồng Hồ Tiêu.

Kẻ Coulon, kẻ Craganor,

Chia phần còn lại, gia nô trung thành.

Cuối cùng một chàng thanh niên,

Ông yêu thương nhất, chẳng còn gì hơn.

Calicut  đất cuối cùng,

Phố thành danh tiếng giàu sang thương thuyền.”

 

36.

“Ông tấn phong ngôi Đế Vương,

Các lãnh địa khác dưới quyền quản cai.

Làm vua chăm chỉ toàn tài,

Tiếp tục đường lối trị vì đức nhân.

Vị vua cao cả lừng danh,

So với vua khác tốt lành chẳng hơn.

Tiếp tục dòng dõi cháu con,

Đế Quốc gìn giữ vẫn còn hôm nay.”

 

37.

“Giàu nghèo, tiền kiếp an bài,

Từ các thần thoại đặt bày nghìn xưa.

Ăn mặc trần trụi, vải thưa,

Trai che chổ kín, gái vừa đủ thân.

Giai cấp thứ tự biệt phân,

Naïres quý tộc giống dòng giàu sang.

Parias lao động thấp hèn,

Luật lệ cấm ngặt, vào hàng khinh chê.”

 

38.

“Luôn luôn làm mãi một nghề,*

Vợ giai cấp khác khó bề kết hôn.

Một nghề truyền tự tổ tiên,

Cho đến khi chết luôn luôn phục tòng.

Naïres thấy dơ bẩn mình,

Nếu tiếp xúc kẻ bần cùng Parias,

Nếu lỡ lầm chạm anh ta,

Phải ngàn lễ tẩy để mà sạch trong.”

 

39.

“Như Do Thái thời xa xăm,

Nếu phải tiếp xúc giống dòng Samaritaine.

Phong tục kỳ lạ nhiều hơn,

Thật là xa lạ nếu còn kể thêm.

Naïres chiến đấu sống còn,

Bảo vệ vua chống xâm lăng nước thành.

Giữ gìn bờ cõi hùng anh,

Gươm tay phải, tay trái mang khiên đồng.”

 

40.

“Giáo sĩ giai cấp Bà La Môn,*

Giai cấp xưa vẫn lưu truyền uy danh.

Họ theo bậc thầy tiếng tăm,

Giảng dạy thông thái và cùng lễ tân.

Họ không giết mọi chúng sanh,

Họ không ăn thịt chỉ ăn chay trường.

Chỉ trong quan hệ ái tình.

Họ ít phép tắc, mặc mình giao hoan.”

 

41.

“Phụ nữ chọn lựa sống chung,

Luôn cùng giai cấp với chồng mà thôi.

Hạnh phúc thay ! thật sướng vui,

Không có định kiến, không người ghen tuôn.

Cuộc sống đơn giản thuần phong,

Malabar chấp nhận mà không ngại gì.

Vật phong phú bán khắp nơi,

Từ Trung Quốc đến sông Nil xuôi thương thuyền.”

 

42.

Người Maure còn kể liên miên,

Phố thành tin đã lan truyền khắp nơi.

Vị vua sai quan, một người,

Hỏi xem tự sự, đến chơi kiếm tìm.

Khắp thành, khắp mọi con đường,

Tò mò người đủ tuổi cùng gái trai.

Vị quan tìm đến lệnh mời.

Thuyền Trưởng tàu được truyền vời vào cung.

 

43.

Gama lòng đã sẵn sàng,

Chờ lệnh vua đến cả đoàn Bồ Đào Nha.

Chẳng chậm trể rời thuyền qua,

Quân phục nghiêm túc cùng là huân chương.

Sắc màu sáng chói y trang.

Đập mắt dân chúng ở trên bến tàu.

Các con thuyền nhỏ nhẹ chèo,

Rời biển theo cửa sông vào tận trong.

 

44.

Trên bờ Tham Tụng Quốc Vương,*

Mà danh trong xứ gọi bằng Catual.

Vâng lệnh vua đến tiếp tân,

Mời theo phong tục của dân nơi này.

Đến bờ họ đã cầm tay,

Mời lên chiếc cán thêu may trang hoàng.

Theo phong tục nằm trên giường,

Các người khuân vác nhẹ nhàng lên vai.

 

45.

Malabar và sứ vào rồi,

Trong cung vua đứng đợi chờ Gama.

Bước theo kèn trống Bồ Đào Nha,

Đoàn người nghiêm chỉnh bước qua cung đình.

Dân chúng chen lấn trên đường,

Lạ lùng nhìn thấy muốn còn hỏi thăm.

Nhưng tiếng xa lạ chẳng rành,

Khác nhau từ thuở tháp thành Babel.*

 

46.

Gama, Cantal làm quen,

Hỏi chuyện Monçaïde theo bên gợi lời.

Làm thông ngôn giữa hai người,

Lắng nghe rồi dịch từng lời nói năng.

Họ vào thành phố bên trong,

Đến một nơi, chốn điện cung sáng ngời.

Sừng sững một tòa lâu đài,

Họ đi qua cổng, đến nơi cung đình.

 

47.

Khắp nơi gỗ đá lạnh lùng,

Các thần tượng chạm đủ hình vũ công.

Đủ các hình dáng thoáng trông,

Tưởng rằng ma quỷ ở trong cõi nào.

Tượng trăm tay kinh khủng sao !

Như con quái vật khác nào nhện giăng.

Mắt người dân Chúa đã quen,

Thánh hình người, thấy ngạc nhiên vô cùng.

 

48.

Tượng thì đầu nhọn có sừng,

Như Jupiter Harmon ở vùng Libye.

Tượng thì mình đầu chung nhau,

Giống như Janus, thần nào Romain.

Tượng khác vô số tay chân,

Như là bắt chước dân vùng Biarie.

Tượng khác đầu chó Annubis.

Hổn loạn Memphis từng khi cúng thờ.

 

49.

Thần tượng đủ cách vẽ vời,

Biểu tượng nhẹ dạ của người tin mê.

Đoàn người thẳng bước đi về,

Vào trong cung điện cận kề quốc vương.

Đám đông chen lấn càng đông.

Muốn được tận mắt thấy trông lạ lùng.

Đàn bà, trẻ, đứng ban công,

Có cả những kẻ trèo trên nóc nhà.

 

50.

Họ chậm bước đến vườn hoa,

Bóng râm toả mát, đậm đà hương thơm.

Cung điện chỉ một tầng hơn,

Nhưng trông lộng lẫy chung quanh sắc màu.

Lâu đài quanh với vườn rào,

Khí hậu nóng bức bước vào thảnh thơi.

Cung điện vườn tược mát tươi,

Tưởng chừng thành phố ở nơi cánh đồng.

 

 51.

Ở bên trên cánh cửa cung,

Tài năng nghệ thuật sánh cùng Dédale.*

Nâng cao giá trị thanh cao,

Điêu khắc cảnh Ấn Độ nào cổ xưa.

Thời gian thần thoại rất xa,

Biểu hiện hình ảnh tạo ra cuộc đời.

Phải cần khoa học riêng thôi,

Để nghiên cứu hiểu biết nơi tượng hình.

 

52.

Đây đồng Hydras phương Đông,

Một đoàn đông đảo đóng thành trại quân.

Vị chỉ huy mặt sáng trong,

Tay cầm cây gậy lá cành còn nguyên.

Nysa sông chảy xuôi triền,

Hiểu ngay là chuyện của thần Sémélé.

Tác phẩm điêu khắc nói về,

Chắc chắn là chuyện xứ quê của thần.

 

53.

Xa hơn khô cạn dòng sông,

Bộ lạc đông đảo của vùng Assyriens.

Điều khiển cai trị dưới quyền,

Nữ Hoàng nhan sắc, gợi lòng dục dâm.

Hình ảnh nóng bỏng bên hông,

Điêu khắc con ngựa say lồng kề bên.

Người ta bảo chính là con,

Loạn luân súc vật hoang dâm vô cùng.

 

54.

Xa hơn cờ xí bay tung,

Ngọn cờ Hy Lạp quang vinh lẫy lừng.

Đế Vương thứ ba triều đình,*

Mang quân chinh phục, sông Hằng sục sôi.

Một vị tướng trẻ chỉ huy.

Vòng hoa vinh hiển dáng oai kiêu hùng.

Con Philippe chẳng đủ danh,

Mà là chắc chắn con dòng Jupiter.

 

55.

Nhìn tượng say mê khắp nơi,

Cantal đã nói lời mời Gama.

Chuyện vinh quang cũ đã qua,

Những chuyện ở trước mắt ta lẫy lừng.

Giờ đây lịch sử sang trang,

Người khách lạ viết lên hàng sử xanh.

Việc làm chúng ta hoàn thành,

Sẽ còn mãi mãi vinh danh ngàn đời.

 

56.

Sẽ còn bài học mãi thôi.

Vì bao sức lực con người bỏ không.

Uổng công sức chống ngoại xâm,

Sức người có hạn chẳng ngang bằng Trời.

Người khách lạ tự xa xôi,

Hoà bình chiến thuật khác thời chiến tranh.

Vũ trụ ca ngợi chiến công,

Đã cùng thế giới góp phần vinh quang.

 

57.

Họ cùng vào đến cung đình,

Vị vua hùng mạnh bao quanh triều thần.

Ngồi trên trường kỷ huy hoàng,

Chưa bao giờ thấy ngai vàng nào hơn.

Dung mạo uy nghiêm phi thường,

Dáng điệu trong sáng nhìn càng thanh cao.

Sợi vàng thêu kết áo bào,

Vương miện hồng ngọc sáng ngời kim cương.

 

58.

Quan lão hầu cận một bên,

Thỉnh thoảng quỳ xuống dâng lên vua dùng.

Một lá trầu cuốn cay nồng,

Thói quen phong tục thường dùng nhai quen.

Brahmâne cao cấp cung đền,

Bước đi chầm chậm đến cùng Gama.

Để giới thiệu với vị vua,

Và ra dấu hiệu trước vua cùng ngồi.

 

59.

Gama ngồi gần bên ngai,

Samorin chăm chú nhìn người khách xa.

Trang phục phong cách khác ta,

Nhà vua chẳng biết đâu mà đến đây ?

Gama cất tiếng trình bày,

Mọi người chú ý lắng tai nghe lời.

Cả triều im lặng đợi mời,

Monçaide phiên dịch mọi người hiểu qua.

 

60.

“Một vị Đại Vương xứ xa,

Dưới trời trái đất quay qua đêm ngày.

Mặt trời chiếu rọi là ngày,

Phía sau đất khuất nơi này là đêm.

Nghe xứ Ấn Độ vang danh,

Tiếng danh vang dội khắp vùng thế gian.

Vua uy quyền chẳng ai bằng,

Vì thế muốn kết tình thân nước nhà.”

 

61.

“Vạn dậm đường biển đi xa,

Bao xứ giàu có đã qua trên đường.

Từ sông Tajo đến sông Nil,

Và từ băng giá lạnh lùng Zélande.*

Tận nơi Mặt Trời không tàn,

Và ngày vô tận nơi không đêm dài.

Éthopie ở bên này,

Vương quốc tôi ở phía trời bên kia.”

 

62.

“Ký kết hiệp thương thái hòa,

Tình bạn chân thật chẳng hề xâm lăng.

Nếu Ngài trao đổi tài nguyên,

Nước tôi nguồn lợi thiên nhiên dồi dào.

Làm tăng lợi tức nước Ngài,

Và sự giàu có đời đời phồn vinh.

Mồ hôi khó nhọc nhân dân,

Cho Ngài lợi lớn vinh quang xứ người.”

 

63.

“Tình bạn thắt chặt với Ngài,

Những điều thân hữu Vua tôi sẵn sàng.

Vương quốc Ngài nếu chiến tranh,

Thiên tai nguiy hiểm đến trong xứ Ngài.

Chúng tôi sẽ giúp đỡ Ngài,

Thuyền bè, vũ khí qua thời nguy nan.

Xem nhau như tình anh em,

Những điều ước muốn hiệp thương rõ ràng.”

 

64.

Thông điệp Thuyền Trưởng trao truyền,

Vị vua tử tế sẵn lòng bang giao.

Thật là vinh dự lớn lao,

Tiếp được sứ giả xứ nào xa xăm.

Nhưng việc quyết định thật lòng,

Phải cần tham khảo Hội Đồng các quan.

Điều thông tin đã rõ ràng,

Vị Vua đại diện quê hương thay lời.

 

65.

Lúc chờ chính thức trả lời.

Nhà vua không chậm phán xuôi thuận lòng.

Gama vui vẻ tương đồng,

Vị vua sung sướng lời chân tình này.

Màn đêm xuống đã tàn ngày.

Sau những mõi mệt đã đầy gần xa,

Giấc ngủ dịu hiền đi qua,

Mắt đà trút khỏi bao là âu lo.

 

66.

Gama được mời nghỉ ngơi,

Trong điện cung thủ tướng nơi triều đình.

Một bữa tiệc mời tiếp tân,

Khoản đãi thịnh soạn tiếp đoàn khách xa.

Cantual đã tâu trình qua,

Nhiệm vụ vua đã truyền trao việc làm.

Về những người lạ đến thăm,

Nơi nào xứ sở và phong tục người.

 

67.

Xe thần quyến rũ đẹp trai,

Thần Delos kéo ánh mai sáng hồng.

Vị quan hỏi Monçäide rằng :

Khát khao muốn biết việc trong nước này.

Tò mò muốn biết nơi đây,

Hãy cho biết hết tỏ bày người xa.

Hắn rằng đã biết rõ mà,

Xứ này và xứ tôi qua cặn kề.

 

68.

Muốn thông tin rõ mọi bề,

Giúp vua hiểu biết rõ về xứ xa.

Có thể hoạt động để mà,

Ký kết hiệp ước thông qua  sự tình.

«  Tôi không thể nói nhiều hơn,

Tôi chỉ biết rõ nước vùng Tây Ban Nha.

Miền đất nước này quê nhà,

Mặt trời tắm mát chan hòa biển xanh.”

 

69.

“Họ theo tôn giáo đức tin.

Đấng Tiên Tri xuống dương trần giáng sinh.

Bởi người mẹ trẻ đồng trinh,

Do Chúa Trời đã hiện thân thành người.

Khác biệt tổ tiên ta thôi,

Bàn tay đẩm máu rạng ngời chiến công.

Vô địch quá khứ lẫy lừng,

Còn ghi dấu lại, cha ông lưu truyền.”

 

70.

“Bởi do niềm tin siêu nhiên,

Đánh đổi xâm lược khỏi miền sông Tage.

Vùng màu mở, vườn Guadiana,

Chiến công anh dũng xông pha lưu truyền.

Chiến thắng chưa đủ thoả lòng,

Đóng thuyền vượt biển bão giông  ngàn trùng.

Chiếm đất Phi Châu nhiều vùng,

Lấy thành trì, các phố thành chúng tôi.”

 

71.

“Can trường dũng cảm để đời,

Bao nhiêu trận địa sáng ngời chiến công.

Chống Tây Ban Nha mạnh đông,

Từ Pyrénée xuống đấu tranh hùng cường.*

Chẳng bao giờ sợ xâm lăng,

Chiến thắng to lớn chiến công vang lừng.

Annibals, Marcellus xưa từng,*

Chiến công đã hẵn có phần kém thua.”

 

72.

“Nếu tôi chẳng đủ lời thưa,

Cần hỏi thẳng họ, điều vừa thông tin.

Những người trung chính thật lòng,

Chẳng hề gian dối ở trong mọi lời.

Xem tàu thuyền, vũ khí thôi,

Cách đúc kim loại, chẳng người nào hơn.

Hãy bằng lòng ký hoà bình,

Bồ Đào Nha, cuộc tranh giành không nên.”

 

73.

Người Maure khuyên nhủ thật lòng,

Như thần tượng cháy không còn ước mong.

Tàu thuyền ông muốn viếng thăm,

Gama điều khiển thuyền con đã vào.

Cả hai cùng rời bến bờ,

Các quan quý tộc cũng chờ theo sau.

Lên tàu hùng tráng đẹp sao !

Paul Gama thuyền trưởng đón chào tiếp tân.

 

74.

Phướng đỏ kéo lên chào mừng,

Những ngọn cờ phướng tơ tằm dệt nên.

Thảm thêu lịch sử đầu thuyền,

Ghi những trấn chiến công miền Bồ Đào Nha.

Trận chiến ghi công nước nhà,

Những trận song đấu hay là chiến công.

Các thảm thêu thật xảo tinh,

Các quan khách đến, không ngừng chú tâm.

 

75.

Các hàng ghế tiếp đón mừng,

Gama mời khách cùng chung rượu nồng.

Trước khi trả lời hỏi thăm,

Thịt ngon, rượu bọt sủi tăm, rượu mùi.

Rượu mùi Noé, cúp mời,

Vua quan Ấn Độ uống người ngà say.

Nhưng thịt cá không đụng tay,

Vì luật tôn giáo chỉ ăn chay trường.

 

76.

Đội nhạc công cất tiếng kèn,

Tiếng kèn đồng, trống dục lòng hân hoan.

Tiếng vang như tiếng sấm rền,

Bay trên sóng nước vang lừng âm thanh.

Người Ấn chiêm ngưỡng chú tâm,

Trong lòng tất cả âm thanh lạ lùng,

Câu thơ nghĩ mãi trong lòng,

Ghi lại sự kiện trên thuyền xãy ra.

 

77.

Cantual dậy cùng Gama,

Caelho cũng thế, cùng là Mauritanien.

Mắt nhìn lên bức chân dung,

Cụ già râu trắng gợi lòng kính tôn.

Tiếng danh bất tử mang tên,

Thế giới khi biết giao thương loài người.

Áo trắng  Hy Lạp choàng vai,

Trên tay trái lá xanh tươi một cành.

 

78.

Một cành lá trên tay cầm,

Tôi mù lòa, cuộc hải trình khó khăn ?

Gian nguy, xa thẳm, thất thường,

Sông Tajo tiên nữ, nữ thần Mondigo.

Tôi cầu thần tiên giúp cho,

Lướt qua biển cả, gió to ngược buồm.

Nếu Ngài không giúp đỡ giùm,

Thì con thuyền nhỏ mong manh đã chìm.

 

79.

Từ lâu tôi ngợi ca lòng.

Sông Tajo xinh đẹp, anh hùng Bồ Đào Nha.

Phiêu lưu định mệnh vượt qua,

Bao nhiêu thử thách, phong ba bão bùng,

Bao nhiêu lo lắng nhọc nhằn,

Gian nan thần Mars, máu hồng đấu tranh.

Tay viết, tay nắm thanh gươm,

Như Canace thuở xưa ngàn hiểm nguy.

 

80.

Khi lưu vong nơi xứ người,

Khốn cùng bao nỗi cuộc đời trải qua.

Bao thất vọng lại xãy ra,

Niềm hy vọng mãi trong ta vững bền.

Cuộc đời nhiều lúc truân chuyên,

Đong đưa như sợi tơ mềm mong manh.

Nếu không phép lạ thi ân,

Vua Do Thái sống lâu hơn trên đời.*

 

81.

Ôi tiên nương , chẳng đủ thôi,

Tôi còn sống mãi cuộc đời khổ đau.

Tôi còn chờ đón người nào ?

Thơ tôi cứ mãi cất cao tiếng lòng.

Thay vì vui thú bản thân,

Một vòng nguyệt quế tôi hằng vinh quang.

Tôi ca ngợi những nguy nan,

Đẩy vào hoàn cảnh u buồn thảm thương.

 

82.

Cao thượng thay, ôi tiên nương !

Hồn sông Tage đã gợi hồn sinh ra.

Tấm lòng ưu ái bao la,

Phải trả cái giá khúc ca hào hùng.

Tấm gương tương lai văn nhân,

Kích thích được những tâm hồn biết ham.

Say mê mới lạ việc làm,

Khám phá bất tử, vinh quang loài người.

 

83.

Giữa bao đau khổ cuộc đời,

Chẳng nên miển cưỡng giúp tôi chẳng đành.

Nhất là giờ đây sẵn sàng,

Tôi ca ngợi những kỳ công tuyệt vời.

Tôi không chờ đợi nơi Ngài,

Giúp đỡ vinh dự cho người xấu xa.

Xu nịnh quyền chức ngợi ca,

Những người bội bạc ấy là nguy cơ.

 

84.

Ôi ! Tiên nương chẳng bao giờ,

Cho lòng vị kỷ muốn vua ban phần.

Cho riêng lợi ích cá nhân,

Khinh khi pháp luật thánh thần, nhân gian.

Tôi ngợi ca chẳng lòng tham,

Ngôi cao quyền trọng mơ màng viễn vông.

Thỏa thuê khát vọng trong lòng,

Thói hư hèn hạ, vẫn thường thế gian.

 

85.

Không ban cho kẻ tước quyền,

Xử dụng cho những thấp hèn, ngẩn ngơ.

Đám đông đổi ý từng giờ,

Như là thần Biển Protée đổi hình.*

Như Camènes đó cũng không,

Dưới một lớp áo chính trung để mà,

Nịnh bợ, tâng bốc nhà vua,

Để mà cướp bóc lột da dân lành.

 

86.

Chẳng người tướng tốt chính nhân,

Luôn luôn theo đúng lệnh truyền Vua trao.

Nhưng mà chẳng chính chút nào,

Hợp lý vơ vét sức bao dân lành.

Những kẻ chẳng nghĩ suy lòng,

Viện cớ đủ lẽ (tưởng rằng khéo khôn).

Trả giá, biển lận một bên,

Tùy tiện việc khác, thì không vững bền.

 

87.

Tôi chỉ nói những kẻ làm,

Cho Trời, cho đến Quốc Vương quên mình.

Phải cần trân trọng đấu tranh,

Dù được, dù mất quang vinh xứng lòng.

Apollon và các Thi Thần,

Mặc khải giúp đỡ tấm lòng mới tôi.

Mai sau dù trả lại đời,

Hơi thở tôi mãi từng lời thi ca.

 

(Còn tiếp Thi ca khúc VIII)

 

CHÚ THÍCH.

2. Giáo Hội Anh Em, le bercail fraternel là Cộng Đồng Thiên Chúa Giáo mà Crist là người chăn chiên.

4. Nói đến việc lập đạo Tin Lành tại Đức, chống lại Charles Quint tách rời ra khỏi Vatican.

5. Vua nước Anh từ Richard Coeur de Lion, còn tự xưng là vua Jésusalem. Vua Henri VIII chống lại Vatican không cho ly dị Hoàng hậu là cô của vua Tây Ban Nha để cưới vợ khác ông thành lập Anh Giáo, không theo Vatican.

6. Nước Pháp François Ier đánh các lãnh chúa nước Ý và Vatican khiến Giáo Hoàng phải lánh nạn.

8. Nước Ý các lãnh chúa  sống trong nhung lụa ăn chơi sa đọa  tranh chấp quyền lực như trẻ con, không giúp Vatican.

9. Theo huyền thoại Cadmus muốn dựng thành Thèbes, nhìn thấy con rồng đang ăn thịt bạn bè bèn giết rồng với sự trợ giúp của Thần nữ  Pallas-Athénea và rãi khắp nơi răng quái vật. Các răng con rồng sinh ra các chiến binh chém giết lẫn nhau. Thi sĩ sánh người dân Chúa như răng rồng, cùng nguồn gốc sinh ra mà chém giết lẫn nhau.

12. Babylone hay Constantinoble.

13. Ở các nước Hồi Giáo ngày xưa, người Thiên Chúa Giáo muốn giữ đạo phải học Kinh Coran Hồi Giáo và đóng thuế rất nặng.

14. Bồ Đào Nha khai phá vùng rộng lớn Angola, Mozambique ở Phi Châu, khai phá Brésil đất rộng nhất Châu Mỹ, tại Á Châu đi đến giao hảo buôn bán, lập thương điếm Goa, Malacca, Macao, Hội An, Can Cao.. trước cả các cường quốc Tây Ban Nha, Anh, Pháp.

17. Dãy núi Hy Mã Lạp Sơn

18. Hai dòng sông lớn  sông Ấn và sông Hằng cùng phát nguyên trên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, nối liền với lục địa Á Châu bằng một dãi đất dọc theo hai con sông.

19. Plutarque và Pline l ́ Ancien. Montaigne trong Essais II.12. trích dẫn : Theo truyền thuyết Plutarque kể lại có vài nơi ở Ấn Độ có giống người không cần ăn họ chỉ ngữi hương thơm.

21 Porus chinh phục bởi Alexandre le Grand.

22. Calicut thành phố huy hoàng và thịnh vượng. Kinh đô của Đế Quốc Ấn Độ, các thành phố khác không bằng.

37. Trước khi người Anh qua, trừ giai cấp Bà La Môn, và Chiến sĩ, phụ nữ còn để ngực trần, đàn ông đóng khố.

38. Giai cấp Parias làm những nghề hạ tiện như khuân vác, đốt xác người chết, gánh phân, tôi tớ..

40. Bà La Môn: giai cấp Brahmânes.

44. Chức vụ cao nhất triều đình, tương đương với Thủ Tướng ngày nay.

45. Theo Thánh Kinh, do lòng kiêu ngạo muốn xây tháp Babel cao tận trời, Chúa Trời làm tháp sụp đổ, và người nói tiếng khác nhau không còn hiểu nhau nên tản mát ra bốn phương.

2. Bacchus Thần Rượu Nho.

53. Sémiramis thần thoại tương truyền loạn luân với con là Nynyas, hóa thân làm con ngựa giao cấu với mẹ.

54. Đế Quốc Alexandre Hy Lạp đem quân qua Ấn Độ. Nabuchodonosor  mơ thấy mình kế tiếp ba Đế Quốc: Thứ nhất Đế Quốc Babylonne của ông, Thứ hai là Đế Quốc  Perse, thứ ba là Đế Quốc  Alexandre và cuối cùng là Đế Quốc  La Mã Romain.

Vị tướng trẻ là Alexandre xưng danh mình con Thần Zeus (Jupiter).

58. Tục ăn trầu, lá trầu là piper betele, người Ấn Độ khi khách đến thường mời dùng trầu. Tại Việt Nam ngày xưa “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, cưới hỏi đều phải có cau trầu, nhưng ngày nay chỉ còn tượng trưng, các thế hệ ngày nay không ai dùng nữa. Cách đây khoảng 50 năm, tại Paris có câu chuyện cụ bà Việt Nam ra đường nhổ trầu đỏ thắm bị cảnh sát Pháp đem vào bệnh viện vì tưởng ho ra máu. Ngày nay tại Ấn Độ cau trầu vôi được quết sẵn bán trong các xe đẩy như xe bán thức ăn nhanh, các thanh niên cũng đến mua nhai nhóp nhép cả ngày.

61. Nguyên tác Gelandia là vùng Zelande  địa đầu Nam Phi thuộc Hoà Lan.

68. Monçaïde gốc từ  vùng Tunisie. Nhưng thời đó chưa phân chia những quốc gia khác nhau Tunisie, Algérie, Maroc.. nên quê hương ông là nguyên cả vùng Barbarie dọc biển từ Đại Tây Dương cho đến Địa Trung Hải.

69. Jésus Christ sinh bởi Đức Mẹ Đồng Trinh, nhưng theo Kinh Coran. Jésus không phải là Chúa Trời mà chỉ là một Tiên Tri như  Abraham (Sidna Brahim) hay Moise (Sidna Moussa) được tạo thành bởi hơi thở Chúa Trời do Thiên thần Gabriel mang đến.

71. Nghĩa là nhiều người từ Gaule xuống đánh thuê cho Castillan.

Marcellus thắng Annibals ở Nola.

77. Ở đây là Paul de Gama, vì Vasco de Gama vẫn còn ở lâu đài Samorin.

80. Nói bóng gió đến việc tàu Camoẽs bị đắm ở cửa sông Cửu Long, ông còn sống sót.

Vua Do Thái Ézéchias gần chết, cầu xin Chúa Trời nên được sống thêm 15 năm.

85. Chuyện trong Odyssée, thần Protée bị bốn người nắm chặt tay chân đã biến ra các con thú khác nhau, ra cây để trốn thoát, cuối cùng không thoát được phải nói lời tiên tri.


Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.