Cổ thi Việt Nam
Đằng Châu ca giả Phú Nhi ký hữu sở dữ, thư dĩ tặng chi
Đằng Châu ca giả Phú Nhi ký hữu sở dữ, thư dĩ tặng chi
Cổ nhân bất thức kim nhân hận
Tài đáo thương ly thuyết tận tình
Minh nhật dục từ Nam phố đạo
Hà nhân (*) cánh xướng Bắc cung thanh
Hàn y(**) cô quán phong sương thiểu
Vụ hợp thâm thôn(***) trúc thụ bình
Tiếu sát Tầm Dương tuý Tư Mã
Thanh sam hà lệ sự tung hoành ?
* Có bản chép là "thuỳ gia".
**Có bản chép là "khách hoài".
***Có bản chép là "hoang thôn".
dịch nghĩa
Người đời xưa không biết mối hận của người đời nay
Vừa mới buồn vì chia phôi đã kể lể hết nông nỗi.
Ngày mai ta muốn từ biệt con đường phố Nam này
Biết ai sẽ lại hát cho ta nghe giọng Bắc nữa ?
Trời rét, nương náu ở nơi quán cô quạnh, cũng tạm đỡ gió sương
Chiều tối, mây mù bao phủ xóm xa xa, cây cối đều im ắng cả
Đáng cười chết cả ông Tư Mã say ở bến Tầm Dương
Việc gì phải khóc đến nỗi nước mắt ướt đẫm áo xanh ?
Người đào hát ở Đằng Châu tên là Phú Nhi muốn xin thơ, nhân viết tặng (Người dịch: Trúc Khê)
Khổ hận xưa, nay cùng một nguồn,
Bao nhiêu ly biệt bấy nhiêu buồn.
Bến nam mình sắp câu từ giã,
Cung bắc ai còn tiếng nỉ non?
Cửa quán lạnh lùng cơn gió hắt,
Ngàn cây mù mịt lớp sương tuôn.
Tầm Dương ngán quá chàng Tư Mã,
Vạt áo can chi lệ chảy dồn!
Trong Cao Bá Quát - Danh nhân truyện ký của Trúc Khê có tên là Đề đào nương xá (Đề nhà ả đào), còn trong Thơ văn Cao Bá Quát của Nhà xuất bản Văn học thì có tên là Đằng Châu ca giả Phú Nhi ký hữu sở dữ, thư dĩ tặng chi (Người đào hát ở Đằng Châu tên là Phú Nhi muốn xin thơ, nhân viết tặng)
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng
login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin
ghi danh.