Dị bản “Độc Tiểu Thanh ký”
Ba trăm năm nữa mơ màng
Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như?
Xuân Diệu dịch
1/.Nguyên bản?
Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh ký (ĐTTk) trong thời gian ông làm quan ở Bắc Hà (1802-1804), về sau (ĐTTk) được gom chung vào ThanhHiên thi tập-gồm các bài thơ ông viêt trong 18 năm liền (1786-1804)-Phải nhớ rằng các cụ nhà Nho Việt Nam thời quân chủ, sáng tác thơ văn chủ yếu là để tỏ bày tâm sự của mình, để thù tạc với bạn bè, ít có ý thức lưu lại cho đời sau.Đặc biệt các tác phẩm viết bằng chữ nôm, do chữ Nôm được cấu tạo không dựa trên một hệ thống quy tăc nhất quán, nghiêm ngặt. Thế là mỗi nhà viết theo một kiểu, điển hình là kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du hiện có mấy chục bản khác nhau, mà các nhà khảo cứu vẫn chưa ngừng bàn cãi. Vì vậy hàng trăm năm sau, nhiều tác phẩm của cổ nhân viêt bằng chữ Hán và chữ Nôm con cháu khó mà tìm được bản gốc, cũng là điều dễ hiểu, Hiện nay hầu như (ĐTTk) được xem là bản gốc có dang như sau (*)
讀小青記 Độc Tiểu Thanh Ký
西湖花宛盡成墟 Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
獨吊窗前一紙書 Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
脂粉冇神憐死後 Chi phấn hữu thần lân tử hậu
文章無命累焚餘 Văn chương vô mệnh lụy phần dư
古今恨事天難問 Cổ kim hận sự thiên nan vấn
風韻奇冤我自居 Phong vận kỳ oan ngã tự cư
不知三百餘年後 Bất tri tam bách dư niên hậu
天下何人泣素如 Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
2/. Ít có bài thơ chữ Hán nào của Nguyễn Du lại có nhiều bản dịch ra Viêt ngữ như (ĐTTk) ; ngay Đường thi Trưng Quốc số bài được nhiều người dịch cũng chỉ đếm đầu ngón tay! Như các bài Tương tiến tửu của Lý Bạch, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu; Phong Kiều dạ bạc củaTrương Kế... Một bài thơ có nhiều bản dịch chỉ có thể căt nghĩa là bài thơ đó vừa hay vừa đa nghĩa, mỗi dich giả có thể hiểu theo cách riêng của mình,đôi khi tạo ra sự khác biệt. Xin dẫn ra đay ba bản dịch;
2.1 Ông Trần Văn Nhĩ(1)
Dịch nghĩa
Đọc bài ký Truyện nàng Tiểu Thanh .
Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò bãi hoang
Trước song cửa, một mình đọc một trang sách để viếng nàng
Bức vẽ có thần, sao khi chết còn để lại niềm thương tiếc
Văn chương không có số mệnh mà cũng lụy đến tập thơ (bị đốt còn sót lại)
Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được
Ta tự coi mình như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.
Không biết hơn ba trăm năm sau
Thiên hạ có ai là người khóc Tố Như?
Dịch thơ:
Vườn cảnh Tây Hồ nay xác xơ
Trước song xin đọc viếng người xưa
Văn chương không mệnh phần dư lụy
Son phấn hữu thần tử hậu như?
Sầu hận cổ kim trời khó hỏi
Oan tình phong nhã tự ôm khư.
Ba trăm năm nữa nào ai biết
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?
2.2 Bản dịch thơ của Lê Thước
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn,
Son phấn có hồn chôn vãn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nội hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
2.3 Bản dịch của Huệ Thu:
Vườn(cũ) Tây Hồ đã hêt hoa
Thăm nàng, thơ cũ giỡ xem qua
Tình trong phấn bụi tan rồi nhỉ
Mệnh ở văn chương sót đấy à
Nõi hận hỏi trời không tiếng đáp!
Niềm oan đổi bóng,giọt châu sa
Ba trăm năm nữa mơ hồ quá
Nhắc Tố Như này…Ai xót xa?
Viêc dẫn ra đây ba bản dịch không hề tỏ rằng bản dich thứ nhât là hay nhât, còn bản dịch thứ ba là xoàng đâu, mà để chứng một điều: từ một nguyên tác mà có ba cách hiểu tác phẩm, tao nên ba “thi vị” khác nhau: Ông Trần văn Nhĩ mộc mạc,Giáo sư Lê Thước mô phạm, nữ sĩ Huệ Thu phóng khoáng, bay bổng, Thử lấy câu thứ hai để so sánh:”Độc điếu song tiền nhất chỉ thư’ mà ba dịch giả hiểu xa nhau quá!Thế cho nên nếu có một dị bản(異版) tât bản dịch phải khác lạ lắm!
3/ Dị bản “Độc Tiểu Thanh ký (2 )
Một văn bản khác với bản gốc (khác từ dấu phẩy, dấu chấm câu,đặc biệt khác từ,khác tiếng…) đều là dị bản.
Chúng tôi giả định (*) được xem là bản gốc.Còn dị bản chúng tôi dẫn ra đây chỉ khác hai chữ: chữ mai梅 ở câu đầu; chữ thùy誰 ở câu cuối .
Xin đọc lại toàn bài;
獨小青記 Độc Tiểu Thanh ký
西湖 梅 宛盡成墟 Tây Hồ mai uyển tận thành khư
讀吊窗前一紙書 Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
脂粉冇神憐死後 Chi phấn hữu thần lân tử hậu
文 章無命累焚餘 Văn chương vô mệnh lụy phần dư
古今恨事天難問 Cổ kim hận sự thiên nan vấn
風 韻奇冤我自 居 Phong vận kỳ oan ngã tự cư
不 知三百餘年後 Bất tri tam bách dư niên hậu
天下 誰 人泣素如 Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như?
Dịch thơ:
Đọc Tiểu Thanh ký
Vườn cũ hồ Tây mai xác xơ
Viếng ai song vắng một vần thơ.
Phấn son đất lấp,thương còn mãi
Giấy mực tro tàn lụy vẫn lưa
Hận sự xưa nay trời hỏi khó,
Kì oan trăng gió tớ buồn vơ.
Ba trăm năm lẻ người thiên hạ
Chả biết rồi ai khóc Tố Như.
Những thông tin trên đây được rút từ tập “TẤC Lòng” của thi ông Giản Chi. Trươc khi phân tích dị bản, chúng tôi xin cung cấp vài thông tin về dịch giả Giản Chi qua một bải báo có tựa đề: MỪNG THỌ HỌC GIẢ GIẢN CHI 90 TUỔI
“Chiều ngày 4.4.1993( tức ngày 13.3.năm QuýDâu), tại Minh Minh thư uyển(3) đã tổ chức lễ mừng thọ 90 tuổi Cụ Giản Chi, hiện diện đông đảo thi hữu và môn đệ của Cụ.
Học giả Giản Chi đã có nhiều đóng góp trong viêc nghiên cứu, giảng dạy văn học Hán-Nôm ở nước ta nhiều thập niên qua. Đặc biệt bộ Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Nguyễn Hiến Lê), được xem như một tác phẩm mẫu mực về nghiên cứu lý luận và khoa học (NXB TP.HCM tái bản năm 1992)
Cuộc đời của Cụ Giản Ch hêt sức đức độ, khiêm nhường. Cụ đã có công đào tạo nhiều bậc học giả nổi tiếng sau này
Tuy tuổi đã cao nhưng Cu vẫn cố gắng hoàn thành tập thơ “Tấc lòng”, gởi gắm
nhiều tấm sự,nỗi riêng chung trước cuộc đời. Cụ cũng đã dịch xong tập Thơ Vương Duy Cả hai tập thơ sẽ được xuất bản trong năm nay, đánh dấu một mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác , dịch thuậ và biên khảo của học giả Giản Chi”
( Trích trang nhất Tuần báo Văn Nghệ số 85 từ 15 đến 21.4.1993)
Xin trơ lai câu chuyện dị bản. Tổng số bài trong Tấc lòng là bảy mươi, trong đó có 34 bài bằng tiếng Việt và một bài bằng chữ Hán do tác giả sáng tác, còn lại 35 bai
tác giả dịch thơ chữ Hán của các hà thơ trung Quốc và Viêt Nam
Phải thêm rằng ngoài tài thơ Việt, Giản Chi còn sành làm thơ chữ Hán.. Như bài sau:
亂中獨宿雛山 Loạn trung độc túc SỔ SƠN
逐塵強半載 Trục trần cường bán tải
何日卜歸期 Hà nhật bốc quy kỳ
瘡鬧難為夢 Sang náo nan vi mộng
燈寒懶賦詩 Đăng hàn lãn phú thi
旅懷雲漠漠 Lữ hoài vân mạc mạc
舊約月遲遲 Cựu ước nguyệt trì trì
愁絕孤眠夜 Sầu tuyệt cô miên dạ
空山聽子規 Không sơn thính tử qui
Mĩ Đức. 1946. Giản chi
Đêm loạn một mình ngủ ở SỒ SƠN
(Mỹ Đức)
Ra đi quá nửa năm rồi
Chuyện về, biết hẹn với người hôm nao?
Súng rền, đã khó chiêm bao
Đèn lu lây cả biếng vào hứng thơ
Tiền trinh, dõi đám mây thưa
Lời ai còn đó trăng xưa hẹn hò
Gối đơn buồn rộng không bờ
Hỡi quyên khắc khoải, ngọn Sồ chơi vơi.
Giản Chi tự dịch (4)
Nhớ trong Tựa viết năm 1972 cho“Tuyển tập thơ Hán Việt của Đông Xuyên”, Nguyễn Hiến Lê khen tác giả:”” Thi sĩ Đông Xuyên năm nay 66 tuổi…Trong số bằng hữu của tôi, không ai yêu thơ như ông. Sống cuộc đời thanh bạch, liêm khiết như cổ nhân, nhưng lúc “công dư” ông chỉ tìm cái vui trong thơ, và thơ ông cũng có
phong vị của cổ nhân, trang nhã, nhiều nhạc, cảnh chỉ vài nét đơn sơ mà đẹp,tình ý tế nhị mà hàm súc, đặc biệt nhất là ít dùng điển, cảm hứng rất Việt Nam.
Nhưng làm thơ hay chưa chắc đã dịch thơ khéo, Ông Đông Xuyên được cả hai...”” Có thế học giả thi sĩ Giản Chi cũng rất xứng đáng với lời khen trên…Làm thơ hay và dịch thơ khéo, hơn thể ông còn tài tử nữa. Thì đây, trong Tấc Lòng phần dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ông chỉ chọn ba bài( ) mà trong hai bài đã có vài câu chữ khác với các bản ta thường thấy trong các tuyển tập Thơ chữ Hán (TT) của Nguyễn Du rồi.
Ví dụ hầu hết trong các (TT), đều chú thích hành trình đi sứ, Nguyễn Du không đi qua nơi sinh của Dương Quý Phi, nên mới có đề bài thơ Dương Quý Phi Cồ lý(Làng quê cũ của Dương Quý Phi). Nhưng Giản Chi lại quan niệm là Nguyễn Du có đi qua, vì thế ông đặt tên bài thơ là Quá Dương Quý Phi cố lý . Thử hỏi ông dựa vào thông tin nào để viết như thế? Và cái mà chúng tôi gọi Dị bản Độc Tiểu Thanh ký do cụ Giản Chi lấy chữ” mai” thay vì chữ “hoa”; chữ “thùy” thay vì chữ “hà”, chắc phải có nguyên nhân nào đó, chứ nếu quy cho người đã khuất tùy tiện, tài tử thì thật bất kính.
Vậy mong bạn đọc trong giới thạo nghiệp thơ văn hãy tìm lời giả đáp, hầu gỡ bí cho chúng tôi, chúng tôi xin cảm ơn nhiều.
Đào Văn Khởi
Tài liệu dẫn
(1) Trần Văn Nhĩ- Dịch giả- Thơ Chữ Hán NGUYỄN DU NXB Văn Nghệ .2007.
(2) Giản Chi Tấc Lòng NXB Văn Hóa 1993
(3) Minh Minh Thư Uyển là biệt xá của thi sĩ Thanh Vân và Như Hiên, V9 bia C.X Bắc Hải Q10 T/P HCM .
(4) Từ Tấc Lòng